Nghệ Thuật Tổ Chức đánh Giặc Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Tống ...

Trước kế sách “Đánh gấp như tiếng sấm, đối phương không kịp bịt tai” của giặc Tống năm 981, quân và dân Đại Cồ Việt dưới sự chỉ huy của vua Lê Đại Hành đã đoàn kết, thống nhất - “vua tôi đồng lòng”, đập tan mưu đồ tiến công Đại La, đánh chiếm Hoa Lư của nhà Tống, bảo vệ vững chắc non sông, bờ cõi đất Việt.

Lợi dụng việc vua Đinh Tiên Hoàng và con trai Đinh Liễn bị sát hại, nội bộ triều đình nhà Đinh rối ren, triều đình nhà Tống quyết định đem quân xâm lược Đại Cồ Việt. Để thực hiện mưu đồ này, nhà Tống tổ chức điều tướng, động sĩ, thành lập các đạo quân, phong Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu lộ thủy lục kế độ chuyển vận sứ đảm nhiệm chỉ huy tiền quân; Tôn Toàn Hưng chức Lục lộ binh mã bộ thư chỉ huy quân bộ và Lưu Trừng chỉ huy đạo thủy quân. Kiêu ngạo vì có “quân hùng, tướng mạnh”, vua tôi nhà Tống hy vọng có thể đánh úp quân, dân Đại Cồ Việt bằng những đòn tiến công bất ngờ, dồn dập, khiến đối phương không kịp trở tay và từ đó giành thắng lợi một cách dễ dàng cho cuộc Nam chinh. Năm 981, quân Tống tiến hành xâm lược Đại Cồ Việt theo đường bộ và đường thủy đánh vào thành Đại La, phát triển về Hoa Lư: đạo tiền quân bộ của Hầu Nhân Bảo đánh theo đường Ung Châu - Ngân Sơn - Đại La; đạo quân bộ thứ hai do Tôn Toàn Hưng chỉ huy tiến đánh theo hướng Ung Châu - Lạng Sơn - Đại La và đạo thủy quân của Lưu Trừng xuất phát sau, theo đường sông Bạch Đằng (Quảng Châu - Bạch Đằng - Đại La) sau đó hội quân cùng đạo quân bộ đánh chiếm Đại La và Hoa Lư.

Bãi cọc trên sông Bạch Đằng, nơi diễn ra trận thủy chiến giữa quân và dân Đại Cồ Việt với quân Tống năm 981. Ảnh: baotanglichsu.vn

Trước họa xâm lăng của nhà Tống và do vua Đinh Toàn còn nhỏ (06 tuổi) không thể gánh vác việc nước, Thái hậu Dương Vân Nga cử Thập đạo tướng quân Lê Hoàn làm Tổng chỉ huy, chuẩn bị kháng chiến. Mùa Thu năm 980, trong buổi hội triều bàn kế chống giặc, được trọng thần danh tướng tiến cử, quân sĩ đồng tình ủng hộ, văn võ bá quan trong triều suy tôn, Thái hậu Dương Vân Nga vì vận nước, gác việc nhà, lấy áo Long cổn dâng cho Lê Hoàn và mời ông lên ngôi. Sau khi lên ngôi, một mặt Lê Hoàn tiếp tục củng cố triều chính, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến; mặt khác, cử người đi sứ sang nhà Tống dâng biểu xin tập vị cho Đinh Toàn, dò xem thế lực quân giặc và tìm kế hoãn binh. Bất chấp những nỗ lực ngoại giao của Triều đình nhà Lê, nhà Tống vẫn quyết tâm thôn tính Đại Cồ Việt. Với tài thao lược của mình, Vua Lê Hoàn cùng Bộ Chỉ huy kháng chiến tổ chức, động viên quân và dân cả nước đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp, đánh bại cuộc xâm lược của giặc Tống. Cuộc kháng chiến chống Tống thể hiện tinh thần đoàn kết “vua tôi đồng lòng” của triều Lê và nghệ thuật bày binh, bố trận, tổ chức đánh giặc tài tình của Bộ Chỉ huy kháng chiến.

