Ngũ Giới – Wikipedia Tiếng Việt

Bài này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây. (tháng 1/2022)

Ngũ giới là năm mệnh lệnh đạo đức và tôn giáo trong Phật giáo. Ngũ giới là năm điều răn không được làm của hàng tu sĩ tại gia mà Phật tử xin phát nguyện thọ lãnh 5 giới này (Giới: là hàng rào ngăn cấm những việc xấu của thân, khẩu, ý). Người Phật tử thọ lãnh năm giới này trong buổi lễ quy y hoặc phát nguyện.

Ngũ giới là năm giới, năm điều khuyến khích, phải giữ của người Phật tử tại gia. Sở dĩ đức Phật đặt ra năm giới, vì Ngài mong muốn cho người Phật tử tại gia thọ hưởng được quả báo tốt đẹp. Người Phật tử không thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới. Người đã quy y là đã bước một nấc thang đầu tiên từ người phàm cho đến bén duyên với Phật pháp, nếu không giữ giới có nghĩa là dừng lại tại đó, không tiến bước tới nữa. Năm giới này không những để tiến bước trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội.

Người Phật tử tại gia đã quy y giữ từ một tới năm giới sau đây:

  1. Pànàtipàtà veramanì: Tránh xa sát sinh.
  2. Adinnàdàna veramanì: Tránh xa sự trộm cắp.
  3. Kàmesu micchàcàrà veramanì: Tránh xa sự tà dâm.
  4. Musà vàdà veramanì: tránh xa sự nói dối.
  5. Suràmeraya majjappamàdatthàna veramanì: Tránh xa sự dễ dãi uống rượu.

Đức Phật không bắt buộc người Phật tử phải tuân theo triệt để, cũng không hăm dọa nếu không tuân theo thì phải bị chịu hình phạt, có giữ giới hay không là tùy thuộc mỗi người tự liệu lấy. Đạo Phật khác với các Tôn Giáo khác một phần là ở điểm này. Năm giới là năm thành trì ngăn chặn cho chúng ta đừng đi vào đường ác, là năm hàng rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi.

Để hiểu rõ tường tận, chúng ta lần lượt phân tích từng giới một.

1. Pànàtipàtà veramanì: Tránh xa sát sinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Không sát sinh bao gồm không giết hại từ con người đến súc vật lớn như voi, ngựa, trâu, bò v.v…, cho đến các loài nhỏ bé như côn trùng, sâu bọ, kiến v.v… Không những không giết hại mà còn không làm tổn thương đau đớn con người và các loài. Người Phật tử cũng không bảo người khác, bày mưu kế cho người khác làm các việc hành hạ, giết hại chúng sinh các loài. Khi thấy người khác đánh đập, sát hại con người và súc vật thì sinh lòng thương xót và khuyên can ngăn cản.

Sự giữ giới không sát sinh nhằm mục đích bảo vệ công bằng, mọi chúng sanh đều muốn sống sợ chết, mọi chúng sinh đều có Phật tính như nhau. Giữ giới sát sinh là nuôi dưỡng lòng từ bi, người có lòng nhân không nỡ sát hại người hay vật. Giữ giới sát sinh tránh được nhân quả báo ứng, vì nợ máu sẽ phải trả bằng máu không ở kiếp này thì ở kiếp sau, như vậy nghiệp oán xoay vần không có ngày chấm dứt.

Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều bằng đủ thứ phương tiện như làm lưới, câu v.v… bắt cá dưới nước; làm bẫy, cung tên, súng đạn giết loài cầm thú trên không, dưới đất; và nhất là dùng đủ thứ mưu mẹo để giết hại con người lẫn nhau.

Người giữ giới không sát sinh luôn luôn có tâm an ổn, nét mặt hiền hòa. Nếu mọi người trên thế giới đều giữ giới không sát sinh thì thế giới không còn chiến tranh giết hại nữa.

2.Adinnàdàna veramanì: Tránh xa sự trộm cắp

[sửa | sửa mã nguồn]

Không trộm cướp có nghĩa là không cho thì không lấy, từ nhà cửa, ruộng vườn, của cải, tiền bạc cho đến các vật tư hữu nhỏ bé. Cũng gọi là trộm cướp, khi lấy của tư hay của công, của công ty hay của nhà nước, khi cưỡng ép người ta bằng vũ lực hay quyền hành, khi dùng những thủ đoạn lừa gạt, mưu mẹo v.v… để đoạt chiếm sở hữu, tiền bạc như quỵt nợ, giật hụi, đầu cơ tích trữ, cân non đong thiếu, trốn sâu lậu thuế, v.v… cũng như trộm cướp không khác. Tóm lại tất cả các việc gian tham, lấy của bất chính đều là trộm cướp. Người Phật tử không được bày mưu kế cho người khác trộm cướp. Khi thấy người khác làm các việc trộm cướp thì phải khuyên bảo can gián.

