Nghiên Cứu Khoa Học - HỌC VIỆN TÒA ÁN

Nguyễn Thanh Mận

Phó Giám đốc Học viện Tòa án

Việc lựa chọn, công bố và áp dụng theo Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP, Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 03). Việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự cũng tuân theo quy trình nay. Với quy trình trên, TANDTC đã ban hành được 04 án lệ hình sự, trong đó 01 ALHS đã có hiệu lực pháp luật, 03 ALHS sẽ có hiệu lực từ ngày 03/12/2018. Kết quả này đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nỗ lực, quyết tâm cao của lãnh đạo hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, số lượng án lệ hình sự hiện nay còn quá ít. Nguyên nhân chính là do quá trình xây dựng, quy trình tuyển chọn hiện chưa hợp lý, thiếu các tiêu chí riêng biệt, việc áp dụng cũng chưa quy định rõ ràng. Do vậy trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ ra các yêu cầu của Đảng, Nhà nước và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.

1. Yêu cầu xây dựng, phát triển án lệ hình sự

1.2. Yêu cầu thống nhất nhận thức về chủ trương của Đảng, Nhà nước và của hệ thống Tòa án về xây dựng, áp dụng án lệ hình sự

Về chủ chương của Đảng, “án lệ” lần đầu tiên xuất hiện trong chính sách của Đảng về cải cách pháp luật ở Việt Nam, được thể hiện trongNghị quyết số 48-NQ/TWcủa Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 48-NQ/TW có ghi rõ một trong những giải pháp về xây dựng pháp luật Việt Nam là “Nghiên cứu về khả năng khai thác và sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”. Tiếp theo, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 đã xác định “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.

Về quan điểm của nhà nước trong việc xây dựng và áp dụng án lệ, nhằm xây dựng và áp dụng án lệ được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật (Luật tổ chức Tòa án, luật tố tụng hình sự). Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã chính thức thừa nhận“Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử”.Như vậy, án lệ đã trở thành một thuật ngữ pháp lý chính thức được thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Về chủ trương của Tòa án nhân dân tối cao, trên cơ sở quán triệt đầy đủ các quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, với nhận thức đúng đắn và quyết tâm chính trị cao, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao đã chủ động, tích cực triển khai việc nghiên cứu và xây dựng Đề án phát triển án lệ của Tòa án nhân dân. Ngày 24/11/2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân. Đây là một trong những đạo luật quan trọng về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống Tòa án nhân dân - một thiết chế thực hiện quyền tư pháp quốc gia thuộc bộ máy Nhà nước theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa các chủ chương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Tại điểm c khoản 2 Điều 22 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ“Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Quy định này là một trong những nội dung mới, quan trọng mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là chủ thể phải thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, đặc biệt là trong bối cảnh những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gia tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp; nhiều quy định của pháp luật còn mang tính định tính, chưa rõ ràng, chưa tiên liệu được những trường hợp xảy ra trong thực tiễn xã hội, hoặc chưa thống nhất, dẫn đến những cách hiểu và vận dụng khác nhau.

Tòa án có nhiệm vụ tham khảo án lệ, phân tích thiếu sót trong những vụ án xét xử trước đó, giúp Thẩm phán rút kinh nghiệm, hạn chế việc kết án oan, sai. Với việc lựa chọn, ban hành án lệ, xác định trách nhiệm của Thẩm phán và Hội đồng xét xử phải nghiên cứu, làm theo, chắc chắn sẽ có hiệu quả rất lớn trong việc hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc xét xử oan, sai, hạn chế việc tiêu cực của những người tiến hành tố tụng, luật sư và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và do đó về mặt xã hội, việc xây dựng và phát triển án lệ là một trong những phương thức hữu hiệu để bảo đảm công lý, góp phần duy trì, ổn định trật tự pháp luật trong đời sống xã hội.

Trên cơ sở đó, ngày 31/12/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 04/2014/CT-CA Về việc triển khai thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, trong đó giao cho Viện khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao (nay là Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan, xây dựng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình ban hành và áp dụng án lệ. Tiếp theo đó là Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28 tháng 10 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ và quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc công bố án lệ.

Qua nghiên cứu các quy định của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các văn bản có liên quan của hệ thống Tòa án; để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của việc ban hành và áp dụng án lệ hình sự trong xét xử, phù hợp với tình hình thực tiễn; trên cơ sở tham khảo các quy định về án lệ hình sự của một số nước trên thế giới, có thể xác định việc phát triển án lệ hình sự phải được tiến hành theo các bước sau đây: Xác định rõ hơn nữa tiêu chí để lựa chọn án lệ hình sự, về quy trình ban hành án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng về nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử, huỷ bỏ, thay thế án lệ.

Trong thời gian tới để tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng. Cần xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ban hành án lệ hình sự. Cụ thể là cần bổ sung quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giá trị pháp lý và nguyên tắc áp dụng, viện dẫn án lệ hình sự trong xét xử án hình sự. Trên cơ sở đó xây dựng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình ban hành và áp dụng án lệ hình sự, trong đó xác định cụ thể các tiêu chí đối với những bản án, quyết định có thể được lựa chọn, công nhận là án lệ hình sự. Quy trình tuyển chọn án lệ hình sự. Cần tích cực hơn nữa trong việc công bố các bản án, quyết định hình sự có hiệu lực pháp luật định lựa chọn làm án lệ trên các phương tiện truyền thông để các các chuyên gia, các nhà khoa học, đặc biệt là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư...và nhân dân tham gia ý kiến. Bên cạnh đó, phải tiến hành việc thẩm định, thông qua và công bố án lệ hình sự; nguyên tắc áp dụng án lệ hình sự trong xét xử; việc thay thế, hủy bỏ án lệ án lệ hình sự phù hợp với thực tiễn.

Hoàn thiện, nâng cao chất lượng cán bộ chuyên trách làm công tác tham mưu, giúp việc cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong công xây dựng án lệ hình sự. Xác định rõ trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong việc giúp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thực hiện quy trình lựa chọn, ban hành và công bố án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng. chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, phương tiện để tuyển chọn và phát hành án lệ. Tăng cường năng lực cho Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương; mở các trang thông tin điện tử của các Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Bên cạnh đó, nội dung quan trong là cần tăng cường tổ chức tập huấn, đào tạo kỹ năng viết bản án; kỹ năng biên tập án lệ; kỹ năng nghiên cứu, phân tích, áp dụng án lệ cho Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh tư pháp khác trong và ngoài Tòa án nhân dân.

1.2. Thống nhất nhận thức về án lệ hình sự trong thực tiễn xét xử

Yêu cầu này nhằm đảm bảo cho sự thống nhất nhận thức về án lệ hình sự trong hoạt động xét xử, nhằm đảm bảo cho việc thống nhất áp dụng án lệ nói chung, áp dụng pháp luật nói riêng trong hoạt động xét xử. Điều quan trọng hàng đầu để xây dựng được hệ thống án lệ hình sự có chất lượng và có giá trị sử dụng cao là phải hoàn thiện các vấn đề nhận thức về lý luận. Bên cạnh việc nâng cao hiểu biết về chức năng, vai trò của án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng trong khoa học pháp lý Việt Nam, đặc biệt là cần có nhận thức đúng đắn về án lệ hình sự. Cần phải đưa ra một cách hiểu thống nhất và đúng đắn về bản chất án lệ, đặc biệt là án lệ hình sự bởi chỉ khi có nhận thức đúng bản chất án lệ hình sự thì mới có thể xây dựng những án lệ đúng nghĩa của nó và phát huy hiệu quả khi áp dụng.

