Nghi Le Tom Luoc

Tang-lễ là một hình-thức phô-diễn bên ngoài, có tính cách qui-cũ chuẩn-thằng của tổ-chức Tôn-Giáo. Đó là Thể-Pháp rất ảnh-hưởng đến Bí-Pháp vô-vi. Theo lời dạy của Đức Hộ-Pháp: “... Không có một điều gì mà Chí-Tôn định trong Chơn-giáo của Ngài, dầu Bí-Pháp, dầu Thể-Pháp mà vô ích đâu. Đấng ấy là Đấng tưng-tiu, yêu-ái con cái của Ngài lắm; Thoảng có một điều gì không cần ích, mà con của Ngài nói rằng không muốn Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày khai Đạo, kinh-kệ, lễ bái, sự chi sắp-đặt về đạo-đức cũng chính Đức CHÍ-TÔN tạo-thành, không phải do các Đấng khác; Ngài buộc mình làm tất có cần-yếu hữu-ích chi đó Ngài mới buộc ...” (Trích “Lời Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp”, quyển 2 trang 154.)

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Đoä là một Tôn-Giáo có tôn-chỉ: Qui Tam-Giáo, Hiệp Ngũ-Chi; Tức là phối-hợp triết-lý của các Đạo-Giáo. Vì vậy với Thánh-ý Đức CHÍ-TÔN và các Đấng Thiêng-Liêng, cho nên những bậc tiền-bối trong nền Đại-Đạo đã dày-công nghiên-cứu, châm-chước và biên-soạn ra các nghi-lễ dùng trong việc Quan-Hôn, Tang-Tế, rồi dâng lên Quyền Thiêng-Liêng phê-chuẩn. Ấy vậy nghi-lễ trong nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ không phải do ai tự-ý bày vẽ ra, mà là một công-trình chung (Thiên-Nhơn hiệp nhứt), trong một lề-lối đồng nhứt áp dụng cho tất cả toàn Đạo.

Thế nên: “... Những sự sửa-đổi về nghi-lễ do ý riêng của mình thì rất nên tai-hại, vì nó làm cho tổ-chức Tôn-Giáo tại mỗi địa-phương có hình-thức một nhóm riêng. Dần dần theo thời-gian, những sự khác biệt ban-đầu coi nhỏ bé, sau sẽ lớn dần ăn sâu vào tâm-trí nhơn-sanh thì sự thất kỳ truyền cũng do nơi đó mà ra.” Trích “Lời Nói Đầu” của Hội-Thánh, quyển “Hạnh-Đường Bàn-Trị-Sự”)

1- Tang Lễ Cho Bổn Đạo Ăn Chay Từ Mười Ngày Trở Lên

Nghi-lễ cầu bệnh cho bổn-đạo “Hạnh-Đường Bàn-Trị-Sự”

Hành-lễ 3 đêm:

- Đêm thứ 1: Vào thời Dậu (ở Việt-Nam, còn ngoại-quốc thì tùy theo hoàn-cảnh.) Thiết-lễ Đức CHÍ-TÔN có thượng-sớ (dâng Tam-Bửu) do Bàn-Trị-Sự dâng sớ. Trước khi nhập Đàn lên nhang đèn bàn-thờ ông-bà cho gia-quyến bệnh-nhân cầu-nguyện, buộc gia-quyến phải cúng Thầy để cầu-nguyện. Cúng Thầy xong bãi Đàn, rồi tiếp tụng “Di-Lạc” và 3 biến “Cứu-Khổ”. (Tụng “Di-Lạc”“Cứu-Khổ” càng nhiều càng tốt.)

- Đêm thứ 2: Y như đêm thứ 1, nhưng không dâng sớ, chỉ dâng Trà, nhưng vẫn chưng đủ Tam-Bửu trên Thiên-Bàn; (Để cầu-nguyện thỉnh Rượu và nước Âm-Dương cho bệnh-nhân uống.)

- Đêm thứ 3: Cũng y như đêm thứ 2, là xong nhiệm-vụ của Bàn-Trị-Sự; Nhưng nếu gia-quyến yêu-cầu tụng “Kinh Sám-Hối” thì Bàn-Trị-Sự buộc gia-quyến cùng bệnh-nhân phải giữ trai-giới trọn 3 ngày đêm để tụng “Kinh Sám-Hối”; (trong gia-quyến quì, nếu Bàn-Trị-Sự muốn quì thì tùy-ý.)

