Nghiệp Vụ Tín Dụng Ngân Hàng Là Gì? Các Loại Hình Tín Dụng Chủ Yếu

  1. Nghiệp vụ tín dụng (Credit operations)
  2. Một số loại hình tín dụng chủ yếu 
    1. Cho vay ứng trước 
    2. Cho vay theo hạn mức
    3. Cho vay thấu chi 
    4. Cho vay chiết khấu
    5. Tín dụng thuê mua (Leasing)
    6. Tín dụng bằng chữ kí (bảo lãnh)

Nghiệp vụ tín dụng (Credit operations) là một nghiệp vụ của ngân hàng thương mại liên quan đến việc sử dụng nguồn vốn của ngân hàng, bao gồm các hình thức cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và thuê tài chính.

Nghiệp vụ tín dụng (Credit operations)

Nghiệp vụ tín dụng – danh từ, trong tiếng Anh được dùng bởi cụm từ Credit operations.

Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ trong các hoạt động cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính, trong đó, hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng trung gian nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. (Theo Giáo trình Ngân hàng Thương mại, NXB Thống kê)

Một số loại hình tín dụng chủ yếu 

Hoạt động cho vay trong tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Sau đây là một số loại hình tín dụng chủ yếu.

Cho vay ứng trước 

Cho vay ứng trước là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho người đi vay một khoản tiền vay nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi vào lúc hoàn trả vốn gốc. Cho vay ứng trước có hai loại:

  • Cho vay ứng trước có bảo đảm: Bảo đảm bằng các động sản như hàng hoá, tài sản hay chứng từ – Cho vay cầm cố: là cho vay trên cơ sở cầm cố tại ngân hàng các tài sản, có thể là hiện vật như vật tư hàng hoá, hoặc là giấy tờ như các giấy sở hữu hàng hoá, các chứng từ thanh toán (bộ chứng từ đòi tiền người nhập khẩu gồm B/E, chứng từ gửi hàng), chứng từ có giá (thương phiếu, chứng khoán, …), thậm chí cả vàng, bạc, đá quí, ngoại tệ… 
  • Cho vay ứng trước không có bảo đảm: là cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng đối với Ngân hàng mà không cần có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh. Do vậy còn gọi là cho vay tín chấp. Trong trường hợp này, ngân hàng quyết định cho vay thông qua việc đánh giá các chỉ tiêu như mức vốn tự có, lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp cũng như năng lực, phẩm chất của những người quản lý công ty… Trên thực tế đó là các khách hàng uy tín, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng hoặc những doanh nghiệp lớn.

Cho vay theo hạn mức

Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng và khách hàng thỏa thuận trước số tiền tối đa (gọi là hạn mức tín dụng) mà khách hàng được vay từ ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định.

Sau khi đã thỏa thuận về hạn mức tín dụng, khách hàng có thể vay làm nhiều lần trong khoảng thời gian thỏa thuận mà không phải làm đơn xin vay với điều kiện tổng số tiền của các lần vay không vượt quá hạn mức tín dụng.

Hình thức cho vay này thường được áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên.

Cho vay thấu chi 

là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó Ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số tiền dư trên tài khoản vãng lai trong một hạn mức và thời hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng.

Khác với cho vay ứng trước, mức tín dụng thoả thuận trong cho vay thấu chi chưa phải là khoản tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (thấu chi) thì mới được coi là tín dụng được cấp phát và bắt đầu tính tiền lãi.

Hình thức cho vay này thường chỉ được áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.

Cho vay chiết khấu

Là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương mại mua lại các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu.

Khi đến hạn trả tiền thì Ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi trên thương phiếu ở người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.

Lãi suất chiết khấu được tính toán căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường, chi phí thu tiền thương phiếu, mức độ trượt giá, rủi ro không đòi được tiền thương phiếu 

Cần lưu ý là tiền lãi trong cho vay chiết khấu không được tính trên số vốn mà người đi vay được sử dụng như cho vay ứng trước mà trên thực tế lại được tính trên tổng lãi và vốn gốc.

Tín dụng ủy thác thu hay bao thanh toán (Factoring)

Là nghiệp vụ trong đó công ty “factor” – công ty con của ngân hàng – cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá chiết khấu. Các khoản nợ này thường là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày).

Tín dụng thuê mua (Leasing)

Còn được gọi là tín dụng thuê mua, là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và các bất động sản khác.

Ngân hàng sẽ dùng vốn của mình để mua tài sản theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Trong thực tế, các ngân hàng thường thành lập một công ty con chuyên trách nghiệp vụ này gọi là công ty tài chính thuê mua.

Tín dụng bằng chữ kí (bảo lãnh)

Là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín (chữ kí) của mình, ngân hàng tạo điều kiện để khách hàng sử dụng vốn vay của người khác và đảm bảo thanh toán hộ khách hàng. (Theo Giáo trình Ngân hàng Thương mại, NXB Thống kê)

Từ khóa » Ngành Tín Dụng Ngân Hàng Là Gì