Đặc trưng của hệ thống pháp luật nước ta là một hệ thống dân luật và trong đó có án lệ không được thừa nhận là nguồn chính thức. Nhưng trình độ phát triển của hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đạt đến mức như các nước có hệ thống dân luật tiên tiến ở châu Âu như Pháp, Đức… Trong khi đó những nước này đã thừa nhận án lệ là nguồn luật thứ cấp bổ trợ cho luật thành văn và các nguồn luật khác. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn có những quan điểm hoài nghi về vai trò của án lệ nói chung, án lệhình sự trong hệ thống pháp luật Việt nam.

Thuật ngữ án lệ đã trở thành thuật ngữ pháp lý được ghi nhận trong Luật tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản luật có liên quan khác. Đặc biệt, ngày 31/10/2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình đã ký Quyết định số 74/QĐ - TANDTC phê duyệt “Đề án phát triển án lệ của TANDTC”. Theo đó, án lệ là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC chỉ có giá trị tham khảo với Thẩm phán khi giải quyết các vụ việc cụ thể. Để hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử; TANDTC có thẩm quyền ban hành án lệ, có quyền giám sát đảm bảo tính thống nhất của pháp luật trong xét xử. Nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán trong công tác xét xử tại phiên tòa cũng như tăng cường việc bồi dưỡng, đào tạo các chức danh tư pháp, bảo đảm các yêu cầu của cải cách tư pháp. Sự thống nhất trong nhận thức về án lệ nói chung được thể hiện thông qua Nghị quyết số 03/2015/NQ – HĐTP ngày 28/20/2015 Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

Tuy nhiên, lĩnh vực hình sự có những nguyên tắc riêng, đặc biệt là nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc thừa nhận án lệ là nguồn của luật hình sự là chưa thống nhất. Do đó, nhận thức vai trò tích cực của án lệ hình sự cũng như sử dụng án lệ hình sự như một nguồn luật vẫn còn hết sức mới mẻ. Khi đã thừa nhận án lệ hình sự như là một nguồn luật hình sự bên cạnh văn bản quy phạm pháp luật thì cần có cơ sở pháp lý quy định đối với việc này. Phải có sự thay đổi trong tư duy khi áp dụng án lệ hình sự vào xét xử các vụ án hình sự. Cần nhận thấy rằng, án lệ hình sự là thành quả của hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật, mà cụ thể là hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án. Hay nói cách khác, nó là kết tinh của lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Vì thế, Tòa án nhân dân tối cao cần đưa ra những hướng dẫn nghiệp vụ theo hướng bắt buộc Thẩm phán, Hội thẩm các cấp tham khảo và trích dẫn án lệ hình sự như một nguồn luật thứ cấp khi ra phán quyết về những vấn đề mà luật thành văn còn chưa quy định rõ, hay những hành vi, tình tiết còn có cách hiểu khác nhau. Đồng thời, các trong chương trình đào tạo Nghiệp vụ xét xử (đào tạo Thẩm phán) cũng cần đưa môn học về án lệ thành một môn học bắt buộc và hướng dẫn rõ cách tham khảo và dẫn chiếu án lệ hình sự khi xét xử.

Thực hiện thường xuyên việc công bố những bản án, quyết định của Tòa án. Những bản án, quyết định này có thể được sắp sếp theo từng loại án hình sự hay từng chế định pháp luật cụ thể. Đồng thời, sau một thời gian nhất định cần pháp điển hóa tiền lệ pháp. Trên cơ sở đăng tải công khai các án lệ không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng mà còn là tiền đề cho việc thực hiện hoạt động giám sát, tích cực chống lại các hiện tượng lạm quyền, tiêu cực đảm bảo quyền con người, quyền công dân.

2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, áp dụng án lệ hình sự

2.1. Nâng cao nhận thức về một số nội dung cụ thể của án lệ hình sự

Giải pháp này nhằm nâng cao chất lượng xây dựng, áp dụng án lệ trên cơ sở đó tạo ra nhiều án lệ có chất lượng, phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng án lệ hình sự nói riêng trong thực tiễn

Thứ nhất, nên xem xét khả năng thừa nhận những án lệ tạo ra những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc như một quy phạm mới

Theo Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, các án lệ của Việt Nam chỉ có tác dụng “hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. Nói cách khác án lệ là sự giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể. Tức là, Việt Nam không thừa nhận những án lệ mà nội dung của nó tạo ra quy phạm mới, những nguyên tắc pháp lý mà luật thành văn chưa quy định. Việc giải thích các quy phạm pháp luật còn có cách hiểu khác nhau bằng các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán là rất cần thiết song chưa đủ để lấp đầy những lỗ hổng của luật thành văn. Qua thực tiễn chúng ta thấy rằng hầu hết những án lệ nổi tiếng trên thế giới đều là các án lệ tạo ra quy phạm mới. Án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng không chỉ dừng lại ở một lập luận hợp lý mà cần thiết hình thành nên một mô hình xử sự hợp lý, có tính chuẩn mực, được xã hội chấp nhận. Ví dụ, hệ thống pháp luật của Anh là nền tảng của sự phát triển của hệ thống luật bất thành văn. Trong đó, luật bất thành văn bắt nguồn từ án lệ, được tạo ra từ các phán xét trong các vụ án ở Tòa án. Ở Anh, các Thẩm phán có thể tạo ra luật, và có thể đưa ra quyết định để giải thích cho chính phán xét của họ. Khi Thẩm phán tạo ra luật ở phiên Tòa, thì hoạt động giải thích pháp luật chính là một phần chính trong phán xét đó của Tòa án. Trong các quyết định của Thẩm phán luôn có giải thích pháp luật đi kèm như một phần tất yếu của bản án. Giải thích pháp luật có hiệu lực khi phán quyết của Thẩm phán được công nhận là án lệ, những án lệ liên quan đến những vấn đề đã không còn phù hợp với thực tiễn xã hội sẽ bị hủy bỏ.

Phán xét của Thẩm phán được chia làm 2 phần: Tranh luận và quyết định. Phần quyết định sẽ không được xem là án lệ bởi vị nó liên quan cụ thể đến từng trường hợp. Phần tranh luận được xem là án lệ bởi vì Thẩm phán đưa ra những lý do và ý kiến về trường hợp đó.

Chỉ có Tòa án tối cao ở Anh mới có thẩm quyền giải thích pháp luật bắt buộc. Khi phán xét của Tòa án được cân nhắc thành Án lệ, giải thích pháp luật của phán xét cũng được tuân theo. Thẩm phán chính là người giải thích pháp luật cho chính phán xét của họ. Giá trị giải thích pháp luật phụ thuộc vào án lệ. Hơn nữa, hoạt động giải thích pháp luật của các Thẩm phán, bồi thẩm đoàn, luật sư, nhà nghiên cứu luật đều được tôn trọng.

Để có thể tận dụng tối đa chức năng của án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng, cần tiến tới thừa nhận sự tồn tại của những án lệ hình sự tạo ra quy phạm ở Việt Nam và ghi nhận nguyên tắc đó bằng pháp luật.

Thứ hai, cần xác định rõ đâu là nội dung án lệ hình sự và trình bày nội dung đó một cách trung thực nhất.

