Ngữ âm Tiếng Ta ôi (trên Tư Liệu Tiếng Ta ôi ở Xã A Roàng, Huyện A Lưới ...

Tải bản đầy đủ (.doc) (172 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Thạc sĩ - Cao học
  4. >>
  5. Khoa học xã hội
NGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG, HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.84 KB, 172 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAMHỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘITRƯƠNG THỊ HỒNG GÁINGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI(TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG,HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ)LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌCHÀ NỘI, 2019VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAMHỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘITRƯƠNG THỊ HỒNG GÁINGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI(TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG,HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ)Ngành: Ngôn ngữ họcMã số:8229020NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. PHAN LƯƠNG HÙNGLỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan nghiên cứu này là của riêng tôi. Tôi không sao chép ởbất cứ công trình nào khác, mọi trích dẫn số liệu đầy đủ.Tác giảTrương Thị Hồng GáiLỜI CẢM ƠNTác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Thầy Phan Lương Hùng –người đã trực tiếp hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong Khoa Ngôn ngữ học, Học việnKhoa học xã hội Việt Nam đã giảng dạy cho tác giả luận văn. Tôi cũng xingửi lời cảm ơn sâu sắc đến quỹ tài trợ Faro AS của Na Uy. Đặc biệt, xin cảmơn vợ chồng Per và Guri, những người rất tốt bụng và tử tế đã thành lập raquỹ học bổng và tài trợ cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận vănnày.Xin cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Ngôn ngữ học, PGS.TS Nguyễn HữuHoành chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu xác định thành phần ngônngữ các dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với vấn đề xác định thành phầndân tộc”, tập thể phòng Nghiên cứu Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở ViệtNam đã hỗ trợ cho tôi học tập và thực hiện luận văn.Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới cán bộ và nhân dân xã ARoàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là các cộng tác viênngười Tà Ôi đã giúp tôi sưu tập tư liệu cho luận văn này.Do hạn chế về thời gian và vốn kiến thức nên luận văn không tránhkhỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của các thầycô và đồng nghiệp, để luận văn hoàn thiện hơn.Người thực hiệnTrương Thị Hồng GáiMỤC LỤCMỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍTHUYẾT VÀ THỰC TẾ................................................................................ 81.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi.....................................81.2. Cơ sở lí thuyết và thực tế của đề tài.....................................................10Chương 2.TỪ ÂM VỊ HỌC VÀ ÂM TIẾT TRONG TIẾNG TA ÔI........302.1. Đặc điểm chung về cấu trúc từ âm vị học tiếng Ta Ôi.........................302.2. Các loại âm tiết trong tiếng Ta Ôi........................................................ 36Chương 3. HỆ THỐNG ÂM VỊ TIẾNG TÀ ÔI......................................... 453.1. Hệ thống âm đầu tiếng Tà Ôi............................................................... 453.2. Hệ thống nguyên âm trong tiếng Tà Ôi................................................533.3. Hệ thống phụ âm cuối trong tiếng Tà Ôi..............................................593.4. Khả năng kết hợp giữa các âm vị trong tiếng Tà Ôi............................ 61KẾT LUẬN.................................................................................................... 66TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 69PHỤ LỤC.......................................................................................................73DANH MỤC BẢNG, HÌNHBảng 1.1:Bảng thống kê về số thôn và số hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn xã......................................................................................................................... 12Bảng 1.2: Bảng thống kê về số thôn và thành phần các dân tộc thiểu số trênđịa bàn xã........................................................................................................ 12Bảng 2.3: So sánh giá trị trường độ hai dạng từ âm vị học.............................353.1. Bảng danh sách các phụ âm đầu tiếng Tà Ôi........................................... 523.3 : Bảng nguyên âm với phụ âm đầu đơn......................................................623.4 :Bảng kết hợp nguyên âm với tổ hợp phụ âm đầu......................................623.5 : Bảng kết hợp nguyên âm với phụ âm cuối và tổ hợp phụ âm cuối..........63Hình 2.1: Sóng âm, phổ đồ của từ âm vị học dạng1 trong từ [hit] (gió).........34Hình 2.2: Sóng âm, phổ và