Trước hết, thực hiện “tĩnh vi dân, động vi binh”, tổ chức, động viên toàn dân tham gia đánh giặc. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, Đinh Tiên Hoàng đã thiết lập chế độ trung ương tập quyền, chia cả nước thành 10 đạo (mỗi đạo tương đương với một tỉnh ngày nay). Cùng với đó, nhà vua còn định ra quy chế thập đạo quân: “Đinh Tiên Hoàng, năm thứ 5 (974), định ngạch quân 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người”1, theo đó, cả nước có 10 đạo quân. Nếu tính theo quy chế trên thì nước ta khi đó có đến 100 vạn quân, nhưng thực chất đây là một quy chế tổ chức quân sự (thập đạo quân) được định sẵn để có thể động viên tối đa nguồn nhân lực của đất nước, sung vào đội quân của triều đình và quân của các địa phương sẵn sàng đánh giặc, giữ nước. Kế thừa di sản quý báu của triều Đinh cùng kinh nghiệm trận mạc của một vị tướng, Vua Lê Đại Hành điểm dân làm lính, lấy người khỏe mạnh sung vào quân Túc vệ. Đồng thời, xuống chiếu cho các đạo nhanh chóng xây dựng đội dân binh, có nhiệm vụ dẹp phản loạn, cướp bóc, bảo vệ người dân, tham gia chặn đánh, đẩy lui quân giặc khi chúng xâm phạm non sông, bờ cõi. Nếu quân giặc đông, thế giặc mạnh, quân của các đạo không đánh được thì có nhiệm vụ chặn giặc, làm chậm bước tiến, không cho chúng tiến sát kinh thành để chờ quân của triều đình đến đánh. Ngoài ra, nhà vua còn động viên các làng xây dựng đội dân binh của làng là những người khỏe mạnh hằng ngày vẫn làm việc đồng áng, sống cùng gia đình, đến phiên họ là những người làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ làng, khi có giặc thì tham gia đánh giặc, giữ nước. Những việc làm đó đã chứng minh khả năng trị quốc, tài thao lược của Lê Đại Hành: “Vua chống quân Tống, bình nước Chiêm, chốn hoa hạ và man di đều hãi sợ”2; “Nói về trị nước thì vua để ý đến việc thường dùng của dân, dốc lòng về quốc chính, trọng nông nghiệp, cẩn thận về biên phòng, quy định pháp lệnh tuyển dân làm lính, đổi đặt châu phủ, chia đặt các phiên trấn, kể cũng cố gắng chăm chỉ lắm”3.

Như vậy, ngay từ thời Đinh, Tiền Lê, Đại Cồ Việt đã có đội quân chính quy và luôn được nhà vua quan tâm xây dựng, gồm: quân cấm vệ, quân vương hầu và dân binh (quân gửi trong dân). Chính việc gửi quân trong dân đã giúp triều đình giảm được gánh nặng, không phải sử dụng ngân khố để chăm lo cho quân sĩ, nhưng vẫn bảo đảm luôn có một đội quân hùng mạnh, sẵn sàng ứng phó với các đợt tiến công bất ngờ của giặc, đủ sức đập tan đội quân xâm lược, bè lũ cướp nước đông hơn, mạnh hơn ta nhiều lần.