Hiện nay, theo đánh giá của giới nghiên cứu, chúng ta chưa có những án lệ có nội dung rõ ràng. Các án lệ chủ yếu có nguồn là các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và trong phần quyết định của các văn bản này thì không chứa quyền, nghĩa vụ pháp lý cuối cùng của chủ thể, thường chỉ là việc hủy án và giao xét xử lại. Theo logic, có thể hiểu nội dung án lệ đối với những án lệ có nguồn là quyết định giám đốc thẩm sẽ luôn nằm ở phần lập luận của Tòa (trên thực tế một số án lệ cũng đã chỉ rõ nội dung án lệ nằm ở đoạn mấy của phần Xét thấy). Song, lập luận trong một vụ án cụ thể thì luôn mang tính chất cá biệt và khó khái quát thành các quy tắc chung. Do đó, trong cấu trúc của một bản án lệ ở Việt Nam tồn tại hai bộ phận mà theo nghiên cứu sinh là chưa phù hợp, đó là nội dung án lệ và khái quát nội dung án lệ. Nội dung án lệ là một đoạn trích nguyên văn lập luận của Tòa án trong bản án còn khái quát nội dung án lệ là sự khái quát hóa lập luận đó cho các trường hợp tương tự. Cách làm này chưa hợp lý nó lại làm mất đi một số tính chất vốn có của án lệ. Đoạn trích nguyên văn ở phần nội dung án lệ không có nhiều giá trị khi mà các Tòa án khác không được tiếp cận toàn văn bản án gốc. Nội dung vụ án được trình bày trong các án lệ của Việt Nam được biên tập lại các tình tiết chính của vụ án theo lời văn của cơ quan tuyển chọn và thông qua, ở đây là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc biên tập lại các bản án trước khi xuất bản cũng là một cách thức được nhiều quốc gia áp dụng. Tuy nhiên họ thường trần thuật lại đầy đủ, trung thực nội dung vụ việc. Khi nội dung án lệ được tách ra khỏi toàn văn bản án, quyết định gốc, Thẩm phán sẽ không thể tìm thấy các lập luận phụ để phục vụ cho lập luận chính đó khi giải quyết các vụ việc tương tự. Bên cạnh đó trong quá trình biên tập án lệ chỉ nên diễn đạt lại tình tiết, diễn biến còn lập luận phải giữ nguyên bản để đảm bảo tính trung thực. Về nguyên tắc, cơ quan thông qua án lệ là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không đồng nhất với chủ thể tạo lập ra bản án là án lệ. Tính linh hoạt của án lệ thể hiện ở chỗ, Thẩm phán giải quyết vụ án sau sẽ vận dụng những lập luận hợp lý của Thẩm phán trong vụ trước để phục vụ và phát triển lập luận của mình. Do đó, một lập luận có thể được khai thác ở nhiều góc độ khác nhau. Việc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cố gắng gò ép nội dung này vào một quy tắc chung đã làm triệt tiêu tính linh hoạt đó. Nguồn của án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng hiện hành là các quyết định giám đốc thẩm, mà chủ thể ban hành ra loại văn bản này là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đồng thời là cơ quan có thẩm quyền tuyển chọn và thông qua.

Thứ ba, nhận thức giá trị ràng buộc của án lệ hình sự, áp dụng để xét xử các vụ án tương tự.

Theo khoản 2 mục I điều 1 của Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31 tháng 10 năm 2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về phê duyệt đề án phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao quy định khi xét xử, các Tòa án được khuyến khích viện dẫn án lệ của Tòa án nhân dân tối cao. Tại Điều 1, Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 28 tháng 10 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán quy định “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. ” và tại Điều 8 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà án; trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Toà án.

Việc viện dẫn án lệ hình sự vào một quyết định của Tòa án có nghĩa án lệ hình sự là cơ sở pháp lý cho quyết định của vụ án mà Tòa án xét xử. Cơ sở cho quyết định của Tòa án còn phải dựa trên cơ cở pháp luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khác (quy định tại Điều 260, BLTT hình sự 2015). Viện dẫn án lệ hình sự là cách bày tỏ quan điểm về sự tính thống nhất trong áp dụng pháp luật của Thẩm phán, đảm bảo tính chặt chẽ và tính có căn cứ trong quyết định của mình, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tự mình quyết định có theo đường lối xét xử trong án lệ viện dẫn hay không. Như vậy, việc áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam không phải là giá trị pháp lý ràng buộc, mà nghiêng về giá trị thể hiện tính thống nhất trong áp dụng pháp luật của Thẩm phán, còn việc có đi theo đường lối xét xử trong án lệ được viện dẫn hay không là do Thẩm phán quyết định. Do đó, trong thời gian tới cần có những nguyên tắc áp dụng án lệ hình sự nhằm bảo đảm sự ràng buộc đối với những vụ án tương tự. Nguyên tắc tuân thủ án lệ đòi hỏi các bản án của Tòa án cấp dưới bị ràng buộc bởi án lệ của Tòa án cấp trên một cách nghiêm túc mới bảo đảm án lệ được áp dụng thống nhất trong cả nước. Cụ thể là các Tòa án cấp dưới của Tòa án tối cao (theo Luật tổ chức Tòa án năm 2014 gồm Tòa án cấp cao, Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện) trong phạm vi cả nước khi giải quyết các vụ án có tình tiết tương tự phải sử dụng án lệ đã được ban hành của Tòa án tối cao làm cơ sở pháp lý giải quyết. Riêng đối với Tòa án tối cao có phải tuân thủ theo án lệ của mình hay không thì cần có quy định rõ ràng trong luật. Nếu Tòa án tối cao không phải tuân thủ theo án lệ của mình đã ban hành trong quá khứ thì cần đưa ra tiêu chí để Tòa án tối cao có thể hủy bỏ án lệ không còn phù hợp và ban hành án lệ mới.

Thứ tư, tác động nhận thức về án lệ hình sự đến mọi đối tượng trong xã hội nhằm đưa các án lệ vào đời sống.

Cần chú trọng vào việc các báo cáo tổng kết, về việc hướng dẫn và thực tiễn áp dụng án lệ hình sự của Toà án nhân dân tối cao để đánh giá kết quả của việc xây dựng và áp dụng án lệ. Khi lựa chọn các án lệ hình sự thì cần phổ biến và hướng dẫn cụ thể với các toà án cấp dưới về nội dung những án lệ hình sự này bởi khi áp dụng án lệ hình sự thì Thẩm phán giữ một vai trò hết sức quan trọng vì vậy Thẩm phán cần phải là những người có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt và có khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, qua quá trình lựa chọn số lượng án lệ hình sự sẽ ngày càng gia tăng, để dễ dàng cho việc tìm kiếm thì ngay từ đầu phải có sự sắp xếp và lưu trữ một cách khoa học các án lệ hình sự như lưu trữ theo thời gian xét xử và theo các loại án hình sự.

Các bản án, quyết định của Tòa án hiện nay đã được công bố thể hiện tính minh bạch trong hoạt động của Toà án nói chung và hoạt động xét xử nói riêng nhưng vẫn rất khó tiếp cận vậy nên cần tăng cường việc phổ biến tuyên truyền về án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng bằng những phương thức khác nhau một cách cụ thể nhất.

Để thông tin về pháp luật về án được đầy đủ, cần kịp thời tiếp tục đăng tải thông tin án lệ mới trên trang thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án các cấp. Ngoài ra, chú trọngxây dựng chương trình, chuyên trang, chuyên mục về án lệ, đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật để phổ biến nội dung và tình hình áp dụng án lệ trong cả nước. Một trong những yếu tố tạo nên thành công và sức sống trường tồn của án lệ ở Châu Âu, đó là sự hỗ trợ đắc lực của truyền thông. Việc được các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin với tần suất lớn đã tạo nên một hiệu ứng lan tỏa, khiến án lệ trở nên nổi tiếng và thông dụng. Ở Việt Nam, chúng ta có nhiều thuận lợi trong việc phổ biến các án lệ, bởi số lượng án lệ được công bố trong mỗi đợt là khá ít và tần suất cũng khá thưa. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có điều kiện về thời gian để đào sâu vào ý nghĩa của từng án lệ và giới thiệu những nội dung này đến người dân thông qua các kênh báo đài, diễn đàn khoa học.

Bên cạnh đó, thông qua phương tiện truyền thông cần phải đặc biệt nhấn mạnh mục đích của việc xây dựng và áp dụng án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng là để tạo ra sự công bằng đối với mọi người dân trước pháp luật.