Chú-ý: Bàn-Trị-Sự chưa thọ Pháp giải bệnh thì làm như sau: Khi cúng Thầy xong (chưa bãi Đàn), nếu bệnh-nhân còn đi được, trong gia-quyến đỡ bệnh-nhân đến trước Thiên-Bàn cho bệnh-nhân lạy cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN vị chứng Đàn vào quì cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN thỉnh ly rượu giữa rửa mặt cho bệnh-nhân, kế thỉnh hai chung nước Âm-Dương ký tế lại (là kê 2 miệng chung cho hai mặt nước giao-nhau rồi đổ thống-nhất vào ly riêng rồi cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN ban phép cho bệnh-nhân uống, nhớ khi uống phải niệm: “Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” 3 lần, uống xong bệnh-nhân lạy 3 lạy rồi đỡ dậy bước ra bãi Đàn. Trừ khi nếu có Chức-Sắc thọ Pháp giải-bệnh thì tùng người mà hành-lễ.

Phần cầu bệnh ngoại-lệ

Nếu gia-đình bệnh-nhân không rước Bàn-Trị-Sự đến tư-gia dâng sớ cầu-nguyện, mà chỉ nhờ Thánh-Thất hay Điện-Thờ cầu-nguyện, tụng “Kinh Di-Lạc”, “Cứu-Khổ” thì cũng đọc như có dâng sớ, nghĩa là đến chỗ “Cứu-hộ đệ-tử . . . nhứt thân ly khổ-nạn ...” Mặc dầu không dâng sớ, mà tâm thành thì Đức CHÍ-TÔN cũng đã chứng, vì “... nơi lòng Thầy ngự động Thầy hay ...”

Còn người ngoại Đạo mà họ tin-tưởng muốn nhờ ta cầu-nguyện tụng kinh cho họ, thì đến chỗ “... cứu hộ đệ-tử ....” thì ta đọc “... cứu-hộ ...” chớ không đọc “... cứu-hộ đệ-tử ...” vì chưa là môn-đệ Đức CHÍ-TÔN.

*

Cầu-hồn khi hấp-hối và khi đã chết rồi

Bàn-Trị-Sự lo nghi-lễ cúng Thầy trước (dầu chưa đúng giờ cúng Tứ-Thời.) Nếu đúng giờ cúng, Thời nào thì dâng Bửu nấy; Nếu ngoài giờ cúng Tứ-Thời thì: Dâng đủ Tam bửu.

................................................................................................

Sau khi cúng Thầy xong, vị chứng Đàn và 2 vị Chức-Việc vào lạy Thầy cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN rằng: “Chúng con là Bàn-Trị-Sự đương quyền-hành chánh-sở tại, được lời thỉnh-cầu của vị ... đến cầu-hồn cho vị đạo-hữu ... đã hấp-hối, mong nhờ Đức CHÍ-TÔN và Đức PHẬT-MẪU cùng các Đấng Thiêng-Liêng ban ân cho người nhẹ-nhàng linh-hồn.” Nguyện xong lạy 3 lạy, đứng dậy vị chứng Đàn bước lấy 2 cây đèn cầy để trên dĩa (nơi bàn Kinh), chập lại đốt một lượt, xá Đức CHÍ-TÔN 3 xá rồi tách ra đưa cho 2 vị hầu, vị chứng Đàn ngó ngay trên Thiên-Nhãn định Thần bắt Ấn-Tý vào ngực, cùng 2 vị hầu cầm đèn đến trước đầu bệnh-nhân ngó ngay mỏ-ác người hấp-hối kêu tên nói rằng: “Nầy . . . tôi vâng lịnh Đức CHÍ-TÔN đến tụng kinh cho vong-hồn đạo-hữu nhẹ-nhàng siêu-thăng tịnh-độ, vậy đạo-hữu phải định-tâm mà nghe và phải cầu-nguyện với Đức CHÍ-TÔN ban ân-lành cho.” (Nếu là Chức-Sắc thì gọi Thánh-danh và Chức-Sắc hành-lễ). Nói xong đồng-nhi khởi đọc bài “Rấp nhập-cảnh . . .” 3 lần, dứt niệm: “Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” 3 lần. Đoạn vị chứng Đàn và 2 vị Chức-Việc cầm đèn trở lại Thiên-Bàn xá Đức CHÍ-TÔN 3 xá mới tắt đèn và vị chứng Đàn mới xả Ấn-Tý.

Điều Lưu-Ý:

Nếu trong khi cầu hấp-hối mà bệnh-nhân tắt hơi thì tiếp tụng luôn bài “Kinh Khi Đã Chết Rồi” “Ba mươi sáu cõi . . .” 3 lần, dứt niệm chú của Thầy 3 lần; Rồi đến Thánh-Thất dọng chuông báo tử, nam 7 tiếng, nữ 9 tiếng. Vị nào không đủ 10 ngày chay thì không dọng chuông báo tử, còn Chức-Sắc thì tùy phẩm-vị mà dọng chuông trống.

