Ngăn Chặn, đẩy Lùi Sự Suy Thoái Về TTCT, đạo đức,lối Sống,những ...

Khi bàn luận về công tác xây dựng Đảng, nhà triết học Lê nin có quan điểm cho rằng: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta ngoài những sai lầm của bản thân”. Chiến thắng những kẻ thù hữu hình là điều khó nhưng đánh bại kẻ thù tại tâm còn là một thử thách. Trước sự nghiệp đổi mới của đất nước ta có những thuận lợi và thách thức thì một trong những nguy cơ lớn nhất hiện nay của Đảng đó chính là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhận thức được tính chất nguy hiểm của vấn đề trên, Đảng ủy Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định nói chung, Chi bộ Văn phòng Tổng hợp nói riêng đã quán triệt, triển khai từ đó đề ra biện pháp phòng, chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, Đảng viên.

Ngày nay, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội, v.v... làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Nhận rõ tính chất nguy hiểm của biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, những năm qua, trong nhiều kỳ đại hội, hội nghị Trung ương, Đảng ta từng cảnh báo về tình trạng này. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”. Tiếp đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá XI) đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện cụ thể về “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng ta hiện nay là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện, vô nguyên tắc”. Tình trạng này “làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Do vậy, Trung ương yêu cầu phải “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng một lần nữa chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”. Những năm tới, Đảng ta yêu cầu đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm, trong đó cần tập trung nhiệm vụ: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Quá trình này diễn ra nhanh chóng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hay kết cấu với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có quan hệ chặt chẽ với “diễn biến hòa bình”. “Diễn biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đến lượt nó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, trong đó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhân tố bên trong quan trọng nhất.

Những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay làm vai trò lãnh đạo của Đảng bị giảm sút; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.

“Tự diễn biến” ở phạm vi tổ chức là có những thay đổi ở tầm quản lý vĩ mô về đường lối, chủ trương, pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí làm suy yếu và tan rã tổ chức đó. “Tự diễn biến” đối với cá nhân là sự thay đổi về nhận thức chính trị- xã hội, thay đổi về quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên nhận thức chính trị và hành động xa rời, thậm chí đi ngược lại chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm tư tưởng của Đảng. “Tự diễn biến” của cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ chức.“Tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với cá nhân trong tổ chức đó. “Tự diễn biến” do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở đây chủ yếu nói đến nguyên nhân chủ quan của cán bộ, đảng viên, như: lập trường, tư tưởng không vững vàng, thiếu bản lĩnh chính trị, hoang mang, dao động trước tác động của các yếu tố bên ngoài; thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân thường xuyên; không chủ động học tập, nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh… “Tự chuyển hóa” là hậu quả tất yếu của quá trình “tự diễn biến”, nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là thời điểm đã có sự thay đổi về bản chất.

Biểu hiện chuyển hóa chính trị ở Việt Nam xuất hiện từ hai hướng: Một mặt, đó là âm mưu và hoạt động tác động chuyển hóa chính trị của các thế lực thù địch. Mặt khác, đó là sự “tự chuyển hóa” chính trị của nội bộ ta. Hai hướng này có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Yếu tố bên ngoài thúc đẩy, tạo điều kiện cho yếu tố bên trong; yếu tố bên trong tạo sự chú ý và điều kiện thuận lợi cho yếu tố bên ngoài. Trong đó, “tự chuyển hóa” bên trong sẽ quyết định sự thay đổi về chính trị nên hết sức nguy hiểm. Do vậy, phương châm, nguyên tắc bảo đảm an ninh nội bộ, phòng, chống chuyển hóa chính trị phải chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là trước tiên.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ là sự suy thoái từ bên trong; là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, làm mất dần các chuẩn mực của người cộng sản, dẫn đến xa rời những nguyên tắc, quan điểm mácxít; suy giảm nghiêm trọng niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đến khi những yếu tố cách mạng, tích cực bị phai nhạt, triệt tiêu, tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa tăng dần, thắng thế, lúc đó sẽ dẫn đến sự “tự chuyển hoá” cán bộ, đảng viên từ người tốt trở thành phần tử chống đối Đảng, Nhà nước. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” sẽ gây ra tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ các cơ quan, tổ chức; một bộ phận trong đội ngũ trí thức, luật sư, báo chí, văn nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng muốn thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Nếu không được ngăn chặn kịp thời, triệt để sẽ dẫn đến tổ chức bị suy thoái, tự tan rã. Khi “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” diễn ra ở tầm vĩ mô sẽ dẫn đến sự chuyển hoá từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang chế độ tư bản chủ nghĩa.