2.2. Hoàn thiện quy định của Hiến pháp và pháp luật hình sự về áp dụng án lệ hình sự

Hệ thống các quy định của pháp luật về sử dụng án lệ cũng là một yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp và đáng kể tới việc xây dựng và sử dụng án lệ ở nước ta. Với các quốc gia đã có truyển thống sử dụng án lệ, án lệ hình sự, thì án lệ hình sự đóng vai trò là loại nguồn quan trọng và phổ biến trong giải quyết các vụ án hình sự. Với một quốc gia mới chính thức công nhận việc sử dụng án lệ như ở Việt Nam hiện nay, cần có những quy định cụ thể để xây dựng và áp dụng án lệ hình sự đạt được hiệu quả.

Việc thừa nhận và chính thức áp dụng án lệ ở Việt Nam đặt ra yêu cầu phải sửa đổi các quy định của Hiến pháp 2013 và các văn bản khác có liên quan đến án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng.

Thứ nhất, cần sửa đổi quy định về thẩm quyền giải thích pháp luật trong Hiến pháp 2013. Theo đó Điều 102 Hiến pháp 2013 cần sửa đổi theo hướng ghi nhận thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án nhân dân tối cao. Có như vậy mới đảm bảo vai trò của Tòa án trong việc tạo lập án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng, vì án lệ luôn hàm chứa việc giải thích pháp luật. Đồng thời, việc quy định thẩm quyền này cho Tòa án nhân dân tối cao sẽ giúp tăng thêm tính độc lập và nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án.

Thứ hai, khi nghiên cứu quy định của Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015 đều có quy định khi xét xử. Bên cạnh đ, theo nghiên cứu của nghiên cứu sinh việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay còn những hạn chế nhất định như số lượng án lệ hình sự, phạm vi án lệ hình sự còn hạn chế…Bên cạnh đó trong các luật như Luật Dân sự (Điều 6), Bộ Luật tố dân sự năm 2015 (Điều 264, Điều 266), Luật tố tụng hành chính 2015 (Điều 94, Điều191, Điều 242) đều ghi nhận việc áp dụng án lệ trong xét xử, tuy nhiên trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 chưa ghi nhận việc áp dụng án lệ trong xét xử mà mới ghi nhận tại Điểm d Khoản 2, Điều 260 “ Nhận định của Hội đồng xét xử phải phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có tội hay không và nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo Điểm, Khoản, Điều nào của BLHS và của văn bản quy phạm pháp luật khác được áp dụng, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật;” và Điểm b Khoản 3 Điều 260 là “Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định trong bản án sơ thẩm; nội dung kháng cáo, kháng nghị; nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm, những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị; điểm, khoản, điều của BLHS và của văn bản quy phạm pháp luật khác mà Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ để giải quyết vụ án;”

Như vậy, Nhận định của Hội đồng xét xử phải phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có tội hay không và nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo Điểm, Khoản, Điều nào của BLHS và của văn bản quy phạm pháp luật khác được áp dụng, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật và trong bản án của Hội đồng xét xử có thể chấp nhận kháng cáo, kháng nghị là căn cứ vào quy định của BLHS và “của văn bản quy phạm pháp luật khác”. Ở đây chúng ta cần làm rõ văn bản pháp luật khác là gì? có bao gồm án lệ hình sự không?

Để giải quyết vấn đề này nhằm bảo đảm giá trị các loại án lệ (án lệ hình sự, án lệ dân sự, án lệ hành chính…) được bảo đảm án lệ trong thực tiễn như nhau thì cần phải nghiên cứu xử lý hoàn thiện theo một trong hai hướng sau:

Một là, sửa đổi, bổ sung Điều 260 quy định về án lệ hình sự

Hai là, hoặc là có văn bản hướng dẫn giải thích về quy định tại Điều 260 về việc áp dụng án lệ hình sự.

Thứ ba, cần hoàn thiện quy định pháp luật về quy trình lựa chọn và công bố án lệ. Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP dù đã đưa ra những quy định chi tiết về quy trình lựa chọn và công bố án lệ song vẫn còn có những điểm chưa thực sự rõ ràng cần khắc phục, bao gồm:

Một là, quy định chi tiết hơn đối với các tiêu chí lựa chọn án lệ án hình. Chỉ khi có những tiêu chí và sự quy định rõ ràng như vậy thì các Tòa án cũng như các cá nhân, tổ chức trong xã hội mới có thể xem xét để lựa chọn và đề xuất những bản án, quyết định có đáp ứng các tiêu chí này làm án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng và khi đó, sự lựa chọn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao sẽ tăng cường được số lượng và chất lượng án lệ hình sự.

Hai là, pháp luật cần có các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với những người có thẩm quyền trong việc đề xuất và lựa chọn án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng. Có như vậy mới nâng cao được tinh thần và trách nhiệm của những người có thẩm quyền lựa chọn và đề xuất những bản án, quyết định của Tòa án để lựa chọn làm án lệ. Đồng thời, thông qua những qui định này, năng lực và chất lượng xét xử sẽ được nâng cao, qua đó mới có được những bản án, quyết định đạt tiêu chuẩn để đề xuất lựa chọn làm án lệ hình sự.

Ba là, quy định cụ thể hơn về trách nhiệm tiếp thu ý kiến và trách nhiệm giải trình việc tiếp thu ý kiến của các chủ thể trong khâu lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn thành án lệ hình sự. Chỉ khi có sự công khai đối với quá trình tiếp thu ý kiến thì mới tránh được tình trạng áp đặt ý kiến chủ quan của các chủ thể có thẩm quyền trong lựa chọn và nâng cao chất lượng các án lệ hình sự.

Tóm lại, để việc phát triển án lệ hình sự có hiệu quả và tạo điều kiện cho các Thẩm phán xét xử các vụ án hình sự phải chủ động nghiên cứu, áp dụng án lệ vào thực tiễn xét xử và giải quyết các vụ án hình sự.

Án lệ hình sự là một trong những nội dung quan trọng của luật tố tụng nên đồng thời với việc quy định thẩm quyền phát triển án lệ trong Luật Tổ chức TAND (sửa đổi), vấn đề tiếp theo là cần thiết phải được quy định về giá trị pháp lý và nguyên tắc áp dụng án lệ hình sự trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng.

Quy định rõ trong phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của luật tố tụng hình sự. Vì đây là vấn đề rất mới, rất quan trọng của các luật tố tụng hình sự. Phạm vi điều chỉnh của luật được xác định là việc quy định về giá trị pháp lý, trình tự, thủ tục, nguyên tắc áp dụng của án lệ hình sự. Đối tượng áp dụng bao gồm: Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng hình sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc nghiên cứu, áp dụng án lệ hình sự

2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán xét xử vụ án hình sự các cấp

Thẩm phán hình là người có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết các cụ án hình sự so với những người tiến hình tố tụng khác đồng thời Thẩm phán hình sự còn là người có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử. Không những thế, vị trí của Thẩm phán hình sự còn thể hiện ở việc Thẩm phán hình sự là người đảm bảo sự công bằng thông qua hoạt động xét xử và do vậy bảo vệ công bằng trong hoạt động xét xử là yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động nghề nghiệp của người Thẩm phán.

Một trong những nhiệm vụ, trách nhiệm quan trọng của Thẩm phán hình sự đó là xác định tội danh và quyết định hình phạt. Xác định tội danh đúng là tiền đề quan trọng để cho việc lượng hình được đảm bảo khác quan, chính xác, đảm bảo sự công bằng. Quy định hình phạt công bằng có nghĩa là hình phạt được tuyên đối với bị cáo phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của bị cáo thực hiện. Với yêu cầu trên, chất lượng Thẩm phán hình sự đòi hỏi phải được nâng lên một bước.