Thứ hai, lựa chọn và xây dựng những khu vực quyết chiến với giặc chắc, hiểm, có thế đánh, thế giữ. Sớm phát hiện mưu đồ xâm lược của nhà Tống, vua tôi nhà Tiền Lê đã không bị động ngồi chờ giặc đến để đánh mà vạch ra kế hoạch cụ thể, tổ chức chặn đánh quân giặc ngay từ ngoài biên ải, trên các trục đường, không cho chúng hội quân, hợp vây, chi viện, hỗ trợ cho nhau. Tổ chức lựa chọn và xây dựng những khu vực quyết chiến với giặc vững chắc, hiểm hóc, có thể bài binh, bố trận và giấu binh. Theo đó, vua Lê Đại Hành đã trực tiếp đi thị sát, nắm tình hình, xác định địa hình, địa thế, những khu vực có giá trị về quân sự trên các trục đường thủy, đường bộ mà quân giặc dự kiến sẽ đi qua để xây dựng các khu vực quyết chiến với giặc. Nơi được chọn là khu vực có các vật cản thiên nhiên, có chính diện, chiều sâu, thế đánh, thế giữ, tiện cơ động, chi viện, di chuyển linh hoạt và phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, phương tiện. Đó là: (1) Khu vực Bình Lỗ (ở cuối dãy Tam Đảo, thuộc Đa Phúc, Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay)4. Đây là doi đất cao, có thế hiểm yếu với hình dạng giống như một chiếc móng ngựa, chỗ rộng nhất lên đến trên 700 m, hơn 2/3 chu vi được bao bọc bởi dòng sông Cà Lồ tạo thành con hào thiên nhiên khó vượt qua, phía sau là rừng rậm thuận lợi cho việc mai phục. Tại đây, Vua Lê Đại Hành đã cho xây dựng hệ thống công sự phòng thủ - một tòa thành, là chỗ dựa vững chắc để quân và dân ta chặn đánh đạo tiền quân của giặc. (2) Khu vực Tây Kết (Việt Yên, Bắc Giang)5, là khu vực rộng lớn nằm về phía Nam cánh đồng Tây Kết, có địa thế hiểm yếu, thuận lợi cho việc bố trí quân triều đình và lực lượng dân binh, đủ sức tiêu diệt lớn quân giặc tại đây. (3) Sông Bạch Đằng. “Sông Bạch Đằng có tên gọi nữa là sông Vân Cừ, rộng hơn 02 dặm, ở đó có nhiều núi cao ngất, nhiều ngành sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến, thực là một nơi hiểm yếu về đường biển”6. Biết được địa thế hiểm yếu của sông Bạch Đằng, kế thừa và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm đánh quân Nam Hán của Ngô Quyền, Vua Lê Đại Hành đã cho xây dựng một trận địa cọc kiên cố nhằm ngăn chặn đạo thủy quân của giặc từ biển tiến vào, đồng thời bố trí quân thủy, bộ, bí mật mai phục trên sông và hai bên bờ sông để chặn đánh giặc.

Thứ ba, chọn đúng đối tượng, tổ chức lực lượng hợp lý trên các hướng, khu vực quyết chiến với giặc. Để đánh bại mưu đồ sử dụng đạo tiền quân đánh úp quân, dân Đại Cồ Việt, như “sét đánh không kịp bịt tai” và cái thế vẹn toàn “xô bẻ cành khô gỗ mục, không phải lo tốn một mũi tên” cùng kế hoạch hội quân, hợp vây đánh chiếm Đại La và Hoa Lư của nhà Tống, vua tôi nhà Lê đã lựa chọn đội tiền quân của giặc do Hầu Nhân Bảo chỉ huy là đối tượng quyết chiến. Đây là đạo quân do viên tướng có kỷ luật, nhiều tham vọng, liều lĩnh, hiếu chiến và có quyết tâm thực hiện kế hoạch của Tống triều chỉ huy. Nếu đánh tan đạo tiền quân này, giết chết chủ tướng, sẽ nhanh chóng làm suy sụp tinh thần chiến đấu của quân giặc và tác động đến toàn cục cuộc xâm lăng. Theo đó, trên hướng Ngân Sơn - Đại La, nhà Vua tự mình làm tướng, trực tiếp chỉ huy đội quân triều đình, dân binh và thổ binh, tổ chức bố phòng chặt chẽ, chặn đánh giặc tại thành Bình Lỗ, quyết không để cho chúng tiến đánh Đại La và Hoa Lư. Theo sử cũ, tại thành Bình Lỗ đã diễn ra trận quyết chiến giữa quân ta với quân giặc, quân ta giành thắng lợi, quân giặc buộc phải lui về Ninh Giang. Sau trận Bình Lỗ, Vua Lê Đại Hành lại bố trí một trận địa mai phục trên sông Đồ Lỗ, đạo tiền quân của giặc đã mắc kế trá hàng của ta, cơ động từ Ninh Giang xuống và bị quân ta tiêu diệt. Thắng lợi này phá sản mưu đồ của giặc là dùng đạo tiền quân bất ngờ đánh thốc vào đại quân ta, đồng thời gây hoang mang, giảm nhuệ khí chiến đấu của đội quân xâm lược Tống triều.