Sớ Cầu-Đạo của người qui-vị Bàn-Trị-Sự ghi vô Bộ Tử của Đạo, để khi làm Tuần-Cửu hoặc Tiểu, Đại-Tường thì Lễ-Vụ lật Bộ-Tử để viết sớ.

Nếu dâng sớ ở Thánh-Thất thì ở tại gia Bàn-Trị-Sự cũng cúng Đức CHÍ-TÔN để cầu-nguyện.

*

Nghi-Lễ Tẩn-Liệm

Nghi-Lễ Tẩn-Liệm phải cúng Thầy, nhằm Tứ-Thời dâng sớ Tân-Cố vị chứng Đàn là Bàn-Trị-Sự. Cúng Thầy xong tất cả gia-quyến quì cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN rồi đến chổ người chết quì lạy xác 1 lần (4 lạy), đồng-nhi tụng “Kinh Tẩn-Liệm” “Dây oan-nghiệt ...” Xong tang-chủ lạy vong 1 lần nữa (4 lạy). Vị chứng Đàn và 2 Chức-Việc cầm đèn trở lại xá Đức CHÍ-TÔN rồi xả Ấn-Tý và tắt đèn.

Các nghi-thức hành-lễ trên, từ Bàn-Trị-Sự trở xuống đạo-hữu thì vị chứng Đàn là Bàn-Trị-Sự, còn Chức-Sắc từ phẩm Lễ-Sanh trở lên thì phương-pháp cầu hấp-hối hay đã chết rồi và Tẩn-Liệm thì Bàn-Trị-Sự chỉ hành-lễ theo nghi-thức trên. Riêng về phần chứng Đàn, thượng Sớ phải đưa lên cho Tộc hoặc Châu thay mặt Hội-Thánh dâng Sớ tại Thánh-Thất hay tư-gia người đã chết.

*

Nghi Thành-Phục Phát Tang

Cúng Đức CHÍ-TÔN trước, rồi Cáo-Từ-Tổ. Phải đặt 1 nghi ngoài kiến đất-đai, 1 mâm cơm chay hay hoa-quả bánh-nước “tùy-gia vô-hữu.” Một mâm cúng Cửu-Huyền, 1 mâm đựng đồ tang-lễ để Cáo-Từ-Tổ, đọc bài kinh cầu Tổ-Phụ qui-liễu 1 lần, tiếp “Cứu-Khổ” 3 lần, đến câu “ ... cứu-hộ ...” đọc “... chơn-linh Cửu-Huyền Thất-Tổ siêu-thăng tịnh-độ ...” Xong bưng mâm tang qua bàn vong hành-lễ. (Vị chứng Đàn mặc Đại-Phục vào cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN để nhận lịnh phát tang cho tang-chủ. Xong trở vào bái lễ Đức CHÍ-TÔN, rồi thay Đại-Phục.)

*

Lễ Đăng-Điện

Nghi Đăng-Điện có 6 Lễ-sĩ hiến lễ, cách-thức Đăng-Điện và đồng-nhi thài theo qui-định tùy phẩm cấp trong Đạo. Tang-chủ lần lượt quì chánh tế, đồng-nhi đọc Kinh Thế-Đạo (vợ, chồng, con, ...) tùy theo trường-hợp.

Tại tư-gia chỉ thực-hiện cúng tế Đăng-Điện 1 lần, không phân-biệt giàu nghèo, các phần khác chỉ châm-chước mà thôi.

Phụ-Tế

Thân-bằng cố-hữu cúng-tế sau phần chánh tế, nghi châm-chước, có nhạc, 2 Lễ-sĩ chấp sự, tế-chủ quì, đồng-nhi đọc một bài Kinh Thế-Đạo “Kinh Cầu Bà Con Thân-Bằng ...”

Phần niệm hương phụ-tế, nếu có tiểu-sử hành Đạo thì đọc trước khi niệm hương phụ-tế.

- “Kinh Cha-Mẹ Đã Qui-Liễu” câu: “Cha ở đâu? Mẹ nơi đâu?”, đây là tiếng than, nên bà Đoàn-Thị-Điểm phết trong câu chớ không có ... để thay vào. (Có nơi; nếu cha qui liễu mẹ còn thì đọc: cha ở đâu, mẹ nơi đây và ngược lại; mẹ qui liễu thì đọc cha ở đây mẹ nơi đâu là sai).