Sự lợi ích của giới không trộm cướp là giữ được sự công bằng bình đẳng giữa con người với con người, mỗi người đều có quyền sở hữu riêng tư, xã hội không công bằng thì khó tồn tại lâu dài được. Không trộm cướp còn thể hiện lòng từ bi, vì một người phải cực khổ để làm ra tiền nuôi chính bản thân và gia đình và dành dụm phòng khi đau yếu hoặc tuổi già. Nếu bị mất sẽ đau khổ vô cùng, tuyệt vọng có khi đi đến tự tử.

Chúng ta nhiều khi cũng buồn khổ vì mất của, xét người khác cũng vậỵ Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì cũng không nên trộm cướp của người, đó là lẽ công bằng.

Người trộm cướp, cho dù có thoát khỏi lưới pháp luật, nhưng lương tâm lúc nào cũng lo sợ, và nhân quả nghiệp báo ở kiếp sau không thể tránh khỏi. Người không gian tham, đời này sống yên ổn, đi đâu cũng có người tin cậy, đời sau được phúc báo giàu sang. Về xã hội, nếu mọi người đều không gian tham trộm cướp, thì nhà không cần đóng cửa then cài nữa.

Nói tóm lại: Giới này liên quan đến yếu tố tài chính vật chất. Việc duy trì sự công bằng (không phải cào bằng) là tư tưởng cốt lõi. Sự gian lận bất công phải được loại trừ.

3. Kàmesu micchàcàrà veramanì: Tránh xa sự tà dâm

[sửa | sửa mã nguồn]

Không tà dâm là không dụ dỗ hay dùng thủ đoạn để cướp vợ, cuớp chồng người khác, không ép buộc người khác phải thỏa mãn tình dục với mình, không hãm hiếp đàn bà, con gái. Người Phật tử không được xui bảo, bày mưu cho người khác làm việc tà dâm. Cũng không vui, mà còn phải khuyên can, lên án khi thấy người làm điều tà dâm.

Không tà dâm để bảo vệ sự công bình, bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người, không tà dâm còn tránh được oán thù và quả báo xấu, vì không có sự oán thù nào mãnh liệt cho bằng sự oán thù do lừa dối tình hay phụ tình gây ra. Nếu mọi người đều giữ giới không tà dâm thì gia đình được đầm ấm, xã hội có luân thường đạo lý, không có những sự thù hằn chết chóc vì tà dâm nữa.

Mặc dù Phật chỉ cấm tà dâm, nhưng giữa vợ chồng cũng phải giữ lẽ, điều độ, biết tiết dục, để cho thân được khỏe, tâm được trong sạch nhẹ nhàng. Còn với người xuất gia thì đoạn hẳn sự dâm.

4.Musà vàdà veramanì: Tránh xa sự nói dối

[sửa | sửa mã nguồn]

Nói dối là nói láo, nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có làm cho người nghe hành động sai vô cùng tai hại. Không nói dối còn bao gồm cả ba điều khác của miệng là không nói lời hai lưỡi, đòn càn (xóc) hai đầu, làm cho hai người khác ghét nhau, thù nhau. Kế tiếp là không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, có ít xít ra nhiều, nói châm chọc, bóng bẩy làm cho người nghe buồn phiền và khởi tà niệm. Còn không được nói lời độc ác, thô tục, cộc cằn như nguyền rủạ chửi mắng thậm tệ làm cho người nghe sợ hãi đau khổ. Người Phật tử không được xui bảo người khác nói các điều như trên, và khi thấy người khác nói những lời không đẹp ấy thì phải không vui, và khuyên can chê bai người ấy.

Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật bảo Tôn Giả A Nan, Thị giả của Phật: "Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy trong vô số kiếp. Lửa chỉ đốt cháy nhà cửa, của cải của thế gian, còn lời nói ác đốt cháy bảy thứ của cải của Thánh nhân. Vì thế, này A Nan, chúng sanh họa từ trong miệng mà sinh ra, miệng lưỡi thực là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình".

Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn trọng sự thật, vì nuôi dưỡng lòng từ bi, người Phật tử phải tránh sự dối trá lừa gạt để không gây cho người khác sợ hãi, buồn phiền, đau khổ. Đây cũng là để bảo tồn sự trung tín trong xã hội, mọi người tin cậy, đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố, vì nếu một xã hội không ai tin ai thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều thất bại.

