Nghĩa Vụ Chứng Minh Của đương Sự Theo Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự ...
Có thể bạn quan tâm
- Trang nhất
- Giới thiệu
- Chức năng nhiệm vụ
- Giới thiệu Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai
- Tin Tức
- VKSND tỉnh Gia Lai
- Ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai 45 năm xây dựng và phát triển
- VKSND huyện, thị xã, thành phố
- Tuyên truyền về Cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp
- Bản tin kiến nghị phòng ngừa tội phạm
- Công tố - Kiểm sát
- Công tác xây dựng Đảng, Đoàn thể
- Nghiên cứu - Trao đổi
- Chúng tôi là Kiểm sát viên
- Học tập làm theo lời Bác
- VKSND tỉnh Gia Lai
- Tải về
- VĂN BẢN PHÁP LUẬT
- TRUYỀN HÌNH KIỂM SÁT
- ẢNH HOẠT ĐỘNG
- Sơ đồ TTĐT
- Trang nhất
- Nghiên cứu - Trao đổi
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và hướng hoàn thiện Thứ hai - 09/05/2022 22:30 51.737 0 Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự là quan hệ cá nhân riêng tư giữa các bên nên sẽ do các bên tự do quyết định hoặc tự giải quyết mọi vấn đề, trong đó bao gồm cả việc phát sinh các tranh chấp. Trong tố tụng dân sự, chứng minh là một dạng hoạt động tố tụng, cụ thể là hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích tái hiện lại trước Tòa án vụ việc dân sự đã xảy ra trong quá khứ một cách chính xác và tỉ mỉ nhất có thể, qua đó Tòa án có thể khẳng định có hay không có các sự kiện, tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các bên đương sự trong vụ, việc dân sự. Tuy nhiên, hoạt động sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự không thể được tiến hành một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Tòa án hay của các chủ thể tham gia tố tụng mà phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về sử dụng chứng cứ thông qua các hoạt động tố tụng cụ thể, bao gồm hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Tất cả các hoạt động này là các yếu tố hợp thành chứng minh hay nội dung của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự. Trong phạm vi bài viết, tác giả đi sâu về nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và hướng hoàn thiện quy định này. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. “1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.” Đây là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, gần như thể hiện bản chất khác nhau giữa tố tụng dân sự và tố tụng hình sự. Sẽ không có quy trình tố tụng dân sự, nếu như đương sự không tự mình quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự (trong khi đó, vụ án hình sự được khởi tố về cơ bản hoàn toàn nằm ngoài sự mong muốn hay quyết định của bị can). Như vậy, Tòa án chỉ là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp một cách khách quan, công bằng và đúng pháp luật; đương sự chính là người khởi tạo quá trình tố tụng, theo đó khi tham gia tố tụng dân sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của họ là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng và xuất phát từ chính quyền tự do định đoạt của đương sự. Khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.” Nội dung xuyên suốt của nguyên tắc này là thu thập, giao nộp (hay cung cấp) chứng cứ vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự, cũng như mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án tuyên một bản án hoặc quyết định đúng pháp luật và phù hợp với thực tế khách quan, phù hợp với những chứng cứ đã thu thập, giao nộp và dùng để chứng minh trong quá trình tố tụng. Trong tranh chấp dân sự “Người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng minh”. Theo quy tắc này, mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những sự kiện, tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình, hay nói một cách giản đơn là khẳng định một sự việc gì thì phải chứng minh sự việc ấy. Tùy thuộc vào vai trò, địa vị tố tụng của các đương sự và ở từng giai đoạn tố tụng cụ thể, các đương sự chứng minh có quyền, nghĩa vụ tham gia vào quá trình chứng minh các sự kiện, tình tiết của vụ việc ở những phạm vi và mức độ khác nhau. Khi đưa ra yêu cầu thì nguyên đơn phải chứng minh cho yêu cầu của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tham gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận... để chứng minh, bởi vì bị đơn được suy đoán là không có bất cứ trách nhiệm gì với nguyên đơn cho đến khi trách nhiệm của bị đơn chưa được chứng minh. Trong trường hợp đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ các chứng cứ thì đương sự phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó. Trong tiến trình phát triển của hoạt động chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chứng minh không bất biến mà trong điều kiện nhất định, nó có thể di chuyển từ một bên đương sự này sang một bên đương sự khác; từ nguyên đơn sang bị đơn khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, hoặc khi bị đơn muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết nhằm bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Đối với nguyên đơn: Kể từ khi làm đơn khởi kiện, việc chứng minh yêu cầu đối với nguyên đơn là nghĩa vụ. Bởi lẽ, nguyên đơn chính là chủ thể khởi xướng nên nguyên đơn phải là chủ thể đầu tiên thực hiện việc chứng minh. Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu mà không chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ, có trong thực tế hoặc đưa ra những chứng cứ không có giá trị chứng minh, trong khi đó bị đơn lại đưa ra được chứng cứ có tính thuyết phục để phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu cầu của nguyên đơn sẽ bị Tòa án bác bỏ. Về phía bị đơn, họ là người bị kiện sẽ phát sinh nghĩa vụ đối với bị đơn nếu: - Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp bị đơn đưa ra yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải cung cấp chứng cứ để chỉ ra yêu cầu đó có cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý hay không, có đúng đắn không? Khi đó nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu đó của bị đơn, đồng thời phải chứng minh cho việc phản đối yêu cầu của mình; - Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (có thể bị đơn chỉ chấp nhận phần yêu cầu và phản đối phần còn lại của yêu cầu đó hoặc không chấp nhận hoàn toàn) hoặc thậm chí chỉ trong trường hợp bị đơn đang nắm giữ chứng cứ liên quan đến nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, họ có nghĩa vụ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ; kể cả trường hợp chủ thể này mặc dù không có yêu cầu độc lập, dù đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn, cũng đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cùng nguyên đơn hay bị đơn vì lợi ích của họ liên quan đến vụ kiện. Việc cung cấp chứng cứ của họ để chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ kiện để bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà họ đứng về phía đương sự đó, hoặc có thể làm căn cứ cho yêu cầu của họ đối với một trong các bên đương sự; hoặc chứng cứ do họ cung cấp làm căn cứ để họ phản đối về việc kiện đòi hoàn lại mà một bên đương sự đặt ra cho họ. Bên cạnh đó, Điều 91 quy định những trường hợp đương sự không phải chứng minh thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người, theo đó đương sự được loại trừ một phần nghĩa vụ chứng minh khi: - Người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng minh được đảo ngược cho bên bị kiện - bên bị kiện phải chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại.