- “Kinh Tụng Huynh-Đệ Mãn Phần” chỉ dành cho anh-chị ruột mà thôi, vì: “... Thân nhau từ buổi lọt lòng ..., Thương những khi co đắp chung mền ... Giếng thăm hôm sớm song-thân ... phụ, mẫu-thân.”

- Câu: “... Gởi Tổ-Phụ ... hiền cung-phụng ...” Thay vào “... anh ...” hoặc “... chị ...” vì Tổ-Phụ ở cõi hư-linh, nên khi anh hoặc chị qui-vị thì gởi cho anh-chị cung-phụng ... Lại nữa, em mới quì tế anh chị chớ anh chị có quì tế em bao giờ! Trong Kinh Hội-Thánh đã giải rõ.

*

Lễ Cầu-Siêu

Tất cả tang-quyến hoặc thân-quyến quì trước bàn linh. Chức-Sắc, Chức-Việc, Đồng-Nhi và toàn Đạo đến dự lễ đứng hai bên, tay bắt Ấn-Tý, cùng đọc bài “Kinh Cầu-Siêu”, đọc xen bài “Kinh Khi Đã Chết Rồi”, đọc 3 lần, khi dứt niệm câu chú của Thầy (3 lần).

Đương lúc làm phép xác phải tụng “Kinh Cầu-Siêu”, cho những người ăn chay đủ.

Cúng Vong

(Triêu-Tịch là Sáng-Chiều)

- Hành-lễ theo nghi châm-chước, có nhạc, 2 Lễ-sĩ chấp-sự, Cáo-Từ-Tổ xong, đến bàn vong đọc “Kinh Thế-Đạo” (Cha, Mẹ, ...)

- Khi tụng “Kinh Di-Lạc” thỉnh vong đến trước Điện-Tiền, nơi Điện-Tiền. Sau chỗ vị chứng Đàn phải để trống một chỗ, nghĩa là cho vong quì cúng Thầy để nghe Kinh. Chỗ vong quì tùy theo phẩm mà để trống. (Trang 9 quyển “Kinh-Lễ”)

*

Lễ An-Táng

Cúng Thầy trước, rồi làm lễ Cáo-Từ-Tổ, tang-chủ đến trước bàn vong cúng theo nghi châm-chước, tiếp-theo lễ Cầu-Siêu (nếu có làm phép đoạn căn hoặc độ thăng thì thực-hiện trong lần Cầu-Siêu nầy), rồi làm lễ Khiển-Điện, Đạo-tỳ vào bái quan, di linh-cữu ra Thuyền Bát-Nhã. Đồng thời vị chứng Đàn (Chức-Sắc hoặc Chức-Việc) cầm phướn dẫn linh-cữu và tang-quyến bưng khai linh-vị đến trước Thiên-Bàn xá 3 xá rồi ra phía trước quan-tài sắp-đặt thứ-tự theo qui-định trong tang-lễ. Hể phát-hành Đồng-nhi đọc “Kinh Đưa Linh-Cữu” ra tới huyệt.

Hạ huyệt vị chứng Lễ đến trước linh-cữu thiết-lễ cầu-nguyện Hoàng-Thiên Hậu-Thổ Đất-Đai gởi thi-hài xác-tục của người qui-vị, tang-quyến quì trước đầu huyệt tụng “Kinh Hạ Huyệt” “Thức giấc mộng ...”, “Vãng Sanh” và chú của Thầy (mỗi bài 3 lần).

Chú-ý: Trong “Kinh Thiên-Đạo và Thế-Đạo” thì phướn Thượng-Sanh đi trước, sau nầy quyển “Quan-Hôn Tang-Lễ” có Đức Lý phê-chuẩn tại Cung-Đạo Đền-Thánh, là bảng Đại-Đạo đi trước.

Top of Page

2- Tang-Lễ Ngoại-Lệ

a. Tang-Lễ Đạo-Hữu Giữ Lục-Trai (Châu-Tri số 61)

Những vị nầy không được làm Phép-Xác, chỉ cầu-siêu Bạt-Tiến (tụng bài “Đầu vọng bái ...”“Kinh Di-Lạc” mà thôi.) Hành-lễ tế-điện theo vong thường, không làm Tuần-Cửu, Tiểu, Đại-Tường theo Tân-Kinh. Khi tới ngày Tuần-Cửu, Tiểu, Đại-Tường thì thân-nhân đến Thánh-Thất sở tại xin cầu-siêu; Nếu làm lễ tại tư-gia thì cũng tụng 2 bài như ở Thánh-Thất vậy thôi.