Việc thừa nhận án lệ ở Việt Nam đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối với trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ Thẩm phán hình sự. Bởi án lệ do Thẩm phán hình sự tạo ra, án lệ cũng do Thẩm phán áp dụng khi xét xử các vụ án hình sự. Do đó, chỉ có độc lập thì Thẩm phán, kể cả Hội đồng Thẩm phán mới làm ra được án lệ hình sự có chất lượng; và chỉ có độc lập thì Thẩm phán mới có thể áp dụng được án lệ hình sự.

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trongHiến pháp 1946,Hiến pháp 1959,Hiến pháp 1980,Hiến pháp 1992được sửa đổi bổ sung năm 2001, Hiến pháp năm 2013 và Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Có thể hiểu nguyên tắc này theo hai khía cạnh là độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên trong.

Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.

Trong công cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt với việc thừa nhận, sử dụng án lệ ở Việt Nam thì vấn đề chất lượng của Thẩm phán là mấu chốt. Cần phải có những giải pháp để bảo đảm rằng Thẩm phán có thể thực sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Áp dụng án lệ là một trong những giải pháp hiệu quả, tạo động lực từ bên trong chứ không tạo áp lực từ bên ngoài, cụ thể là:

Thứ nhất, khi tiến hành xét xử một vụ án hình sự cụ thể được giao, Thẩm phán sẽ nghiên cứu các bản án tiền lệ của các vụ án tương tự. Trong trường hợp cho rằng bản án tiền lệ đó phù hợp với vụ án mình đảm nhận, Thẩm phán sẽ lấy quan điểm pháp lý rút ra từ bản án tiền lệ đó làm đường lối xét xử. Kết quả là Thẩm phán có thể xét xử một cách chính xác đối với vụ án hình sự mà mình đảm nhận. Án lệ hình sự giúp cho Thẩm phán dễ dàng hơn trong việc giải quyết các vụ án hình sự vì họ sẽ không phải tự tìm giải pháp cho từng vụ. Đó là, cách hữu hiệu để tiết kiệm thời gian, tiền bạc, công sức của Thẩm phán, bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Và để có thể ra được một quyết định chính xác và hợp lý thì các Thẩm phán phải nghiên cứu các tuyển tập án lệ hình sự

Thứ hai, việc tuân theo án lệ hình sự hạn chế sự tùy tiện và tiêu cực trong quá trình xét xử nói chung, xét xử các vụ án hình sự nói riêng, làm tăng uy tín của Thẩm phán và Tòa án các cấp, tăng sự tôn nghiêm của bản án hay quyết định đã có hiệu lực thi hành, thúc đẩy sự công bằng của Thẩm phán.

Thứ ba, Thẩm phán có động lực để thực sự nâng cao trình độ, trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các bản án, phải nghiên cứu khoa học pháp lý một cách bài bản và khoa học để có thể nhận định và giải quyết những bản án hình sự có những tình tiết, hành vi hay sự kiện pháp lý mới.

Thứ tư, cần có quy định hợp lý về nhiệm kỳ của Thẩm phán. Đây là vấn đề mấu chốt để bảo đảm cho sự nghiệp của Thẩm phán, từ đó bảo đảm được sự độc lập của họ. Về lý tưởng thì nhiệm kỳ suốt đời cho đến tuổi về hưu là sự lựa chọn tốt nhất. Tuy nhiên, đặc thù của nước ta cũng như các nước theo hệ thống pháp luật thành văn là các Thẩm phán thường theo một con đường sự nghiệp từ cấp thấp đến cấp cao. Sự ghi nhận phẩm chất và năng lực của họ cũng là một việc rất cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, duy trì nhiệm kỳ đối với Thẩm phán vẫn là một biện pháp hợp lý. Tuy nhiên nhiệm kỳ của Thẩm phán không cần phải dài, khoảng 10 năm là phù hợp với bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó Cơ chế tái bổ nhiệm cần phải được đổi thành cơ chế đương nhiên được tái bổ nhiệm, trừ những trường hợp có sai phạm rõ ràng về mặt đạo đức hay sai phạm một cách có về chuyên môn đến mức không thể tái bổ nhiệm. Những cơ chế trên phải được xây dựng trên cơ sở khách quan, khoa học đảm bảo quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán.

2.4. Ban hành quy trình riêng về trình tự, thủ tục, phạm vi tuyển chọn, công bố, áp dụng, mở rộng phạm vi án lệ hình sự

Hiện tại, quy trình lựa chọn, công bố, áp dụng án lệ hình sự tuân thủ theo các bước lựa chọn, công bố, áp dụng án lệ nói chung. Đó là:

(1) Chánh án của Tòa án các cấp hoặc Vụ trưởng Vụ giám đốc kiểm tra xem xét các phán quyết của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án các cấp để đề xuất lựa chọn án lệ. (2) Vụ pháp chế khoa học thuộc Tòa án nhân dân tối cao đăng tải phán quyết được đề xuất trên trang web của Tòa án trong 2 tháng để lấy ý kiến từ các học giả, cơ quan và tổ chức ngoài Tòa án. (3) Vụ pháp chế khoa học tổng hợp đề xuất và ý kiến bên ngoài, nghiên cứu xem phán quyết được đề xuất có giá trị lựa chọn làm án lệ hay không rồi lập báo cáo, và viết dự thảo án lệ dùng cho việc thu thập ý kiến. (4) Vụ pháp chế khoa học thuộc Tòa án nhân dân tối cao dùng dự thảo án lệ để thu thập lại ý kiến từ đại biểu quốc hội, các học giả, cơ quan và tổ chức. (5) Hội đồng tư vấn án lệ của Tòa án nhân dân tối cao sẽ thẩm tra kết quả nghiên cứu của Vụ pháp chế khoa học. (6) Cuối cùng, tiến hành biểu quyết và lựa chọn án lệ tại Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Trong suốt 3 năm kể từ sau khi đưa vào áp dụng án lệ, Việt Nam mới chỉ lựa chọn và công bố được 26 án lệ. Trong đó, duy nhất chỉ có 04 ALHS (phụ lục 2). Điều này cho thấy quy trình, thủ tục lựa chọn và công bố án lệ được thiết kế quá chú trọng đến hình thức và mang tính nghi thức thủ tục, nên việc tuân thủ và thực hiện thủ tục đó rất phức tạp và khó khăn. Hơn thế nữa, do những nguyên tắc đặc thù của luật hình sự cho nên cần điều chỉnh quy trình thủ tục lựa chọn án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng.

Theo quy trình lựa chọn, công bố án lệ nêu trên quyền quyết định cuối cùng trong việc lựa chọn án lệ thuộc về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, các ý kiến, đề xuất ngoài Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chỉ là ý kiến tham khảo cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa ra quyết định cuối cùng và độc lập với những ý kiến đó.

Theo quy định tại Nghị quyết số 03, chức năng của các thủ tục (2), (4), (5) bị trùng lặp, đều có mục đích là lấy ý kiến góp ý từ phía cá nhân, tổ chức bên ngoài Tòa án. Mặc dù, ý kiến bên ngoài Tòa án là cần thiết, là những định hướng quan trọng góp phần nâng cao chất lượng án lệ, nhưng chỉ cần giao cho một chủ thể tiến hành một lần là đủ. Ngoài ra, giao Vụ pháp chế khoa học thuộc Tòa án nhân dân tối cao lấy ý kiến thông qua các nội dung phản hồi được đăng tải trên bài báo, tạp chí học thuật, tạp chí khác…

Tương tự như trên, thủ tục (1), (3) cũng bị trùng lặp về chức năng lấy ý kiến trong nội bộ Tòa án để cung cấp tài liệu bổ sung cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên hai thủ tục này có thể gộp là một.