Trong tiến trình cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm giáo dục, rèn luyện, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện, Đảng ta đã đưa “nêu gương” trở thành một phương thức lãnh đạo của Đảng và thành phần cốt yếu của văn hóa Đảng. Trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay, một trong số nhiều giải pháp quan trọng, nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ, Đảng ta luôn đề cao vai trò “nêu gương” của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Đây là phương pháp đúng đắn, hiệu quả và là yêu cầu bức thiết trong tình hình hiện nay.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã xác định và nhận diện rõ những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên và đưa ra các giải pháp cụ thể. Thực hiện các Nghị quyết này, Ban Bí thư đã ban hành Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”, Quy định số 47 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 55 của Bộ Chính trị khoá XII về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên và gần đây nhất là Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCHTW (Quy định số 08-QĐ/TW ngày 25/10/2018 của Ban chấp hành Trug ương Đảng).

Cách đây nhiều năm, khi thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, Ban Bí thư đã ban hành Quy định số 101 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Quy định nêu rõ bảy nội dung nêu gương: về tư tưởng chính trị; về đạo đức, lối sống, tác phong; về tự phê bình, phê bình; về quan hệ với nhân dân; về trách nhiệm trong công tác; về ý thức.

tổ chức kỷ luật; về đoàn kết nội bộ. Như vậy có thể thấy, vấn đề nêu gương của người lãnh đạo rất quan trọng. Quan trọng bởi vì họ là người thực hành phong cách này đầu tiên; bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dành nhiều tâm huyết nói về sự gương mẫu, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” của người công bộc của dân.

Bác căn dặn: “... Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Bác nói về sự nêu gương rất mộc mạc, đó là sự làm mực thước, là cái chuẩn cho người khác theo. Người xưa nói “vệt mực Tầu làm đau thân gỗ vẹo”. Ông thợ mộc khi xẻ gỗ cứ theo vết mực, thẳng băng, dứt khoát. Người cán bộ phục vụ cách mạng thì coi phép công là chuẩn mực, dù có “thương” cũng phải bỏ trong lòng. Đó là sự nêu gương về ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật.

Từ đó, Bác Hồ chỉ rõ: Nêu gương là phương pháp dùng sự việc tốt, con người điển hình tiên tiến, để tác động mạnh mẽ đến người khác, khiến họ khâm phục, tán thành và noi theo.

Bản chất của phương pháp nêu gương xét ở góc độ tâm lí chính là sự “bắt chước”, là hiện tượng tự nhiên của con người, họ bắt chước nhau một cách có ý thức, dựa trên những hiểu biết, sự phát triển trí tuệ, kinh nghiệm đạo đức và vốn sống của từng người. Vì thế, lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới và cuộc sống mới.

Và để nêu gương thì trước hết bản thân: phải làm gương, trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nói phải đi đôi với làm. Phải quyết liệt chống căn bệnh kinh niên: nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo. có thể gọi đó là nói suông. Trong sự nêu gương không chỉ có nói đi đôi với làm, mà chú ý cả hai mặt: nêu gương nói và nêu gương làm.

Nêu gương nói là nói ít, nói trúng, nói những vấn đề thiết thực, nói đúng lòng mình, thật tâm, ko dối trá. Cán bộ ta không phải ai cũng có khả năng hùng biện, nói hay như báo cáo viên, nhưng nói thật, nói phải, nói trúng thì ai cũng nhận ra cả. Được như thế thì câu nói mang hàm ý chê trách “nói vậy mà không phải vậy” sẽ dần bị quên đi, bị xóa đi trong bầu không khí dân chủ, thẳng thắn và trách nhiệm.

Nêu gương nói còn là nêu gương về sự nghiên cứu thấu đáo, nắm vững tình hình. Người xưa dặn “Bất học thi, vô dĩ ngôn” ( tức là không học thì lấy cái gì mà nói). Không sát cơ sở, chỉ đạo theo kiểu ngồi bàn giấy thì chẳng bao giờ nói trúng. Còn vấn đề nêu gương làm: được hiểu một cách đơn giản nhất là dám nghĩ dám làm, trách nhiệm cao, hiệu quả công việc lớn.Thấm nhuần tư tưởng đó của Bác Hồ, cán bộ ngành KSND- nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cần thực hiện tốt những yêu cầu sau:

Một là, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị, cán bộ lãnh đạo:

- Phải nâng cao nhận thức, nêu cao tinh thần trách nhiệm;

- Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, tự giác, gương mẫu trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;

- Gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Việc nêu gương phải theo phương châm “Trên trước, dưới sau”, “Trong trước, ngoài sau”, “Nói đi đôi với làm theo”;Cấp ủy viên nêu gương cho đảng viên, Đảng viên nêu gương cho quần chúng; Cán bộ cấp trên nêu gương cho cán bộ cấp dưới;Thủ trưởng cơ quan, đơn vị nêu gương cho cán bộ, Kiểm sát viên.

Hai là, việc nêu gương của cán bộ chủ chốt phải thể hiện toàn diện trên các mặt về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong;Tự phê bình và phê bình; quan hệ với nhân dân; trách nhiệm trong công tác; ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ...