Nghi-Thức:

- Tụng “Kinh Hấp-Hối” “Rắp nhập cảnh ...”

- Tụng “Kinh Đã Chết Rồi” “Ba mươi sáu cõi ...”

- Thượng sớ tân-cố tại tư-gia hoặc nơi Thánh-Thất (không thượng sớ Tuần-Cửu và Tiểu, Đại-Tường.)

- Cáo-Từ-Tổ “Giọt máu mủ ...”“Cứu-Khổ”. Cầu-Siêu Bạt-Tiến “Đầu vọng bái ...” và chú của Thầy, mỗi bài 3 hiệp.

- Tụng “Kinh Đưa Linh-Cữu” “Cầu các trấn ...”

- Tụng “Kinh Hạ-Huyệt” “Thức giấc-mộng ...”“Vãng Sanh”, niệm chú của Thầy, mỗi bài 3 lần. (Nghĩa là không dọng chuông báo tử và tụng “Kinh Tuần-Cửu”, “Tiểu-Tường”, “Đại-Tường”.)

*

B. Tang-Lễ Nhi-Đồng (Châu-Tri số 61)

Con nít 3 tuổi trở lên giữ được 10 ngày chay hoặc trường-trai thì được làm Phép-Xác y theo “Tân-Kinh”. Tuy nhỏ nhưng chơn-linh trong sạch, lại tùng Luật-Pháp của Đức CHÍ-TÔN, nên được hưởng ân-huệ ấy.

*

C. Những Người Sa-Ngã, Ngoại Đạo

Những người chưa Nhập-Môn cầu Đạo chẳng luận giàu-sang hay nghèo-hèn, già-cả hay trẻ-bé cùng đã có Nhập-Môn rồi, sa-ngã bỏ Đạo mà đến giờ chót của người biết hồi tâm tin-tưởng Đức CHÍ-TÔN hay là người đã chết rồi mà thân-tộc người tin-tưởng Đức CHÍ-TÔN đến nhờ chúng ta cầu-hồn cùng là cầu-siêu. Ấy là một điều phúc-đức độ linh-hồn con-cái của Đức CHÍ-TÔN theo y Chơn-Truyền tận-độ, thì chúng ta cũng nên thi ân giúp-đỡ, linh-hồn ấy siêu-thoát.

Song cách thể hành Lễ; Chức-Sắc và Chức-Việc phải làm y vầy:

Về việc Cầu-Siêu:

- Nếu ở gần Thánh-Thất thì Cầu-Siêu nơi Thánh-Thất.

- Nếu ở xa Thánh-Thất thì thiết-lễ Cầu-Siêu nơi nhà Chức-Sắc hoặc Chức-Việc gần đó.

- Nếu người trong thân-nhân chịu nhập-môn thì dễ hơn. Chức-Việc cứ thượng Tượng cho nhập-môn rồi thiết-lễ tang-sự luôn, nhưng nghi-thức làm như những người ăn chay 6 ngày, duy chỉ:

Việc Cầu-Hồn: (theo “Kinh-Lễ”, trang 14)

- Cầu-hồn thì tụng bài “Kinh Cầu-Siêu”: “Đầu vọng bái Tây phương Phật-Tổ ...”

- Tối lại cả gia-quyến của người lâm-chung phải thành-tâm tụng “Di-Lạc Chơn-Kinh” cho tới ngày di linh-cữu.

- Điều trọng yếu hơn hết là trọn tang môn phải giữ trai-giới trong mấy ngày linh-cữu còn tại tiền thì mới làm Bạt-Tiến cho linh-hồn giải-thoát được.

Khi An-Táng:

- Tụng một bài “Kinh Cầu-Siêu” từ lúc khởi-hành đến nơi an-táng (không tụng “Kinh Di Linh-Cữu”, “Kinh Hạ-Huyệt”), chỉ đọc “Vãng-Sanh Thần-Chú”, 3 lần.

Chú-ý:

- Những người chết không nhập-môn (ngoại Đạo), ta được Cầu-Siêu Bạt-Tiến, đọc “Kinh Thế-Đạo” (vợ, chồng, hay con tế, ...), không thượng sớ (vì không có chân trong nền Đạo, không phải môn-đệ Đức CHÍ-TÔN nên cũng không được đi Thuyền Bát-Nhã.)