cường độ từ âm vị học dạng 2 trong từ...............35[bɤrɯɤŋ] (hang).............................................................................................35QUY ƯỚC TRONG VIỆC TRÌNH BÀY1. Luận văn sử dụng cách phiên âm quốc tế IPA (The International PhoneticAlphabet) để ghi tiếng Ta Ôi2. Kí hiệu “ngoặc vuông” [ ] chỉ nội dung bên trong ngoặc có giá trị ngữ âmhọc3. Kí hiệu “gạch chéo” / / chỉ nội dung bên trong gạch có giá trị âm vị học4. Kí hiệu “hai chấm” (: ) chỉ sau dấu này là nghĩa tương ứng trong tiếng ViệtMỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tàiViệt Nam là quốc gia đa ngôn ngữ đa dân tộc với dân tộc Kinh chiếmđa số và 53 dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc (ethnic) có thể bao gồm nhiều nhómtộc người (nhóm địa phương) khác nhau với các đặc điểm về văn hóa vật thể,cũng như văn hóa phi vật thể (phong tục tập quán, văn hóa dân gian...) khácnhau. Ngôn ngữ là phương tiện của hoạt động tư duy, giao tiếp, là thành tốquan trọng của văn hóa và cũng là một tiêu chí cơ bản để xác định thành phầndân tộc.Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ta Ôi có dân số43.886 người, sinh sống tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố ở Việt Nam.Người Ta Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là huyện ALưới (29.558 người, chiếm 67,35%), Quảng Trị (13.961 người, chiếm31,81%)... Theo các tài liệu dân tộc học, người Tà Ôi có ba nhóm địa phươnglà Ta Ôi, Pa Cô và Pa Hy. Tuy nhiên theo tình hình thực tế ghi nhận được thìba cộng đồng người này tự nhận mình là những nhóm tộc người khác nhau.Người Ta Ôi hiện đang cư trú chủ yếu ở Thừa Thiên Huế, huyện A Lưới với866 hộ và 3576 khẩu. Tỉ lệ số hộ và khẩu của người Ta Ôi ở A Ngo chiếm sốlượng đông nhất với 703 hộ và 3062 khẩu.Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Ta Ôi thuộc nhánh Cơ tu - Bru (Katuic),chi Mon - Khmer của ngữ hệ Nam Á, có quan hệ rất gần với tiếng nói của cácdân tộc Bru- Vân Kiều và Cơ tu [1]. Về mặt loại hình, tiếng Ta Ôi là một ngônngữ đơn lập. Tiếng Ta Ôi là tiếng mẹ đẻ, là ngôn ngữ thứ nhất của người TaÔi. Đối với mỗi người Ta Ôi thì đây là công cụ giao tiếp và là công cụ tư duyquan trọng nhất. Không những thế, tiếng Ta Ôi cùng với nền văn hóa truyềnthống giàu bản sắc dân tộc của dân tộc này đã góp phần làm phong phú và đadạng hơn nữa cho vườn hoa nhiều màu sắc trong nền văn1hóa chung của đất nước. Làm thế nào để bảo tồn và phát triển ngôn ngữ này,trong xu hướng mai một ngôn ngữ của nhiều dân tộc thiểu số hiện nay ở ViệtNam?Vấn đề dân tộc và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số luôn được Đảng vàNhà nước ta đặc biệt quan tâm từ rất sớm, bởi vì nó liên quan đến việc hoạchđịnh các chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là vấn đề bảo tồn vàphát huy những giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc nhằm phát triển bềnvững đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhậpvới thế giới. Tuy nhiên, để có thể đưa ra những chính sách hợp lý, hiệu quảthì việc nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ là một việc làm tất yếu và phải đi trướcmột bước. Tuy nhiên, tùy từng ngôn ngữ mà phải có những hướng tiếp cận vàmục tiêu nghiên cứu khác nhau. Điều này có thể nói rằng: Việc nghiên cứungôn ngữ các dân tộc …có tầm quan trọng riêng về mặt khoa học cũng như vềmặt chính trị, văn hóa và xã hội.Hiện nay đang có một số nhu cầu nảy sinh trong thực tế, chủ yếu thuộccác lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông. Đó là: nhu cầu của người dânthuộc các cộng đồng nói tiếng Ta Ôi trong việc học tiếng mẹ đẻ và tiếngViệt, đặc biệt là học sinh các cộng đồng này khi học tiếng Việt và học bằngtiếng Việt; nhu cầu của cán bộ chiến sĩ công tác ở vùng các cộng đồng nóitiếng Ta Ôi trong việc tra cứu để nắm được và sử dụng được tiếng của đồngbào trong thực tế công tác (theo tinh thần Chỉ thị 38/2004/CT-TTg); nhu cầusử dụng tiếng Ta Ôi trong thông tin tuyên truyền, văn nghệ; nhu cầu bảo tồntiếng nói chữ viết của cộng đồng Ta Ôi, cùng việc sưu tầm, biên dịch các ángvăn nghệ dân gian (truyện cổ, dân ca, sử thi, thành ngữ tục ngữ, luật tục...)bằng tiếng nói và chữ viết Tà Ôi như bảo tồn những nét bản sắc trong vănhóa truyền thống của dân tộc này, trước sự tiếp biến văn hóa ồ ạt và xuhướng toàn cầu hóa hiện nay. Các nhu cầu trên có thể được đáp ứng mộtphần nhờ những nghiên cứu nhiều mặt, trong đó có ngữ âm Ta Ôi.Trong số các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tiếng Ta Ôi được quan tâm từlâu, song xung quanh nó vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ. Đã có nhiều công trìnhnghiên cứu về tiếng Ta Ôi gắn liền với những tên tuổi: Richard Watson vàCubuat (1969) Nguyễn Văn Lợi (1985), Đoàn Văn Phúc (2002)..., nhưng chođến nay chưa có công trình nào nghiên cứu riêng biệt và sâu sắc về ngữ âmtiếng Ta Ôi ở địa bàn xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do đóđây có thể coi là một đề tài mới, có ý nghĩa về mặt lí luận nghiên cứu khoahọc cũng như mặt thực tiễn.2. Tình hình nghiên cứu lien quan đến đề tàiSố lượng các công trình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi được các nhà nghiêncứu ngoài nước tiến hành còn rất hạn chế. Các nhà nghiên cứu nước ngoài đếnvới tiếng Ta Ôi chủ yếu là của Viện Ngôn ngữ học Mùa hè Mỹ (The SummerInstitute of Linguistics (SIL). Chữ của những người Pa Cô - Ta Ôi đã được tổchức SIL (The Summer Institute of Linguistics - Viện Ngữ học mùa hè) chếtác ra vào khoảng những năm 60 của thế kỉ XX. Bên cạnh đó, cũng đã có mộtsố công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Ta Ôi ở bình diện ngữ âm, từ vựng,ngữ pháp. Mối quan tâm của các nhà nghiên cứu ngoài nước chủ yếu dànhcho tiếng Pa Cô.Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam mới nghiên cứu tiếng Ta Ôi trong mấychục năm gần đây (đặc biệt sau năm 1975). Ngoài ra, còn có một số côngtrình, về tiếng Bru - Vân Kiều, Cơ tu..., các ngôn ngữ có liên quan và rất gầnvới tiếng Ta Ôi, của các tác giả Vương Hữu Lễ, Tạ Văn Thông, Hoàng VănMa, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Hữu Hoành...Nhìn lại các công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Ta Ôi hoặc có liênquan đến tiếng Tà Ôi, ta có thể đưa ra một số nhận xét như sau:- Các nhà khoa học nước ngoài tập trung chú ý chủ yếu vào tiếng Pa Cô(Pakóh). Tiếng Ta Ôi ít được nghiên cứu. Mặt phương ngữ hầu như chưa ainói đến. Các nhà khoa học Việt Nam thường sử dụng tên gọi chung của dântộc Ta Ôi (Ta-ôih) để gọi cả tiếng Pa Cô và Ta Ôi.- Các tác giả đi trước đã có một số nghiên cứu cơ bản về tiếng Pa Cô -Ta Ôi. Có một số nghiên cứu mang tính ứng dụng: sách hướng dẫn giảng dạy,sách học tiếng, từ điển đối dịch. Mặt từ vựng – ngữ nghĩa đã được chú ý và cónhiều kết quả. Tuy nhiên, những công trình thuộc loại nghiên cứu cơ bản vềtiếng Pa Cô - Ta Ôi không nhiều lắm và chưa mang đến được một cái nhìntoàn diện về mặt ngữ âm của tiếng nói các cộng đồng này.Tuy nhiên, cho đến nay trên thế giới chưa có công trình nghiên cứu nàomô tả về hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh ThừaThiên Huế.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu3.1. Mục đích nghiên cứuĐề tài có mục đích chỉ ra các đặc điểm của hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôitrên bình diện đồng đại (cụ thể là mô tả đặc điểm của từ âm vị học, hệ thống phụâm đầu, hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm cuối tiếng Ta Ôi ở xã ARoàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế). Từ đó góp phần cung cấp một sốhiểu biết về thứ tiếng này; đồng thời phục vụ cho việc dạy – học và sử dụngtiếng Ta Ôi trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu3.2.1. Xây dựng cơ sở lí thuyết của luận văn3.2.2. Miêu tả đặc điểm từ âm vị học và âm tiết tiếng Ta Ôi (trên tưliệu tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế).3.2.3. Miêu tả đặc điểm hệ thống phụ âm tiếng Tà Ôi (trên tư liệu tiếngTa Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế).3.2.4. Miêu tả đặc điểm hệ thống nguyên âm tiếng Ta Ôi (trên tư liệutiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế).4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu4.1. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi dựatrên tư liệu tiếng Ta Ôi ở thôn A Ka, xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh ThừaThiên Huế trên bình diện đồng đại.4.2. Phạm vi nghiên cứu và tư liệu nghiên cứuKhi nghiên cứu về một ngôn ngữ nào đó ta có thể tiếp cận nó từ nhiềuphương diện khác nhau: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng hay vị thế,chức năng, thái độ của người bản ngữ đối với ngôn ngữ đó trên phạm vi hẹp ởmột thôn hay phạm vi rộng trên địa bàn một hay nhiều tỉnh, quốc gia.Tuynhiên, do hạn chế về thời gian nên luận văn chỉ tiến hành tìm hiểu ngữ âmtiếng Ta Ôi tại xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế trên bình diệnđồng đại.Tư liệu nghiên cứu của luận văn này bao gồm 2000 từ cơ bản tiếng Ta Ôiđược phiên âm quốc tế và ghi âm kĩ thuật số dưới dạng file.wav. Cộng tác viêncung cấp tư liệu là anh Viên Xuân Danh, sinh năm 1979, trình độ đại học, là phóchủ tịch ủy ban nhân dân xã A Roàng, hiện trú tại thôn A Ka, xã A Roàng, huyệnA Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế và chị Blúp Thị Non, sinh năm 1979, trình độ vănhóa 12/12, hiện trú tại thôn A Ka. Bên cạnh đó, luận văn cũng kế thừa những tưliệu và kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước.5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứuPhương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học là tổng thể những thủ phápnghiên cứu ngôn ngữ được thống nhất bởi một diện nghiên cứu nhất định.Mỗi phương pháp nghiên cứu thường dựa trên một phương pháp luận nhấtđịnh. Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp, thủpháp nghiên cứu chính sau:5.1. Phương pháp điền dã ngôn ngữ họcChúng tôi đã đến địa bàn, tiếp cận trực tiếp với người bản ngữ để thuthập tư liệu. Vốn từ thu thập được lấy từ bảng từ chuyên dụng để nghiên cứungôn ngữ các dân tộc thiểu số (khoảng 2000 từ) do GS.TS Nguyễn Văn Lợivà GS. M. Ferlus biên soạn. Bảng từ này bao gồm các vốn từ cơ bản thuộccác chủ đề khác nhau trong cuộc sống. Dựa vào đó, chúng tôi thu thập nhữngtừ tương đương trong tiếng Ta Ôi, rồi trực tiếp phiên âm lại theo bảng phiênâm quốc tế IPA. Sau đó, nhờ người bản ngữ đọc lại để ghi âm theo hình thứcngười điều tra đọc 1 lần từ tiếng Việt và tư liệu viên (người Ta Ôi) đọc lại 2lần bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Về tư liệu viên chúng tôi lựa chọn 2 ngườibản ngữ, 1 nam và 1 nữ ở độ tuổi 40, thông thạo tiếng mẹ đẻ là tiếng Ta Ôi vàtiếng Kinh, không có khiếm khuyết về bộ máy phát âm.5.2. Phương pháp miêu tảPhương pháp nghiên cứu chủ yếu được dùng trong luận văn này làphương pháp miêu tả đồng đại. Các thủ pháp nghiên cứu được áp dụng baogồm: thủ pháp phân loại, hệ thống hóa tư liệu (thành các nhóm khác nhau trêncơ sở các phương thức cũng như loại "nguyên liệu" tham gia cấu tạo), thủpháp đối lập, thủ pháp so sánh nhằm chỉ ra các đặc điểm của hệ thống ngữâm; đồng thời xác lập hệ thống âm vị tiếng Ta Ôi. Các đặc tính ngữ âm củatiếng Ta Ôi chủ yếu được xác định bằng cảm nhận thính giác (khi nghe cộngtác viên phát âm) và cảm giác cơ thịt của các khí quan (khi tái tạo lại các âm)kết hợp với việc quan sát những cử động của bộ máy phát âm của cộng tácviên khi cấu âm. Sau đó, hệ thống âm vị được xác lập thông qua các thủ phápthống kê, đối lập, hệ thống hóa. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng thamkhảo một số phần mềm phân tích tiếng nói như Praat, Speech Analyzer đểphân tích, minh họa một số hiện tượng ngữ âm tiếng Ta Ôi.6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn6.1. Ý nghĩa lí luậnVề mặt lí luận, những kết quả nghiên cứu về ngữ âm tiếng Ta Ôi dựatrên tư liệu tiếng Ta Ôi tại xã A Roàng, huyện A Lưới, tình Thừa Thiên Huế sẽgóp phần làm sáng tỏ hơn nữa diện mạo đồng đại của các ngôn ngữ thuộc tiểuchi Katuic, chi Môn- Khmer, ngữ hệ Nam Á. Bên cạnh đó việc mô tả các thổngữ Ta Ôi cũng góp phần cung cấp thêm tư liệu để làm rõ thêm những luậnđiểm về sự phát triển của ngôn ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ, biến đổi ngôn ngữ.6.2. Ý nghĩa thực tiễnVề ý nghĩa thực tiễn, những miêu tả về ngữ âm tiếng Ta Ôi dựa trên tưliệu tiếng Ta Ôi tại xã A Roàng trên bình diện đồng đại sẽ góp phần cung cấpvà phổ biến những hiểu biết về ngôn ngữ này. Đồng thời, việc nghiên cứu ngữâm tiếng Ta Ôi còn góp phần vào việc bảo tồn và phát huy tiếng nói chữ viếtcủa người Ta Ôi. Ngoài ra, nó còn giúp cho người Ta Ôi và người các dân tộckhác thêm hiểu và sử dụng tốt hơn tiếng Ta Ôi trong đời sống xã hội ở vùngđồng bào Ta Ôi.7. Kết cấu của luận vănNgoài phần Mở đầu, Kết luận, và Thư mục tham khảo, luận văn gồm bachương:Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lí thuyết và thực tế.Chương 2: Từ âm vị học và âm tiết trong tiếng Ta Ôi.Chương 3: Hệ thống âm vị tiếng Ta Ôi.Chương 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TẾ1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nướcChữ viết Pa Cô - Ta Ôi đã do tổ chức SIL (The Summer Institute ofLinguistics - Viện Ngữ học mùa hè) chế tác ra, vào khoảng những năm 60 củathế kỉ XX.Số lượng các công trình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi được các nhànghiên cứu ngoài nước tiến hành còn rất hạn chế. Các nhà nghiên cứu nướcngoài đến với tiếng Ta Ôi chủ yếu là của Viện Ngôn ngữ học Mùa hè Mỹ (TheSummer Institute of Linguistics (SIL). Năm 1966, nhà nghiên cứu Saundra K.Watson có bài "Verbal affixation in Pacoh" (Phụ tố hóa động từ trong tiếng PaCô) [21]. Đến năm 1979, tác giả này cùng với các tác giả Richard Watson vàCubuat đã cho xuất bản cuốn "Pacoh Dictionary, Pacoh- Vietnamese- English"(Từ điển tiếng Pa cô, Pa cô - Việt - Anh) [21]. Gần đây, công trình "Agrammar of Pacoh: a Mon-Khmer language of the central highland ofVietnam" (Ngữ pháp tiếng Pa cô: một ngôn ngữ thuộc Mon - Khmer ở caonguyên miền Trung của Việt Nam) của Mark J.Alves được xuất bản ởAustralia, trong đó có phần trình bày sơ lược về đặc điểm hình thái học tiếngPa cô [21]...Đã có một số công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Tà Ôi ở bình diệnngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Mối quan tâm của các nhà nghiên cứu ngoàinước chủ yếu dành cho tiếng Pa Cô.1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nướcCác nhà ngôn ngữ học Việt Nam mới nghiên cứu tiếng Ta Ôi trong mấychục năm gần đây (đặc biệt sau năm 1975). Có thể kể đến cuốn “Sách họctiếng Pakôh-Taôih” (1986); các bài báo “Về những đặc điểm của một ngônngữ đơn tiết trong tiếng Pakôh-Ta-ôih” (1986), “Về vị trí tiếng Ta-ôih trongnhóm ngôn ngữ Katu” (1986), của các tác giả Nguyễn Văn Lợi, Đoàn VănPhúc, Phan Xuân Thành... Năm 2002 - 2003, các tác giả Nguyễn Văn Lợi, TạVăn Thông đã biên soạn các tài liệu “Hướng dẫn dạy kết hợp tiếng Việt vàtiếng dân tộc thiểu số” lớp 1 và lớp 2 ở vùng đồng bào Tà Ôi và Cơ tu ThừaThiên Huế.Năm 2003, trong luận văn thạc sĩ “Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Ta Ôi”,tác giả Nguyễn Thị Sửu đã bước đầu tìm hiểu về cấu tạo từ Tà Ôi, trên cơ sởcứ liệu ngôn ngữ của cộng đồng này ở thôn Parnghi, xã A Ngo. Sau đó, tác giảđã hoàn thành luận án tiến sĩ “Cấu tạo từ tiếng Tà Ôi (trong sự so sánh vớitiếng Việt)”, bảo vệ thành công năm 2008.