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho tòa án.
Tác giả bài viết: Lê Xuân Quang - Nguyễn Thị Tường Vi
Tags: riêng tưTổng số điểm của bài viết là: 12 trong 4 đánh giá
Xếp hạng: 3 - 4 phiếu bầu Click để đánh giá bài viết TweetÝ kiến bạn đọc
Sắp xếp theo bình luận mới Sắp xếp theo bình luận cũ Sắp xếp theo số lượt thích Bạn cần đăng nhập với tư cách là Thành viên chính thức để có thể bình luận- Những tin mới hơn
- Những tin cũ hơn
-
Kinh nghiệm thực hiện Quyền yêu cầu của KSV trong khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông đường bộ
(09/05/2022) -
Tìm hiểu một số kỹ năng của Kiểm sát viên khi hỏi cung bị can trong trường hợp ghi âm, ghi hình có âm thanh
(13/05/2022) -
Góp ý Dự thảo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở
(18/05/2022) -
Khó khăn, vướng mắc khi thực hiện quy định ghi âm, ghi hình trong hỏi cung bị can
(19/05/2022) -
“Tự đào tạo” qua phiên tòa rút kinh nghiệm
(24/05/2022) -
Một số kinh nghiệm, giải pháp thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh đối với hoạt động hỏi cung bị can trong các vụ án hình sự
(24/05/2022) -
Kinh nghiệm số hóa hồ sơ trong kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
(07/06/2022) -
Huớng dẫn một số nội dung công tác phòng, chống tiêu cực
(12/08/2022) -
Phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trong tình hình mới: Tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác
(19/08/2022) -
Cảnh giác “bẫy” lừa xin việc
(19/08/2022)
-
Một số vấn đề đặt ra trong việc thu thập, tiếp nhận chứng cứ do người bào chữa thu thập, giao nộp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
(31/03/2022) -
Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử các vụ án “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản; Huỷ hoại rừng” tại địa bàn huyện Kbang
(21/03/2022) -
Nhận diện một số vi phạm của UBND cấp xã trong hòa giải tranh chấp đất đai và một số giải pháp
(21/03/2022) -
Trao đổi về tình tiết “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
(10/03/2022) -
Bàn về tình tiết “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong vụ án cụ thể
(08/03/2022) -
Chính sách bảo hiểm, tiền lương có hiệu lực từ tháng 3/2022
(04/03/2022) -
Khi nào trẻ em mắc Covid -19 được dỡ bỏ cách ly?
(28/02/2022) -
Đăk Pơ: Sáng kiến, cách làm hay để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Thi hành án hình sự
(25/02/2022) -
Các bước xử lý khi phát hiện học sinh mắc COVID-19 trong trường học
(24/02/2022) -
Phương pháp và kinh nghiệm trực tiếp kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự tại Nhà tạm giữ Công an huyện
(23/02/2022)
-
Lãnh đạo Viện cùng cán bộ VKSND tỉnh Gia Lai 05_2025
- Sau
- Trước
Thống Kê Truy Cập - Đang truy cập2
- Hôm nay910
- Tháng hiện tại195,125
- Tổng lượt truy cập20,847,748
Từ khóa » Nguyên đơn Dân Sự Không Có đơn Yêu Cầu Thì Xác định Thế Nào
-
Nguyên đơn Dân Sự Là Gì? Quyền Và Nghĩa Vụ Của ... - Luật Hoàng Phi
-
Phân Biệt Bị Hại Và Nguyên đơn Dân Sự Theo Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự ...
-
Nguyên đơn Trong Vụ án Dân Sự - Tạp Chí Tòa án
-
Nguyên đơn Dân Sự Là Gì? Quyền Và Nghĩa Vụ Của ... - Luật Hoàng Anh
-
Quyền Và Nghĩa Vụ Của Nguyên đơn Dân Sự Trong Vụ án Hình Sự ?
-
Những điểm Mới Về Quy định Nguyên đơn Dân Sự Trong Bộ Luật Tố ...
-
Nguyên đơn Dân Sự Trong Vụ án Hình Sự - Luật Sư 5
-
Điều Kiện Nào Thành Nguyên đơn Trong án Hình Sự? - PLO
-
Nguyên đơn Trong Vụ án Dân Sự - Công Ty Tư Vấn Pháp Luật Thiên ...
-
Quyền Và Nghĩa Vụ Của Nguyên đơn Trong Vụ án Dân Sự?
-
Nghĩa Vụ Của đương Sự Trong Việc Sao Gửi Tài Liệu, Chứng Cứ Hoặc ...
-
Quyền Phản Tố Của Bị đơn Theo Quy định Tố Tụng Dân Sự - FBLAW
-
Quyền Của Người Khởi Kiện Trong Vụ án Dân Sự Gồm Những Gì
-
Sự Vắng Mặt Của đương Sự Tại Phiên Tòa Sơ Thẩm - Một Số Vấn đề ...