Không nói dối ở đây hàm ý không nên nói dối gây hại cho người khác, nói dối để tư lợi cá nhân. Không nói dối vừa tốt cho mình vừa tốt cho người. Hãy nhớ chỉ nói lời chánh ngữ ở nơi thuận tiện, thời gian thuận tiện, và mang lại kết quả tốt đẹp cho chúng sinh.

5. Suràmeraya majjappamàdatthàna veramanì: không uống Rượu Bia.

[sửa | sửa mã nguồn]

Giới này mới nghe thấy có vẻ không quan trọng, nhưng xét kỹ thấy thật quan trọng, chính vì uống rượu say mà có thể gây phạm bốn giới cấm nêu trên là sát sinh, trộm cướp, nói dối, tà dâm. Như thời đức Phật Ca Diếp có người uống rượu say mà phạm gian với vợ người khác, rồi bắt gà của người ta giết làm thịt ăn, đến khi người ta hỏi thì chối là không làm gì cả. Cũng không được ép người khác uống rượu đến say mê mẩn, mửa tháo, và khi thấy người khác nghiện rượu, nên tùy lúc mà khuyên can. Giới cấm uống rượu còn bao gồm cả việc dùng các thứ ma túy, vì nó cũng làm cho tinh thần người sử dụng mất sáng suốt minh mẫn, mê dại, tâm bình tiêu mất.

Người không uống rượu còn tránh được sự hao tốn tiền bạc, thân ít bệnh tật, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao, con cái khoẻ mạnh, và gia đình yên vui.

Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật còn lưu ý người Phật tử tại gia giữ năm giới không làm các nghề như:

  • Tránh làm nghề nuôi, buôn bán súc sinh, nếu có nuôi súc vật, sau khi thụ Ngũ giới được phép bán nhưng không được bán cho nhà đồ tể.
  • Tránh làm nghề chế tạo, buôn bán cung tên, đao kiếm, súng đạn, mìn bom, v.v…, nghĩa là tất cả các thứ dùng vào việc giết người, khủng bố, chiến tranh.
  • Tránh làm nghề sản xuất, buôn bán các loại rượu và các loại ma túy.
  • Tránh làm nghề sản xuất hoặc buôn bán hàng gian, hàng giả, hàng nhái, hàng hóa có nguồn gốc không lương thiện...v...v do trộm, cướp, bóc lột, khai thác lao động nô lệ...v...v mà có. Vì điều này chính là tiếp tay cho tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. Nếu không muốn nói là cầm đầu vì kẻ cầm đầu trong tổ chức tội phạm thường không trực tiếp phạm tội mà do cấp dưới thực hiện.

Kết luận

[sửa | sửa mã nguồn]

Nếu Tam Quy là nền tảng thì Ngũ Giới là năm bậc thang của người Phật tử tại gia bước dần lên Thánh quả. Trong bước đầu, nếu người Phật tử giữ đủ năm giới thì tốt, nếu vì sự ràng buộc chưa thể giữ cả năm giới, có thể giữ vài giới mà mình thấy thực hành được, rồi sau sẽ phát nguyện giữ thêm các giới khác. Nếu không giữ được giới nào thì sao gọi được là Phật tử? Có những người không phải là Phật tử còn có thể giữ được 3 giới không trộm cướp, không nói dối, không uống rượu, huống chi là một Phật tử muốn vượt lên trên đời tầm thường của thế nhân. Một Phật tử không giữ được giới nào thì chưa phải là người Phật tử.

Người giữ giới sẽ được an vui khỏe mạnh sống lâu, kiếp sau sẽ được sinh lên cõi trời muốn gì được nấy, hoặc sinh lại cõi người ở nơi tốt lành, có địa vị giàu sang, ít bệnh, sống lâu, không hoạn nạn, gia đình đầm ấm yên vui, v.v…

Người không theo đạo Phật hay chưa phải là Phật tử cũng nên giữ năm giới được nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Năm giới nói trên chỉ là bài học thông thường không chỉ để áp dụng riêng cho Phật tử, mà nó còn hữu ích cho tất cả mọi người nếu biết áp dụng để có cuộc sống an vui tiến bộ. Nếu xã hội nào áp dụng triệt để năm giới này, thì xã hội đó văn minh và gương mẫu nhất thế giới vậy.

Lợi ích

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tránh được quả báo luân hồi
  • Không đọa vào 3 đường ác (súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục)
  • Tăng trưởng lòng từ bi
  • Được mọi người kính mến
  • Trí tuệ được khai sáng
  • Thân tâm an lành
  • Thọ mệnh lâu dài
  • Giữ gìn tâm ý thanh tịnh và tránh xa các việc ác.

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Giới (Phật giáo)
  • Quy y

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
Hình tượng sơ khai Bài viết chủ đề Phật giáo này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s

Từ khóa » Thế Giới Thứ 5 Là Gì