“Biên soạn Từ điển Việt – Pa Cô – Ta Ôi; Pa Cô – Ta Ôi - Việt” là mộtđề tài cấp Tỉnh được thực hiện trong sự hợp tác nghiên cứu khoa học giữa SởKhoa học và Công nghệ (Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế) và Viện Từđiển học và Bách khoa thư Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội ViệtNam). Trên cơ sở tổng hợp những kết quả nghiên cứu đã có trong và ngoàinước về tiếng Pa Cô và Ta Ôi, kết hợp với những điều tra thu thập tư liệu tạichỗ, biên soạn một cuốn từ điển đối dịch đa ngữ có tên là: Từ điển Việt - PaCô - Ta Ôi, Pa Cô - Ta Ôi - Việt (khoảng 7. 000 mục từ; hoàn chỉnh để xuấtbản). Đề tài đã hoàn thành và nghiệm thu năm 2016.Ngoài ra, còn có một số công trình, về tiếng Bru - Vân Kiều, Cơ tu...,các ngôn ngữ có liên quan và rất gần với tiếng Pa Cô - Ta Ôi, của các tác giảVương Hữu Lễ, Tạ Văn Thông, Hoàng Văn Ma, Nguyễn Văn Lợi, NguyễnHữu Hoành...Nhìn lại các công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Ta Ôi hoặc có liênquan đến tiếng Ta Ôi, có thể nhận xét:- Các nhà khoa học nước ngoài tập trung chú ý chủ yếu vào tiếng Pa Cô(Pakóh). Tiếng Ta Ôi ít được nghiên cứu. Mặt phương ngữ hầu như chưa ainói đến. Các nhà khoa học Việt Nam thường sử dụng tên gọi chung của dântộc Ta Ôi (Ta-ôih) để gọi cả tiếng Pa Cô và Ta Ôi.- Các tác giả đi trước đã có một số nghiên cứu cơ bản về tiếng Pa Cô -Ta Ôi. Có một số nghiên cứu mang tính ứng dụng: sách hướng dẫn giảng dạy,sách học tiếng, từ điển đối dịch. Mặt từ vựng – ngữ nghĩa đã được chú ý và cónhiều kết quả. Tuy nhiên, những công trình thuộc loại nghiên cứu cơ bản vềtiếng Pa Cô - Ta Ôi không nhiều lắm và chưa mang đến được một cái nhìntoàn diện về mặt ngữ âm của tiếng nói các cộng đồng này.Tuy nhiên, cho đến nay trên thế giới chưa có công trình nghiên cứu nàomô tả về hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh ThừaThiên Huế.1.2. Cơ sở lí thuyết và thực tế của đề tài1.2.1. Khái quát chung về người Ta Ôi và tiếng Ta Ôi1.2.1.1. Khái quát chung về người Ta Ôi- Về địa bàn cư trú và các nhóm người Ta ÔiNgười Ta Ôi có dân số: 43.886 người (2009), cư trú ở các tỉnh: ThừaThiên Huế (huyện A Lưới), Quảng Trị (huyện Hướng Hoá, Đakrông).Dân tộc Ta Ôi còn gồm các nhóm địa phương: Ta Ôi, Pa Cô và Pa Hy.Sự phân biệt các nhóm trên gắn liền với một số điểm khác biệt về văn hoá, trongđó có ngôn ngữ. Tuy nhiên, khi xác định thành phần tộc người của dân tộc này,tên một nhóm trong số đó đã được lấy để làm tên chung là Ta Ôi. Tên gọi Ta Ôicó thể được hiểu để chỉ vùng cư trú trước đây là cao nguyên Ta Ôi của Lào; PaCô (còn được ghi là Pakoh, Pa-Cô...) có nghĩa là “phía núi, vùng núi”; Pa Hy(hay Ba Hi) có nghĩa là “phía dưới, vùng thấp”.Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ta Ôi ở Việt Namcó dân số khoảng 43.886 người, có mặt tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.Người Ta Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là huyện ALưới (29.558 người, chiếm 67,35%), Quảng Trị (13.961 người, chiếm31,81%)... Tại Lào, người Tà Ôi sinh sống ở tỉnh Savannakhet.Người Ta Ôi có ba nhóm địa phương Ta Ôi, Pa Cô và Pa Hy. Theo danhmục thành phần các dân tộc ở Việt Nam công bố năm 1979, Người Pa Cô, PaHy và Ta Ôi là các nhóm địa phương thuộc dân tộc Ta Ôi. Tuy nhiên, theotình hình thực tế chúng tôi điều tra được thì họ tự nhận mình là những nhómtộc người khác nhau.Hiện nay, ở vùng người Ta Ôi sinh sống còn có các dân tộc: Kinh, Bru Vân Kiều, Cơ Tu... Trước đây người Ta Ôi sống quây quần thành từng làng(vil) riêng biệt, hiện nay ở nhiều làng họ đã sống xen kẽ với người các dân tộckhác, trong đó chủ yếu với người Kinh. Họ cũng thường xuyên đi lại sang Lào,vì có bà con họ hàng và quan hệ trao đổi buôn bán với nhiều người bên kiabiên giới, trong đó chủ yếu với người các dân tộc thiểu số Lào.Người Ta Ôi chủ yếu sống tại các xã A Ngo, A Đớt, Nhâm, A Roànghuyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. A Lưới là một thị trấn thuộc huyện ALưới - huyện miền núi biên giới phía Tây của tỉnh Thừa Thiên Huế. Địa bànnày là căn cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.Thị trấn có diện tích 13,55 km2với số dân 5019 người, mật độ dân số đạt 370người/km2..Theo số liệu của phòng thống kê huyện A Lưới năm 2018, A Roàng làmột trong những xã có số lượng người Ta Ôi khá đông. Tổng dân số: 678hộ/2.840 khẩu, trong đó: Nam: 1.414 người; Toàn xã có 7 hộ người Kinh với29 khẩu; Cơ tu: 54 hộ/246 khẩu, Dân tộc Mường: 03 hộ/10 khẩu; Dân tộcBaNa: 01 hộ/03 khẩu; Dân tộc Tày: 05 khẩu; Tà ôi: 611 hộ/2.523 khẩu, Dântộc Pa Cô với 24 khẩu; Toàn xã có 1.798 lao động.Tình hình đời sống củanhân dân từng