Trong đó, nêu gương về trách nhiệm trong công tác: Cần nêu cao ý thức trách nhiệm, tận tụy với công việc; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; tích cực học tập, nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến công tác. Chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, đã nói thì phải làm. Hiểu và thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; làm việc có nguyên tắc, kỷ cương, có lý, có tình; không lạm dụng chức vụ, quyền hạn khi giải quyết công việc; chống các hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy thi đua và các biểu hiện tiêu cực khác. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ, bè phái, chia rẽ gây mất đoàn kết và các biểu hiện cơ hội, thực dụng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm tiêu cực”.

Ba là, đối với cấp ủy đảng, đảng bộ, chi bộ:

Có trách nhiệm lãnh đạo nâng cao nhận thức, nắm vững về ý nghĩa, mục đích, yêu cầu về trách nhiệm nêu gương trong mọi tổ chức và hoạt động của tổ chức; chú trọng phát hiện, tạo nguồn cán bộ cấp chiến lược, có tiêu chí để “sàng lọc” cán bộ.

Đồng thời, cần có quy định về trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị về việc đào tạo, tiến cử người kế cận; cấp ủy của cơ quan phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.

Bốn là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo: phải tự rèn luyện, trau dồi mọi mặt để thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt.

Tại Hội nghị Trung ương 7, đồng chí Tổng Bí thư đã đặt ra câu hỏi: đối với cán bộ, coi trọng đức hay tài, hay coi trọng cả hai?

Cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng: cần phải trong sạch, không lợi ích nhóm; tức là phải lấy đức làm gốc, thể hiện tính chân chính của bộ máy, bảo đảm giữ lòng tin trong nhân dân và trong nội bộ Đảng. Khi đánh mất hết lòng tin ấy thì nhất định sẽ thất bại và đổ vỡ.

Tất nhiên chỉ có đức không thôi thì chưa đủ, cần có tài nữa, phải coi trọng đồng thời, nhưng phải trên cơ sở của đức, cái nền của đức.

Như Bác Hồ từng nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có tài mà không có đức thì là người vô dụng”.

Chúng ta coi trọng năng lực nghiệp vụ, khả năng quản lý, chỉ đạo điều hành. Nhưng chúng ta dứt khoát phải đề cao phẩm chất của đội ngũ cán bộ chủ chốt. Không có phẩm chất đạo đức tốt, người lãnh đạo quản lý không những không hoàn thành nhiệm vụ được giao mà còn gây tổn hại đến tổ chức, làm mất lòng tin của cán bộ trong ngành, của nhân dân, mất uy tín của cả tập thể đơn vị và của ngành Kiểm sát.

Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, điều hằng ngày, hằng giờ những người có chức, có quyền phải tự thắng mình là nêu gương về đạo đức, lối sống. Một câu hỏi đặt ra: cơ chế nào để ràng buộc người cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt nêu gương? Hay chỉ trông đợi vào sự tự giác? Phải nói rằng không có cơ chế nào cụ thể yêu cầu bắt buộc cán bộ, đảng viên nêu gương, nhưng toàn bộ các nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết TW 4 (khóa XII), nhất là về công tác kiểm tra, giám sát có thể coi là tiêu chí đánh giá cán bộ. Bởi khi mỗi người làm việc thật sự say mê, tận tụy, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất cho mình, cho tập thể thì không ai nghĩ mình đang làm việc này là để nêu gương cho người khác.

Nói về biện pháp phòng, chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, Đảng viên. Trước hết phải nêu cao tinh thần nêu gương đối với người cán bộ, đảng viên ngành Kiểm sát- nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chúng ta hôm nay, nhân dân luôn trông đợi ở những việc làm mắt thấy, tai nghe. Anh em cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành muốn nhìn thấy gương sáng mà mọi người đều có thể học được, chứ không phải là những điều quá cao xa. Tính thuyết phục của sự nêu gương là ở đó. Hãy khoan nói tới những điều to tát. Hãy bắt đầu từ những việc bình thường trong cuộc sống, trong lối sống của mỗi người. Những đồng chí cán bộ chủ chốt có đủ cả “uy” và “tín” chắc chắn là những người thường xuyên nêu gương về mọi mặt.

Từ những phân tích trên toàn thể các đồng chí đảng viên trong Đảng bộ Viện kiểm sát tỉnh Bình Định phải nghiêm túc tự nhìn nhận, soi xét; cố gắng phấn đấu, rèn luyện để làm sao bản thân mỗi người thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; tự trau dồi, đạt trí tuệ ngang tầm để đảm nhận trách nhiệm trước Ðảng, trước nhân dân, trước ngành. Có tinh thần trách nhiệm cao, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, đặt lợi ích của Ðảng và nhân dân lên trên hết. Trong sạch, tiên phong đi đầu trong cuộc vận động, xây dựng, chỉnh đốn Ðảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với việc gương mẫu thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "Ðẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh". Có như vậy, người lãnh đạo quản lý mới trở thành tấm gương cho cán bộ, Kiểm sát viên noi theo, góp phần xây dựng ngành trong sạch vững mạnh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó./.

Từ khóa » Không Suy Thoái Về Tư Tưởng Chính Trị