- Không được nhập-môn thế, ăn chay thế cho người chết để xin hành đủ lễ theo “Tân-Kinh” (nếu ăn chay thế, Chơn-Thần người chết vẫn còn trược khí, nên không thể vượt ra khỏi vòng càn-khôn để lên 9 từng Trời (Tuần-Cửu). Chơn-Thần phải nhẹ hơn không-khí, bởi trong không-khí có điển-lực, trược khí vốn vật-chất, dễ tiếp điển (bon conducteur de éctricite). Khi ấy Chơn-Thần chưa ra khỏi lằn không-khí thì đã bị sét đánh tiêu-diệt rồi; Ấy là lẽ không nên ăn chay thế để hành đủ lễ là vậy.

*

D. Tự Vận

- Không hành-lễ theo “Tân-Kinh”, dầu ăn chay đủ cũng vậy; Vì chưa tới số mà tự-hủy mình, nên không về với Đức CHÍ-TÔN được, phải ở chờ ngoài Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng sám-hối cho đến khi tới số mới được về thọ-lịnh nơi Ngọc-Hư-Cung; Bởi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức CHÍ-TÔN đóng địa-ngục, mở tầng Thiên; Kinh có câu: “Vô địa-ngục, vô quỉ quan, Chí-Tôn đại-xá nhứt tràng qui-nguyên ...”, nên không đọa xuống phong-đô. Theo bộ “Kinh Di-Lạc” Tam-Kỳ độ sanh; Thì tang-chủ năng tụng “Di-Lạc Chơn-Kinh” để cầu cho linh-hồn được nhẹ-nhàng. Nên đến ngày Cửu-Cửu chỉ đến Thánh-Thất xin Cầu-Siêu mà thôi!!!

*

E. Sét Đánh

- Hành-lễ theo Thế-Đạo, Tế-Điện, ... không Cầu-Siêu, chỉ đọc vảng sanh 3 lần, niệm chú của Thầy 3 lần khi hạ huyệt. (Khi sét đánh Chơn-Thần bị tiêu-diệt, còn linh-hồn bị đọa, vì phạm Thiên-Điều: Phạm-Pháp, Phạm-Luật, Phạm-Thệ, ... bị Ngũ-Lôi tru diệt tiêu tan gió bụi!!! Còn gì mà Cầu-Siêu!!!!!)

Top of Page

3- Hành-Lễ Tuần-Cửu

- Cúng Thầy trước, có thượng sớ, và khai Tuần-Cửu vào giờ Ngọ (ở nước ngoài tùy hoàn-cảnh). Trước Thiên-Bàn, đọc bài “Kinh Khai-Cửu” “Đã quá chín ...” 1 lần (là nếu có trùng nhiều Tuần-Cửu đi nữa cũng chỉ tụng chung một lần Khai-Cửu mà thôi) rồi tiếp-tục đọc bài Nhứt, Nhị Cửu, ... (mỗi bài 3 hiệp). Nếu tang-quyến có cúng phẩm Tổ-Phụ Ông-Bà và vong-linh thì tự-nguyện. Bàn-Trị-Sự chỉ hành-lễ Tuần-Cửu và tụng “Kinh Di-Lạc” để cầu-nguyện cho vong-linh được siêu-thoát là xong.

Top of Page

4- Tiểu-Đại Tường

- Cúng Thầy trước, dâng sớ và Khai-Cửu, (Tiểu hay Đại-Tường). Trong lễ nầy nếu có nhạc Lễ Tế-Điện hoặc châm-chước thì có Cáo-Từ-Tổ, tiến-hành lễ Tế-Điện, cúng tế xong, lễ thành. Đoạn lễ thành; Nếu Tiểu-Tường thì vị chứng lễ mặc Đại-Phục, và Đồng-nhi đến đứng trước Thiên-Bàn (nam tả nữ hữu), mời tang-quyến đến. Vị chứng lễ quì trước, tang-chủ quì sau cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN và các Đấng để đốt lá phan Tiểu-Tường. Vị chứng lễ đứng dậy đốt lá phan, tang-chủ vẫn quì, Đồng-nhi đọc vãng-sanh, và niệm chú của Thầy, mỗi bài 3 lần, dứt lạy Thầy 3 lạy. Nếu là Đại-Tường thì cũng hành-lễ y như Tiểu-Tường, nhưng khi đốt lá phan và linh-vị xong đến phần xả tang thì làm như sau: Vị chứng lễ đến trước Thiên-Bàn cầu-nguyện thỉnh nước Âm-Dương (ký-tế), để vào cái mâm nhỏ, hay cái dĩa, 1 cái kéo, 1 cái lược và 1 cái bông bưng đến bàn vong; Tang-chủ cầu-nguyện lạy vong xin xả tang, vị chứng Đàn bưng ly nước Âm-Dương đứng trước gia-đình tang-chủ .......................................................lấy kéo nhấp trên đầu tang-chủ (người trưởng trong tang) một cái rồi lột khăn tang xuống, lấy cái lược chải trên đầu 3 cái, ở giữa và 2 bên, còn những người sau tự-động gỡ khăn xuống, gia-đình lạy, đứng dậy, xá và bước ra ngoài cởi đồ tang. Đến đây là hết phần lễ tang tế sự. (Nhớ tụng “Kinh Di-Lạc” trước khi đốt lá phan.)