bước được cải thiện đáng kể, đói nghèo giảm dần, gia đìnhlàm ăn khá giỏi ngày càng được phát triển, các chính sách xã hội được chúý quan tâm. Dựa vào bảng thống kê sau chúng ta có thể thấy rõ điều đó.STTDânsốchungTên thônHộ nghèoLao112342A Chi - Hương SơnA KaKa LôA Roàng 1A Roàng 26Ka Rôông - A Ho7A Min - C9Tổng cộngHộKhẩuNam31021287210474101101682442353031142530845241128605động6283342081871872692601739132891602201502122151459DântộckinhHộ Khẩu78Hộ cậnDTTSDTTSHộKhẩuHộKhẩu163911359411816957156421373416865659182917271163775117831149474167165724Bảng 1.1:Bảng thống kê về số thôn và số hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn xãThành phần Dân tộc thiểu sốHộCơ TuDân tộckinhDTMườngDT TàyDTBANAPa CôTà ÔiHộKhẩuHộKhẩuHộKhẩuHộKhẩuHộKhẩuHộKhẩuHộKhẩu242526272829301313Khẩu11102127721047298100124235263114253024394051300000001454253321547127711027297101162025143031129142739717550000001214832832323167528310246172545552447trừ1421134613613032931005Bảng 1.2: Bảng thống kê về số thôn và thành phần các dân tộc thiểu sốtrên địa bàn xãVề vấn đề tên gọi của người Ta Ôi-Tà Ôi là tên chính thức của một dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người TaÔi có tên tự gọi là Ta Ôih [ta oih], với các biến thể Ta Uôs [taɂuəs] Ta ôs[taɂos]. Trong các tài liệu khác nhau và trong giao tiếp xã hội, tên dân tộc nàycòn được đọc và ghi: Ta Ôi, Ta-ôi, Ta-ôih, Tà Ôih, Taos, Ta- uôih, Ta-uôt,Taôih, Pa Cô-Tà Ôi…Trong ngôn ngữ Ta Ôi, từ Ta Ôih [ta ɂoih] hay Ta ôs [taɂos] (tiếng TaÔi) có nghĩa “đeo khuyên tai, làm căng tai”. Đây là tên của dân tộc này dùngđể phân biệt với người Kinh và người các dân tộc thiểu số khác.-Một số đặc điểm văn hóa của người Ta ÔiLàng người Tà Ôi theo truyền thống thường có một ngôi nhà công cộngkiểu nhà rông dựng giữa làng: có vùng lại chỉ có ngôi "nhà ma" dựng ngoàirìa khu gia cư để hội tụ dân làng khi có lễ hội và sinh hoạt chung.Về hôn nhân thanh niên nam nữ Ta Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi"sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờngười mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà chồng. Việc kết hôngiữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đãlấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ CNgười Ta Ôi có tục người chết được vài năm, dòng họ sẽ tổ chức cảitáng, lúc này mới làm nhà mồ đẹp, trang trí công phu và dựng tượng quanh bờrào mồ.Nhà ở của người Ta Ôi là nhà sàn dài. Nhìn bề ngoài, nhà Ta Ôi kể cảnhà sàn và nhà đất đều có mô hình mai rùa và đều có "sừng" trang trí hình haiđầu chim cu tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hòa của dântộc.1.2.1.2. Khái quát chung về tiếng Tà ÔiTiếng Ta Ôi là tiếng mẹ đẻ của một nhóm địa phương thuộc dân tộc TaÔi. Theo các tài liệu nghiên cứu và trên thực tế, cần phân biệt tiếng Ta Ôi,tiếng Pa Cô (Pa Hy được xem là gần với Pa Cô).Theo cách phân loại cội nguồn phổ biến hiện nay, tiếng Ta Ôi được xếpvào nhánh Cơ Tu - Bru (Katuic), chi Môn - Khơ Me (Mon - Khmer), ngữ hệNam Á (Austroasiatic). Nhánh được phân biệt thành hai tiểu nhánh (ở cả ViệtNam và Lào): Cơ Tu Đông và Cơ Tu Tây.Trong nhánh Katuic, Paul Sidwell đưa ra sự phân loại các ngôn ngữnhư sau:1. Pa Cô2. Cơ tu, Kan Tu, Phương, Đac Krang, Triw3. Tà Ôi, Ta Lan, Ông, Yir4. Kuây, Suôi, Bru, Sộ, Trì, Mang Coong, Ka Nay, Khùa.Ở Việt Nam, tiếng Bru, Pa Cô và Ta Ôi là tiếng mẹ đẻ của các cộngđồng có số dân không lớn lắm, chủ yếu thiên di từ Lào vào Việt Nam cáchđây không lâu. Chủ nhân của các ngôn ngữ này cư trú gần nhau và chủ yếudọc biên giới Việt - Lào (các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,Quảng Nam) và một số ít ở Đắk Lắk.Xét về quan hệ loại hình, tất cả các ngôn ngữ của các dân tộc ở ViệtNam (kể cả tiếng Việt và tiếng Ta Ôi) đều đã được các nhà nghiên cứu xếpvào cùng một loại hình ngôn ngữ là loại hình đơn lập.Các ngôn ngữ đơn lập (còn gọi là “các ngôn ngữ phi hình thái” isolating languages), có một số đặc tính nổi bật, dễ nhận biết và thườnggặp của các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập như sau:- Các từ không biến đổi hình thái (nên được gọi là “vô dạng, khônghình thái, không có hiện tượng hợp dạng…”) trong hoạt động lời nói. Haynói cách khác, hình thái của các từ không biểu thị những ý nghĩa ngữ phápvà quan hệ của chúng, trong câu chúng có vẻ như đứng tách biệt một mình(như ở dạng từ điển), và vì vậy gọi là “đơn lập”.- Các quan hệ ngữ pháp và các ý nghĩa ngữ pháp được sử dụng trongcâu, do không được biểu thị bằng hình thái của từ, nên được biểu thị chủyếu nhờ trật tự từ và các hư từ.- Ở nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình này, trong vốn từ cơ bản (cơ tầngcủa từ vựng) phần lớn là các từ có hình thức đơn tiết. Hình thức một âm tiếtnày cũng thường là của hình vị. Hay nói cách khác, ranh giới của âm tiếtthường trùng với ranh giới của hình vị và từ…Theo lí thuyết thì mỗi loại hình chỉ gồm những đặc trưng của riêngnó. Tuy nhiên trên thực tế, ranh giới giữa các loại hình không phải rạch ròicứng nhắc, bất di bất dịch. Trong các ngôn ngữ của một loại hình lại có thểcó những nhóm với những đặc trưng riêng biệt, tạo thành những tiểu loạihình với những nét riêng biệt.