Trong thời gian tới, có thể tham khảo các phương thức sau để rà soát, lựa chọn án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng, đó là:

Phương thức thứ nhất, rà soát, lựa chọn về sau. Việt Nam áp dụng chế định án lệ muộn nên đối với những bản án được tuyên trước khi áp dụng chế định án lệ (2015), nên các cơ quan TANDTC thường tiến hành rà soát các bản án trước đây để lựa chọn và công bố thành án lệ. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả xây dựng và áp dụng án lệ cần phải áp dụng phương thức rà soát, tìm kiếm đối với những phán quyết được tuyên sau thời điểm áp dụng chế độ án lệ.

Phương thức thứ hai, lựa chọn ngay. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vai trò quan trọng nhất, đưa ra quyết định cuối cùng trong việc lựa chọn án lệ. Theo đó, đối với những bản án của Tòa án nhân dân tối cao được tuyên án sau này, nếu Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc các hội đồng xét xử của Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy “đây là bản án có giá trị về mặt xã hội và lý luận pháp luật” tại thời điểm tuyên án thì nên trực tiếp trình luôn lên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để đề xuất lựa chọn làm án lệ.

Trong những năm tới, Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ xây dựng và áp dụng án lệ nên sẽ tồn tại đan xen hai phương thức trên khi xây dựng án lệ. Trước mắt, việc áp dụng phương thức thứ nhất trong lựa chọn, công bố án lệ sẽ là phổ biến. Nhưng rất cần thiết phải nghiên cứu, áp dụng phương thức thứ hai trong thời gian gần nhất.

Quy định chi tiết hơn đối với các tiêu chí lựa chọn án lệ theo hướng mở rộng phạm vi án lệ hình sự đối với các hành vi, tình tiết còn có cách hiệu khác nhau, trong tố tụng hình sự, trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự…. Đặc biệt là với tiêu chí bản án, quyết định phải “mang tính chuẩn mực”, Tòa án tối cao cần có sự giải thích và hướng dẫn rõ ràng dựa trên những tiêu chí nào, mức độ ra sao thì một bản án, quyết định được coi là có tính chuẩn mực. Về nội dung, hình thức của bản án, quyết định của Tòa án phải đáp ứng được các yêu cầu gì. Chỉ khi có những tiêu chí và sự quy định rõ ràng như vậy thì các Tòa án cũng như cá nhân, tổ chức trong xã hội mới có thể xem xét để lựa chọn và đề xuất những bản án, quyết định có đáp ứng các tiêu chí này làm án lệ và khi đó, sự lựa chọn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao cũng mang tính thuyết phục. Quy định rõ và cụ thể hơn về chủ thể, trách nhiệm tiếp thu ý kiến và trách nhiệm giải trình việc tiếp thu ý kiến của các chủ thể trong khâu lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn thành án lệ. Công khai đối với quá trình tiếp thu ý kiến sẽ tránh được việc các chủ thể có thẩm quyền áp đặt ý kiến chủ quan khi lựa chọn và công bố án lệ.

2.5. Nghiên cứu xây dựng giáo trình, tài liệu về án lệ hình sự trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo pháp luật

Hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý và đào tạo nguồn nhân lực cũng là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc sử dụng án lệ ở nước ta. Chỉ tới khi hoạt động nghiên cứu khoa học về án lệ được phát triển mạnh mẽ, lý luận khoa học về án lệ được nghiên cứu, phát triển và phổ biến rộng rãi tới mọi người, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, sử dụng trực tiếp tới án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng thì khi đó án lệ hình sự mới thực sự được xây dựng thành công và phát huy đúng giá trị của mình trong hệ thống pháp luật.

* Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý, xây dựng giáo trình tài liệu về án lệ hình sự

Hiện nay, hoạt động nghiên cứu khoa học về án lệ đã có những chuyển biến theo hướng tích cực, có rất nhiều công trình khoa học, Hội thảo, bài viết, báo cáo của các nhà nghiên cứu về án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng đã được công bố, bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận về án lệ. Trước khi án lệ là một nguồn luật chính thức ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu lý luận và nghiên cứu pháp luật ở nước ta vẫn dành sự quan tâm nghiên cứu về án lệ, đặc biệt là những kinh nghiệm xây dựng, sử dụng án lệ của các nước trên thế giới và khả năng để đưa án lệ vào sử dụng chính thức ở Việt Nam. Những công trình nghiên cứu, hội thảo về án lệ đã được giới thiệu và tổ chức ngày càng nhiều ở trong và ngoài hệ thống Tòa án. Đây là những điều kiện rất tốt đối với sử dụng án lệ. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học cần tiếp tục được thực hiện theo hướng có hệ thống, không chỉ dừng lại ở lý luận mà còn khai thác thêm ở góc độ thực tiễn, đặc biệt là đẩy mạnh tìm kiếm những nhân tố hợp lý trong mô hình án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng của các nước trên thế giới để áp dụng ở Việt Nam, do vậy trong thời gian tới cần:

Khuyến khích, tạo động lực cho các tác giả có đề tài nghiên cứu, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về sử dụng án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng trong các chương trình đào tạo. Việc nghiên cứu án này sẽ giúp cho người học và người nghiên cứu tiếp cận, thực hành phương pháp học tập phổ biến ở các nền giáo dục tiên tiến là nghiên cứu tình huống. Thông qua việc tiếp cận, nghiên cứu các án lệ này, người học nắm vững kiến thức hơn kiến thức lý luận, kiến thức pháp lý, quy định pháp luật đồng thời thông qua hoạt động tự tìm hiểu, tự nghiên cứu nâng cao hơn tư duy luật học, kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tiễn chyên sâu từ góc độ yêu cầu của Thẩm phán, luật sư, công tố viên và các chức danh, bổ trợ tư pháp khác.

* Đối với hoạt động đào tạo và bồi dưỡng về án lệ hình sự

Công tác đào tạo nguồn nhân lực về án lệ ở nước ta còn đang rất hạn chế. Các chương trình đào tạo nhân lực trong lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là chương trình đào tạo cử nhân luật, Thẩm phán và luật sư còn rất ít chú trọng đào tạo về án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng và đào tạo theo phương pháp vụ việc, thiếu đi các vụ việc thực tế trong chương trình giảng dạy một cách thường xuyên. Trong khi đó, các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là Anh, Mĩ, những nước đi đầu trong việc sử dụng và phát huy vai trò của án lệ lại rất chú trọng đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực pháp luật có hiểu biết sâu về án.

Có thể khẳng định, việc đổi mới tư duy, trong đó có tư duy pháp lý ở Việt Nam thời gian qua đã dẫn đến những thay đổi sâu sắc trên khắp các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong đó có việc thừa nhận và áp dụng án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng như một loại nguồn chính thức. Những thay đổi đó đòi hỏi những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo pháp luật buộc phải đổi mới để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ đào tạo hiện nay. Cần phải có những thay đổi lớn về nội dung chương trình cũng như phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo, phù hợp với phương thức đào tạo theo tín chỉ và tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước, trong đó có việc áp dụng án lệ nói chung, áp dụng án lệ hình sự nói riêng.

* Tăng cường sử dụng án lệ trong các chương trình đào tạo luật trình độ đại học, sau đại học các ngành luật

Trước hết, có thể lồng ghép phần nội dung giảng dạy nghiên cứu tổng quan về án lệ trong các môn học kiến thức theo khối ngành hoặc lồng ghép vào môn học chương trình đào tạo nghiệp vụ đang được giảng dạy tại các cơ sở đào tạo nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp. Một số môn học có giảng dạy về án lệ đó là môn lý luận nhà nước và pháp luật, só sánh, tư duy pháp lý. Có thể tham khảo một số cơ sở đào tạo đã triển khai đào tạo về án lệ như:

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh trong Chương trình đào tạo cử nhân ngành Luật có đưa môn Án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam vào giảng dạy với tư cách là môn học tự chọn 02 tín chỉ, ngoài ra, trong cả hai chương trình đào tạo cử nhân ngành Luật và ngành Luật thương mại quốc tế đều giảng dạy môn học kỹ năng nghiên cứu và lập luận là loại học phần tự chọn với thường lượng 02 tín chỉ, trong đó có giới thiệu sơ lược về kỹ năng nghiên cứu án lệ.