Chú-ý:

- Tạm-thời Hội-Thánh chưa phục-quyền, nơi hải-ngoại không có Chức-Sắc thọ Pháp, nên dựa vào Nghi-Lễ trước năm 1975 trước khi Hội-Thánh bị giải-thể và tài-liệu “Hạnh-Đường Bàn-Trị-Sự”. Sau nầy Hội-Thánh phục-quyền thì chúng ta sẽ dâng lên cầu xin Hội-Thánh chỉ dạy.

- Trong Đạo, theo “Tân-Kinh”, mãn Tuần Cửu-Cửu tức là 81 ngày. Từ đó đến 200 ngày là tới Tuần Tiểu-Tường. Từ Tiểu-Tường đến 300 ngày là tới Tuần Đại-Tường, cộng chung là 581 ngày, là mãn tang.

Ý-nghĩa chữ Tường:

Chữ Tường nghĩa là lành, là kiết. Trong nhà có tang, cả nhà mang sự thương-xót, đau-buồn, tưởng nhớ đến người quá cố; Thời-gian làm xoa dịu nỗi đau-thương, cái buồn bớt lần lần, đem lại cái vui, như đem điềm lành, điềm tốt trở lại. Vì vậy, mà Tiểu-Tường cũng có cái nghĩa là Tiểu-Kiết-Tường, Đại-Tường cũng có nghĩa là Đại-Kiết-Tường.

Sau đây là bài thi của Đức Cao-Thượng-Sanh nói về Luật-Pháp Chơn-Truyền:

- Thi -

Thánh-giáo bảo-tồn thất ức niên,

Nhờ nơi Luật-Pháp hiệp Chơn-Truyền.

Tuân-hành đúng mức đường tu vững,

Tự-tác sai chiều bước Đạo nghiêng.

Lướt khổ đã mong hồi cựu vị,

Gieo nhân há để vướng tà quyền.

Thiên-Điều tại thế nên tôn trọng,

Vẹn phận ngàn thu hưởng phúc duyên.

Đức Cao-Thượng-Sanh

Top of Page

5- Xe Tang (Thuyền Bát-Nhã)

Trong Đạo, việc cất táng dùng xe tang bằng một chiếc thuyền trổ hình con rồng, gọi là Thuyền Bát-Nhã. Từ tín-đồ đến Chức-Sắc thảy đều dùng được. Duy có màu sắc tấm Diềm treo trên Thuyền Bát-Nhã và tấm vải phủ quan để phân-biệt.

a. Tín-Đồ, Đạo-Hữu, Đạo-Sở, Chức-Việc phụ đi Thuyền Bát-Nhã. Treo Diềm và phủ quan màu đen.

b. Chánh, Phó-Trị-Sự, Thông-Sự và các phẩm tương-đương (nam phái) đi Diềm và Phủ-Quan màu đỏ.

c. Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài (nam phái) treo Diềm và Phủ-Quan theo sắc Phái.

d. Chức-Sắc, Chức-Việc, Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài (nữ phái) treo Diềm và Phủ-Quan màu trắng.

e. Chức-Sắc, Chức-Việc, Phước-Thiện nam-nữ treo Diềm và Phủ-Quan theo sắc Phái.

f. Chức-Sắc Bộ-Nhạc treo Diềm và Phủ-Quan màu đỏ.

g. Đầu-Sư, Tiên-Tử, Phật-Tử, Thập-Nhị Thời-Quân đổ lên, kỵ Long-Mã, không đi Thuyền Bát-Nhã.

Top of Page

6- Tấm Phủ-Quan

Tấm Phủ-Quan bằng vải, vuông vức 1,20 mét. Bốn bề viền ren, chính giữa may Thiên-Nhãn có ánh hào-quang tía ra.

Chú giải:

Tang-chủ quì tế: Cửu-Huyền, hay Ông-Bà, Cha-Mẹ mà quì mọp xuống chống tay là hiếu-nghĩa phủ-phục, còn chồng-vợ, anh-chị quì thẳng là tình-nghĩa.

Top of Page

7- Cách Chế Tang-Phục

- Con trai thọ tang trảm thôi (là quần-áo không lên lai.)