Đảm nhiệm chức năng âm đầu của âm tiết chính có thể là phụ âm đơnhoặc tổ hợp phụ âm. Các nguyên âm đơn có sự đối lập đều đặn về trường độ.Các nguyên âm hơi thấp ở vị trí trước và giữa trong tiếng Tà Ôi thực chất làcác nguyên âm căng (tense) khi cấu âm. Hệ thống âm cuối trong âm tiết chínhtiếng Tà Ôi khá phong phú, gồm phụ âm đơn và tổ hợp phụ âm.Trong vốn từ cơ bản tiếng Ta Ôi, các từ ngữ có nguồn gốc Nam Áchiếm tỉ lệ cao. Sự tương đồng và khác biệt về từ vựng giữa tiếng Tà Ôi và PaCô với các ngôn ngữ nhánh Cơ Tu - Bru khác đã được ghi nhận trên cơ sở sosánh đối chiếu vốn từ vựng cơ bản. Theo kết quả so sánh này, tiếng Ta Ôi vàPa Cô rất gần nhau.Về ngữ pháp, một trong những phương thức được xem là đặc trưngtrong cấu tạo từ ở tiếng Ta Ôi, là phương thức phụ tố. Tuy nhiên, trong tiếngTa Ôi và Pa Cô, cần chú ý không chỉ là phương thức phụ tố mà còn cácphương thức cấu tạo từ rất giàu sức sản sinh khác, là ghép và láy.Trong cấu tạo từ tiếng Ta Ôi bằng phương thức phụ tố, đáng chú ý là sựphong phú kiểu loại và vai trò của phương thức này. Trong tiếng Ta Ôi có cáctiền tố và các trung tố, trong đó các tiền tố hoạt động tích cực hơn. Với sự thamgia của các phụ tố, những nét nghĩa khái quát của các từ phái sinh khá đa dạng:khiển động, phản thân, địa điểm, không chủ ý, hoàn thành, tự nhiên, cách thứchoặc phương tiện, mục đích hành động hay điểm đến của chuyển động, mức độcao của trạng thái tính chất hoặc cường độ lớn của hành động, sự tiếp nhận, trậttự sắp xếp, sự giả vờ, sở thuộc, kết quả... Ở trạng thái hiện nay của tiếng Ta Ôi,phương thức phụ tố đang tồn tại và giàu sức sản sinh.Trong cấu tạo từ tiếng Tà Ôi bằng phương thức láy, có khá nhiều kiểu loạiláy, đặc biệt trong láy không hoàn toàn với những “khuôn” đa dạng. Sự tiếp hợp(thêm vào) và cắt hụt (bớt đi) tiền âm tiết cũng có thể được xem là nhữngphương tiện cấu tạo nên từ láy. Những nghĩa khái quát của các kiểu loại từ láykhá phong phú: chỉ mức độ thấp (hoặc cao) của trạng thái tính chất, hành độngkéo dài, sự vật ở phạm vi rộng và không cụ thể, động tác hoàn tất, động tác hoặctrạng thái tính chất bất định..., với các tình thái chủ quan: không hài lòng, hàilòng, ngạc nhiên, chia sẻ, khuyến khích, cam chịu, chê trách, phê phán... Ở trạngthái hiện nay của tiếng Ta Ôi, láy có vai trò khá quan trọng trong việc thể hiệncác nét nghĩa sắc thái hoá hoặc sự đánh giá của người nói đối với hiện thực.Sự tiếp hợp và cắt hụt trong cách láy có thể được xem là điểm riêngbiệt trong tiếng Ta Ôi. Nhìn chung, cách láy ở hai ngôn ngữ này mang lại hiệuquả tương đương nhau. Đồng thời, có thể thấy sự khác biệt rất tinh tế của haicộng đồng trong cách nhìn nhận hiện thực và bày tỏ thái độ qua từ láy ở mỗingôn ngữ.Trong cách cấu tạo từ tiếng Ta Ôi bằng phương thức biến âm, số lượngcác từ biến âm được tạo nên không nhỏ, với không ít các kiểu loại. Một số kiểuloại đáng chú ý là: biến âm đầu (biến âm này thành một âm khác, tổ hợp phụ âmbiến thành phụ âm đơn, hay phụ âm đơn thành tổ hợp phụ âm); biến âm chính(biến nguyên âm này thành nguyên âm khác, hoặc biến nét ngữ âm của mộtnguyên âm từ “không căng” thành ra “căng”, “không ngắn” thành ra “ngắn”).Các nét nghĩa khái quát: hành động hướng tới các vật nhỏ, trạng thái tính chất ởmức độ cao, thời điểm trước hoặc sau thời điểm nói (với khoảng cách x - 1),trạng thái tính chất không tự nhiên, cách gọi gián tiếp… Đồng thời ở một sốtrường hợp, người nói còn tỏ thái độ chê trách, giễu cợt, phản đối, không đồngtình..., qua một số kiểu loại biến âm.Trong cấu tạo từ tiếng Ta Ôi bằng phương thức ghép, với vai trò tạo nênhàng loạt các từ mới để gọi tên hiện thực theo cách bao gộp và loại biệt hoá,phương thức ghép Tà Ôi gồm các kiểu: đẳng lập (gộp nghĩa, lặp nghĩa), chínhphụ (dị biệt, sắc thái hoá).Ngoài sự phân biệt hai thứ tiếng là Ta Ôi và Pa Cô trong nội bộ dân tộcTa Ôi, những sự phân biệt khác trong mỗi ngôn ngữ không đáng kể. Tiếng nóicủa cộng đồng Pa Hy gần với tiếng Pa Cô hơn với Ta Ôi.Trước năm 1975, tổ chức SIL đã chế tác ra chữ Tà Ôi và Pa Cô (chữPakoh - Ta-oih). Đây là một hệ thống chữ ghi âm, tự dạng latin.Ngoài ra, còn có bộ chữ viết để ghi tiếng Pa Cô do ông Hồ Ngọc Mỹ(tức Ku Nô) chế tạo, ra đời trong những năm 50 của thế kỉ 20, trong thời kìkháng chiến chống Mĩ. Về cơ bản, bộ chữ viết này dựa vào bộ vần và cáchghi của chữ Quốc ngữ kết hợp với cách dùng một vài con chữ kết hợp vớidấu phụ để ghi các âm đặc biệt. Hệ thống chữ này cũng được dùng để ghitiếng Ta Ôi. Trong quá trình sử dụng, bộ chữ viết này bộc lộ một số nhượcđiểm trong cách dùng các kí hiệu ghi âm.Vào những năm 1984 - 1986, Viện Ngôn ngữ học đã hợp tác với Uỷban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên tiến hành cải tiến chữ viết Pa Cô - Ta Ôi. Hệthống chữ viết này được dùng cho tới ngày nay.Song ngữ Ta Ôi - Việt là trạng thái phổ biến hiện nay ở vùng ngườidân tộc Ta Ôi. Hiện nay, hầu hết người Ta Ôi từ trung tuổi trở xuống đềubiết và sử dụng được tiếng Việt ở những mức thành thạo khác nhau trongnhững hoàn cảnh giao tiếp với các dân tộc khác. Ở khu vực gần ngườiKinh, người Pa Hy còn thành thạo tiếng Việt hơn so với hai nhóm Ta Ôi vàPa Cô.