Ngoài ra, chương trình đào tạo cử nhân Luật của trường Đại học Ngoại thương Hà Nội và chương trình đào tạo cử nhân Luật kinh doanh quốc tế của Khoa Luật - trường Đại học Kinh tế quốc dân bao gồm các môn nghiên cứu về án lệ như lý luận nhà nước và pháp luật, luật so sánh. Bên cạnh đó, chương trình này cũng được thiết kế với những môn học về kỹ năng thực hành pháp luật cơ bản như kỹ năng giao tiếp với khách hàng, kỹ năng nói, viết và nghiên cứu pháp luật, kỹ năng phân tích án lệ, kỹ năng tư vấn, kỹ năng tranh tụng…”

Trường Đại học Luật Hà Nội, trong chương trình đào tạo đại học hệ chính quy ngành Luật ban hành kèm theo quyết định số 2100/QĐ-ĐHLHN ngày 21/8/2014 của Hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội, án lệ đã được đưa vào giảng dạy trong một số môn học: Lý luận nhà nước và pháp luật, luật học so sánh, nghề luật và phương pháp học luật, kỹ năng lập luận và viết dành cho nghề luật.

Theo phương thức lồng ghép kiến thức và kỹ năng nghiên cứu án lệ vào các môn học, thì các môn sẽ được thiết kế lại theo hướng tăng thời lượng giảng dạy về án lệ. Ví dụ, trong chương trình giảng dạy môn lý luận nhà nước và pháp luật, phần nội dung về tiền lệ pháp nên tăng thời gian và lượng kiến thức khi giảng dạy cho sinh viên, tiếp cận án lệ sâu hơn với tư cách là nguồn luật, cách thức xây dựng, công bố, hệ thống hóa và cách áp dụng nguồn luật này trong thực tiễn. Bên cạnh đó, các môn học kỹ năng nên tập trung nghiên cứu sâu hơn về kỹ năng đọc, phân tích, tóm tắt án lệ, kỹ năng nhận diện vấn đề pháp lý, nguyên tắc pháp luật trong bản án, thay vì chỉ dựng lại ở mức giới thiệu sơ lược về cơ cấu một bản án của các nước thông luật như hiện nay.

Thứ hai, các cơ sở đào tạo cử nhân Luật các chuyên ngành phối hợp, thống nhất thiết kế môn học về kỹ năng nghiên cứu và phân tích án lệ độc lập. Theo đó, các cơ sở đào tạo tập trung phân bổ thời lượng môn học, nội dung giảng dạy, học liệu và đội ngũ giảng viên, mục đích của các phương thức trên đó là:

Một là, cần cung cấp nhiều hơn, đầy đủ hơn những tri thức lý luận nhất định về án lệ. Có thể khẳng định trong hiện tại và tương lai thì văn bản quy phạm pháp luật vẫn là nguồn quan trọng và chủ yếu của pháp luật Việt Nam, song không là nguồn duy nhất, do vậy, việc đào tạo luật cần phải được mở rộng theo hướng tiếp cận đa dạng đối với các nguồn luật, trong đó có án lệ. Nghiên cứu đầy đủ hơn về các loại án lệ theo pháp luật Anh Mỹ và theo pháp luật Châu Âu lục địa. Bởi các án lệ mà Việt Nam hiện nay đang dùng giống với án lệ đang được áp dụng ở các nước Châu Âu lục địa (không phải nguồn pháp luật chủ yếu và là án lệ hình thành bởi quá trình Tòa án giải thích các qui định trong pháp luật thành văn).

Hai là, cần nâng cao hiểu biết về chức năng vai trò của án lệ trong văn hóa pháp lý của Việt Nam. Pháp luật Việt Nam ngày càng hội nhập, hài hòa hóa với pháp luật các nước khác, nhiều quy định của pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế đã được tiếp biến, cấy ghép vào hệ thống pháp luật Việt Nam, đòi hỏi việc tiếp nhận nguồn pháp luật án lệ cũng đang được đặt ra. Để có thể tiếp nhận được án lệ với tư cách là nguồn pháp luật chính thức đòi hỏi phải có sự nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vấn đề này, nhất là trong giới luật học và các nhà chính khách của Việt Nam. Sự thay đổi nhận thức này có thể được thực hiện thông quan con đường đào tạo luật tại các cơ sở đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nghề. Quá trình đào tạo này cần phải chú trọng sử dụng các án lệ để cung cấp kiến thức, thay vì việc phụ thuộc hoàn toàn vào các văn bản pháp luật thành văn. Các giáo trình luật của Việt Nam nên được bổ sung thêm việc giới thiệu và phân tích các vụ án, án lệ đã có. Chỉ khi nào các luật sư, Thẩm phán và một số chủ thể khác có thói quen sử dụng án lệ khi giải quyết vụ việc thì lúc đó án lệ mới có vị thế vững chắc trong các nguồn luật của Việt Nam. Về vấn đề này tiến sĩ Nguyễn Văn Nam cũng cho rằng, “các trường luật của nước ta nên học hỏi thêm những kinh nghiệm về xây dựng giáo trình, tài liệu trong các trường luật của các nước phát triển... để tăng cường hơn nữa chất lượng đào tạo luật ở Việt Nam, các giảng viên, giáo sư luật ở Việt Nam nên từ bỏ phương pháp truyền thống viết giáo trình theo sự phân tích văn bản quy phạm pháp luật thuần túy mà không có sự liên hệ, viện dẫn, phân tích các án lệ” [47, tr.406].

Ba là, giúp sinh viên xác định giá trị bắt buộc tham khảo của các án lệ. Theo nghiên cứu sinh trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam chỉ áp dụng án lệ ở mức độ tham khảo, chứ không bắt buộc, tức là án lệ chỉ được đặt ở vị trí nguồn bổ sung. Án lệ đứng sau văn bản quy phạm pháp luật và không thể thay thế văn bản quy phạm pháp luật. Điều này có nghĩa là cơ sở để giải quyết vụ việc vẫn là các văn bản quy phạm pháp luật chứ không phải là án lệ. Án lệ không thể đứng độc lập mà buộc phải được dẫn giải từ các quy định pháp luật thành văn. Bởi từ khi áp dụng án lệ thì cấu trúc của hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn không thay đổi gì nhiều. Việc Tòa án tham khảo các án lệ sẽ làm tăng tính thuyết phục của bản án, và làm tăng sự thống nhất trong khâu áp dụng pháp luật. Từ đó nâng cao chất lượng và có thể làm giảm thời gian xét xử của Tòa án.

Bốn là, giúp sinh viên xác định những bản án nào có giá trị tiền lệ. Do không phải mọi bản án đều có thể được viện dẫn như những tiền lệ, nên việc xác định bản án nào có giá trị tiền lệ để tham khảo là rất quan trọng. Án lệ chỉ là các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định giám đốc thẩm của các Tòa án chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền ban hành án lệ và giám sát việc áp dụng án lệ của các Tòa án cấp dưới. Tuy vậy, việc áp dụng án lệ không nên quá cứng nhắc, Tòa án nhân dân tối cao có thể bãi bỏ hoặc thay đổi các án lệ bằng cách ban hành một án lệ mới khi các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của đất nước có sự thay đổi. Về lâu dài, khi mà thói quen sử dụng án lệ của Thẩm phán và các chủ thể khác trong xã hội tăng lên, đồng thời năng lực của Tòa án các cấp được cải thiện thì số lượng và đối tượng của các bản án được công nhận là án lệ có thể tăng lên.