- Thọ tang cha-mẹ may áo cổ trịch như áo lễ, ở phía sau lưng (chỗ vói không tới) may kèm một tấm vải phụ bản ngang 1.2 và bề xuống 9 phân (tỏ dấu mang sự đau xót.)

- Tang cha con trai chống gậy tre (cha tiết tháo bên ngoài, ngay chính).

- Tang mẹ con trai chống gậy dong (mẹ tiết-hạnh bên trong và đầy lòng từ-ái).

- Gậy dài ngắn không chứng, tùy người cao thấp, nhưng phải từ dưới đất lên yếm tâm (chủ tâm ai bi).

- Mũ bạc, dây rơm buộc ngang lưng, phải đánh 3 tao đậu lại (không có rơm thì dùng vải se làm 3 lằn).

- Bức cân, xé vải hình tam-giác, vừa trên đầu, xếp làm 3 lằn hướng về bên hữu (3 lần xếp tượng-trưng Tam-Cang, là 3 giềng mối trong Đạo Nhơn-Luân).

- Con gái có chồng và rể mặc áo chẹt, quần áo lên lai, gái đội, rể bịt khăn trắng.

- Con gái chưa chồng và con dâu mặc áo rộng, quần-áo xổ lai, bịt khăn trắng.

- Cháu nội gái và cháu ngoại cột khăn trắng.

- Con rể và cháu thành-niên bịt khăn trắng.

- Các cháu nội trai thì đội mấn. (Khăn tang: dâu, rể, con gái, xé chiều dài 1.5 mét, ngang 0.5 mét, không có tài-liệu.)

Chú-ý: Còn nói về tang-chủ đội bì sớ. Ở Trung-Ương Tòa-Thánh Tây-Ninh chỉ có vị chứng Đàn cầm phong bì sớ dâng lên trán cầu-nguyện, còn tang-chủ thì phủ-phục (quì chống hai tay xuống) chớ không đội bì sớ (nếu tang-chủ mỗi người phải đội phong bì sớ thì nếu trong một ngày có tới 9-10 Tuần-Cửu hay Tiểu-Đại Tường thì phong bì đâu cho đủ đội? Vả lại khi đọc sớ xong phải đi gom phong bì thì làm mất vẻ trang-nghiêm trong Đàn cúng!!!)

- Cựu Chức-Việc (mãn-nhiệm chớ không phải từ nhiệm) lúc đi cúng hoặc lúc lâm chung mặc Đạo-Phục như sanh tiền, nhưng không có dây ren, không Sắc-Lịnh Tam-Thanh và không có dây nịt (nếu C.T.S và T.S.).

- Vấn-đề bưng khay linh-vị xá nhập hoặc bãi Đàn khi cúng Đức CHÍ-TÔN không buộc, ta nên hiểu vì đây là thể tượng-trưng chớ không phải vong-linh ở nơi khay linh-vị; vì khi vào cúng chơn-linh vẫn phải nam tả, nữ hữu và nếu buộc bưng khay linh-vị xá thì rất trở ngại, là tang-chủ không bắt Ấn-Tý khi vào nhập Đàn.

- Thế nên ở Tòa-Thánh và các Thánh-Thất đúng mẫu của Hội-Thánh có Hiệp-Thiên-Đài thì bàn vong để nơi Hiệp-Thiên-Đài (chổ Nhạc và Đồng-nhi hành lễ). Khi cúng Thầy xong bưng xuống tùy theo Tuần-Cửu của mỗi tang-chủ vào quì để Đồng-nhi đọc kinh (vẫn để chung một bàn). Cúng xong bãi Đàn thì linh-vị ai nấy bưng.

Top of Page

8- Phẩm-Vật trong khay Linh-Vị

Phần nầy Hội-Thánh không có chỉ rõ nên có người khi cúng vong trong khay linh-vị đi làm Tuần-Cửu ... chưng-bày như trên bàn thờ (hoa, quả, trà, nước, rượu, ...)

Xét về lý người sống cũng như người qui-vị (chơn-linh) khi chầu lễ Đức CHÍ-TÔN cũng như nhau và cũng phải nam tả nữ hữu ... Để tượng-trưng về Thể, ta có thể để vào khay một linh-vị, một lư-hương và 1 cây đèn là đủ (cũng như khi ta cúng Đức CHÍ-TÔN Hội-Thánh buộc trước khi cúng phải rửa mặt, xúc miệng cho sạch-sẽ cơ mà).

NEXT / Tiếp theo > Phần thứ VI : Phụ Lục

Top of Page HOME

Từ khóa » Bài Kinh Xả Tang