Ở một số nơi, người Ta Ôi còn biết tiếng Lào. Tiếng Ta Ôi và Pa Côhiện chủ yếu sử dụng trong gia đình, làng bản..., trong nội bộ của dân tộc TaÔi, chỉ được dùng trong một số hoàn cảnh giao tiếp nhất định và chủ yếu ởdạng khẩu ngữ (ít gặp dạng ngôn ngữ thành văn).Tiếng Ta Ôi hiện nay được dùng trên các phương tiện thông tin đạichúng ở Thừa Thiên Huế. Trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác ởvùng Ta Ôi, tiếng Ta Ôi chưa được sử dụng. Ngôn ngữ này được truyền lạicho thế hệ sau chủ yếu vẫn chỉ bằng cách truyền miệng.Cũng như ở hầu hết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, hiện nay ở vùngđồng bào Ta Ôi trạng thái phổ biến là song ngữ - sử dụng được hai ngôn ngữ.Trong đó những người Ta Ôi thường sử dụng được (ở những mức độ khácnhau) hai ngôn ngữ: tiếng Ta Ôi và tiếng Việt. Ở một vài nơi, có người cònbiết cả tiếng Lào… Nhờ sự cư trú đan xen, qua quá trình giao lưu trong rấtnhiều hoàn cảnh đa dạng của cuộc sống hiện nay, đặc biệt là với quá trình họctập ở nhà trường, qua các phương tiện thông tin đại chúng (tivi, đài, sáchbáo…), khả năng sử dụng tiếng Việt của nhiều người Ta Ôi đã tương đốithành thạo, đặc biệt ở lớp trẻ, nam giới và những người có học thức. Tuynhiên, cũng gặp không ít những người Ta Ôi sử dụng được tiếng Việt nhưng

Tài liệu liên quan

  • Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình lúa – cá của các nông hộ trên địa bàn xã thủy phương, huyện hương thủy, tỉnh thừa thiên huế Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình lúa – cá của các nông hộ trên địa bàn xã thủy phương, huyện hương thủy, tỉnh thừa thiên huế
    • 94
    • 974
    • 4
  • Slide ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH tế sản XUẤT lúa vụ hè THU TRÊN địa bàn xã PHÚ LƯƠNG, HUYỆN PHÚ VANG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Slide ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH tế sản XUẤT lúa vụ hè THU TRÊN địa bàn xã PHÚ LƯƠNG, HUYỆN PHÚ VANG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
    • 30
    • 856
    • 0
  • Slide HIỆU QUẢ NUÔI tôm THẺ CHÂN TRẮNG TRÊN cát ở xã điền lộc, HUYỆN PHONG điền, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Slide HIỆU QUẢ NUÔI tôm THẺ CHÂN TRẮNG TRÊN cát ở xã điền lộc, HUYỆN PHONG điền, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
    • 27
    • 1
    • 6
  • Slide NGHIÊN cứu TÌNH HÌNH đầu tư xây DỰNG cơ bản ở HUYỆN a lưới – TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI đoạn 2010 2012 Slide NGHIÊN cứu TÌNH HÌNH đầu tư xây DỰNG cơ bản ở HUYỆN a lưới – TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI đoạn 2010 2012
    • 28
    • 514
    • 0
  • tìm hiểu tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm từ cây sắn trên đất cát ven biển xã phú đa - huyện phú vang - tỉnh thừa thiên huế tìm hiểu tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm từ cây sắn trên đất cát ven biển xã phú đa - huyện phú vang - tỉnh thừa thiên huế
    • 68
    • 1
    • 4
  • đánh giá tác động của chính sách giao đất giao rừng đến sinh kế của người cơ tu và tà ôi, huyện a lưới, tỉnh thừa thiên huế đánh giá tác động của chính sách giao đất giao rừng đến sinh kế của người cơ tu và tà ôi, huyện a lưới, tỉnh thừa thiên huế
    • 116
    • 1
    • 11
  • Thực trạng và giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế   xã hội nông thôn trong tiến trình thực hiện mô hình nông thôn mới trên địa bàn xã lộc trì, huyện phú lộc, tỉnh thừa thiên huế Thực trạng và giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn trong tiến trình thực hiện mô hình nông thôn mới trên địa bàn xã lộc trì, huyện phú lộc, tỉnh thừa thiên huế
    • 126
    • 257
    • 1
  • Hiệu quả nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát ở xã điền lộc, huyện phong điền, tỉnh thừa thiên huế Hiệu quả nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát ở xã điền lộc, huyện phong điền, tỉnh thừa thiên huế
    • 70
    • 582
    • 1
  • Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện a lưới, tỉnh thừa thiên huế Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện a lưới, tỉnh thừa thiên huế
    • 134
    • 106
    • 0
  • NGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG, HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ) NGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG, HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ)
    • 172
    • 51
    • 0

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(3.3 MB - 172 trang) - NGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG, HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ) Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Học Tiếng Dân Tộc Tà ôi