Trên sông Bạch Đằng, với địa thế hiểm yếu tự nhiên, Bộ Chỉ huy kháng chiến đã bố trí ở đây không quá nhiều quân sĩ mà vẫn có thể cầm giữ, ngăn cản bước tiến của giặc. Thực tiễn, đạo thủy quân của nhà Tống do Lưu Trừng chỉ huy, sau khi vượt qua vùng biển phía Đông Bắc tiến vào sông Bạch Đằng đã bị quân và dân ta tiến công, quân giặc bị tổn thất nặng nề, nên không dám tiến quân theo kế hoạch, mà vội vàng tháo chạy về nước.

Hướng Lạng Sơn - Đại La, đạo quân bộ của Tôn Toàn Hưng ở Hoa Bộ không chịu xuất quân mà nằm đợi đạo thủy quân của Lưu Trừng sang hợp vây tiến đánh Đại La và Hoa Lư, riêng đạo quân bộ do Trần Khâm Tộ chỉ huy đánh chiếm Đại La đã đến khu vực Tây Kết. Khi nghe tin đạo tiền quân của Hầu Nhân Bảo và đạo thủy quân của Lưu Trừng bị đánh tan tác, đạo quân của Tôn Toàn Hưng hoảng sợ, từ hậu quân chuyển thành tiền quân rút chạy, quân của Trần Khâm Tộ ở Tây Kết bị cô lập, không có quân chi viện, ứng cứu. Chớp thời cơ “Vua đem các tướng đuổi đánh quân giặc, quân của Trần Khâm Tộ thua to, chết quá nửa, thây chất đầy đồng, bắt được tướng là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân giải về Hoa Lư”7. Cuộc tiến công, truy kích quân giặc của vua tôi nhà Tiền Lê tại Tây Kết đã giáng đòn quyết định vào cuộc Nam chinh của nhà Tống, đồng thời kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống giặc, giữ nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược lần thứ nhất diễn ra cách đây hơn một nghìn năm để lại nhiều bài học quý. Bài học phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nòng cốt là sức mạnh của quân triều đình, dân binh, thổ binh; nghệ thuật bố phòng, tổ chức xây dựng, sử dụng lực lượng đánh địch,… vẫn còn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang, khu vực phòng thủ, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Đại tá HOÀNG MẠNH DU, Học viện Quốc phòng _________________

1 - Phan Huy Chú – Lịch triều Hiến chương loại chí, Tập III, Nxb KHXH, H. 1992, tr. 07.

2 - Sđd, Tập I, tr. 192.

3 - Sđd, Tập I, tr. 192

4 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam – Nghệ thuật lịch sử quân sự Việt Nam cổ, trung đại, Tập 1, Nxb QĐND, H. 1985, tr. 71.

5 - Sđd, tr. 71.

6 - Quốc sử quán triều Nguyễn – Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập I, Nxb GD, H.1998, tr. 223.

7 - Đại Việt sử ký toàn thư – Nxb KH&XH, H. 1972, tr. 139.

Từ khóa » Trình Bày Cuộc Kháng Chiến Chống Tống Lần 1