Năm là, lưu trữ, đánh chỉ mục và công khai các bản án của Tòa án nhân dân các cấp. Công việc này là một trong những tiền đề quan trọng nhất nhằm tạo lập nguồn án lệ tại Việt Nam. Việc lưu trữ và công bố án lệ nên được thực hiện theo hai phương thức, gồm xuất bản tuyển tập án lệ và đăng tải trên mạng internet. Ngoài việc công khai bản án, Tòa án cũng nên thống nhất phương pháp đánh chỉ mục và đặt tên cho bản án sao cho dễ nhớ và thuận tiện cho việc tra cứu. Bên cạnh đó, công tác hệ thống hóa, biên tập các bản án cũng rất quan trọng. Khi có nhiều bản án cùng giải quyết một vấn đề pháp lý hoặc các vấn đề pháp lý có liên quan đến nhau thì nên được tập hợp lại thành từng nhóm.

Việc lưu trữ, đánh chỉ mục, công bố, biên tập và bình luận các bản án có rất nhiều ích lợi: Thứ nhất, việc này sẽ giúp các Thẩm phán tiếp cận, tra cứu án lệ khi thực hiện công việc của mình; thứ hai, công tác này sẽ giúp mở rộng phạm vi ảnh hưởng của các án lệ, không chỉ trong các hoạt động liên quan đến Tòa án mà cả các hoạt động khác như luật sư tư vấn, tranh tụng, cán bộ nhà nước giải quyết vụ việc hành chính, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giảng dạy, nghiên cứu pháp luật; thứ ba, công tác này là một bước tiền đề giúp pháp điển hóa các án lệ và xây dựng, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật.

Sáu là, giúp sinh viên biết cách tổ chức thực hiện pháp luật, đặc biệt là áp dụng án lệ cho chính xác, đúng trình tự, thủ tục và có hiệu quả. Nói khác đi là, biết cách vận dụng những vấn đề lý luận đã được trang bị để xử lý các tình huống đa dạng phức tạp của cuộc sống trên cơ sở những quy định của pháp luật, của các án lệ hiện hành. Có thể nói khả năng này của sinh viên là không cao, nhiều cơ quan, đơn vị nhận sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật đều phàn nàn về vấn đề này. Do vậy, ngay từ trong cơ sở đào tạo sinh viên đã phải được hướng dẫn cách áp dụng án lệ. Chẳng hạn, hướng dẫn hoàn thiện cơ chế áp dụng án lệ của Tòa án.Khi Thẩm phán xét xử một vụ việc và nhận thấy vụ việc đó có tính tương tự so với một án lệ có sẵn thì Thẩm phán có trách nhiệm áp dụng án lệ đó. Nếu một bên đương sự viện dẫn một án lệ thì Tòa án có nghĩa vụ xem xét tính tương tự của án lệ đó so với vụ việc đang giải quyết. Nếu Thẩm phán không áp dụng án lệ đó thì phải nêu lý do vì sao áp dụng án lệ trong vụ việc đang giải quyết là không phù hợp.

Bảy là, hướng dẫn sinh viên cách viết bản án theo hướng để sau này có thể chuyển thành án mẫu (án lệ). Cách viết bản án của Tòa án cần phải được cải tiến theo hướng làm rõ hơn căn cứ, lập luận để ra quyết định; bổ sung thêm việc viện dẫn án lệ có liên quan. Riêng đối với bản án, quyết định của Tòa án nhân dân tối cao cần được viết rõ hơn khi phân tích sai lầm của Tòa án cấp dưới; bao gồm cả ý kiến phản bác hoặc các lập luận không thống nhất.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh hoạt động giao lưu, công tác giữa các cơ sở đào tạo và các chuyên gia tham gia các hoạt động của ngành Tòa án nhằm xúc tiến qu trình nghiên cứu, sử dụng, công bố, phát triển án lệ ở Việt nam

Đối với hoạt động đáo tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Thẩm phán

Án lệ là sản phẩm của sự sáng tạo của các Thẩm phán trong quá trình áp dụng pháp luật, bởi thế để có được các án lệ chất lượng thì vai trò của Thẩm phán là vô cùng quan trọng. Trong tiến trình xây dựng hệ thống án lệ ở Việt Nam hiện nay, vấn đề đặc biệt quan trọng và cần thiết chính làkhông ngừng nâng cao trình độ pháp lý và kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phasnn, Kiểm sát viên, hội thẩm nhân dân…Để làm được điều này cần:

Thứ nhất, mở các khóa tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, hội thẩm nhân dân, luật sư cũng như các chức danh tư pháp khác. Trong đó xây dựng chương trình đi sâu vào phổ biến, đào tạo về án lệ, bao gồm cả các vấn đề lý luận và thực tiễn về án lệ để các Thẩm phán có được nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí và giá trị của án lệ;

Thứ hai, đào tạo Thẩm phán, hội thẩm nhân dân, luật sư cũng như các chức danh tư pháp khác, nâng cao trình độ chuyên môn để tăng cường khả năng lập luận cũng như xét xử, viết các bản án đáp ứng được các tiêu chí để lựa chọn làm án lệ;

Thứ ba, Tổ chức các buổi tập huấn, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm để các Thẩm phán, hội thẩm nhân dân, luật sư cũng như các chức danh tư pháp khác ở Việt Nam có thể học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm của nước ngoài, bao gồm cả các nước trong hệ thống pháp luật Common Law và CivilLaw.

Thứ tư, tăng cường sự trao đổi, kết nối giữa hoạt động thực tiễn và hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý của các Thẩm phán hội thẩm nhân dân, luật sư cũng như các chức danh tư pháp khác để họ không chỉ có được kinh nghiệm thực tế và còn có khả năng tự hoàn thiện các vấn đề lý luận.

Tài liệu Tham khảo

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02.01/2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp”, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

4. Nguyễn Bá Bình(Chủ nhiệm, 2018), Sử dụng án lệ trong hoạt động đào tạo cán bộ pháp luật, tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp -Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội.

5. Trương Hòa Bình (Chủ nhiệm, 2012), Triển khai án lệ vào công tác xét xử của Tòa án Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao.

6. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Lê Văn Cảm (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.

8. Chánh án TANDTC (2016), Quyết định số 220/QĐ-CA về việc công bố án lệ

9. Chánh án TANDTC (2016), Quyết định số 698/QĐ-CA về việc công bố án lệ

10. Chánh án TANDTC (2016), Quyết định số 299/QĐ-CA về việc công bố án lệ

11. Nguyễn Văn Cường (2009)“Nhận thức chung về án lệ, tầm quan trọng của án lệ trong công tác xét xử, khái quát các trường phái án lệ trên thế giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ II, tháng 2 (số 4).

12. Nguyễn Văn Cường,(2009) “Án lệ Nhật Bản và một số vấn đề đặt ra khi đưa án lệ vào công tác xét xử tại Tòa án Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ I, tháng 10 (Số 19).

13. Lưu Tiến Dũng (2003), Thạc sĩ luật học,“Vai trò của án lệ ở các nước theo Hệ thống Common Law (commonlaw) và các nước theo hệ thống dân luật (civil law)”, Thông tin khoa học xét xử số 5, TANDTC, trang 10.

14. Đỗ Văn Đại số,“Án lệ của Tòa án tối cao - Kinh nghiệm của Pháp đối với sự phát triển án lệ tại Việt Nam” , Tạp chí Tòa án nhân dân , Số 13 (2011)

15. Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

16. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, HN.

17. Đại học luật Hà Nội (2015), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, tr. 95

18. Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

20. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật so sánh, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

22. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

23. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật So sánh, Nxb Công an nhân dân.

24. Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Học viện Tòa án (2016), Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử phần kỹ năng giải quyết vụ án hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

27. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2015), Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.

Từ khóa » Các án Lệ được Thừa Nhận ở Việt Nam