Người Lái đò Sông Đà: “Chất Vàng Mười” Cả đời Người Nghệ Sĩ Tìm Kiếm

Người lái đò sông Đà dường như đã thỏa mãn hết những cái đắc chí của nhà văn, được đi, được chiêm ngưỡng nét đẹp độc đáo của thiên nhiên Tây Bắc, được thưởng thức nét đẹp lao động bình dị, gần gũi lại nghệ thuật của ông Đò giang lão luyện.

Cuối cùng là được đánh trận với những “con chữ óng ánh vàng ròng” để tái hiện lại tất cả trong tùy bút. Người lái đò sông Đà nổi lên như một tác phẩm tiêu biểu, đánh dấu chặng đường mới trong cách nhìn của nhà văn trước và sau Cách mạng.

Mục lục ẩn 1 Một nét phong cách tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân 2 Tác phẩm Người lái đò sông Đà và lời đề từ đầy thi vị 3 Sông Đà hung bạo và tàn ác được tạo ra bởi những sinh thể thiên nhiên hiếu chiến 3.1 Mặt ghềnh Hát Loóng trái tính trái nết bắt đầu thể hiện sự hung hãn 3.2 Chạm mặt với cái hút nước tàn bạo quãng Tà Mường Vát 3.3 Thác đá hung ác chực chờ cướp đi mạng sống người lái đò sông Đà 4 Một sông Đà trữ tình đằm thắm như thiếu nữ giữa rừng già Tây Bắc 4.1 Sông Đà hiện lên với đường nét của người con gái kiêu sa 4.2 Sắc nước biến ảo tô vẽ cho sông Đà trữ tình 4.3 Nắng sông Đà đẹp như nắng Đường thi 4.4 Cảnh vật lặng tờ bên bờ sông Đà cùng khát vọng đất nước ngày càng hưng thịnh 5 Người lái đò sông Đà với “tay lái ra hoa” 5.1 Sức vóc của ông Đò giang từng nếm trải bao nhiêu đòn đánh của con thủy quái 5.2 Sự tài trí và linh hoạt của người lái đò sông Đà trong lúc vượt ba trùng vi thạch trận 5.3 Người anh hùng bình dị giữa cuộc sống đời thường 6 “Vang bóng một thời” và đời đời nhớ mãi

Một nét phong cách tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân là một tác gia lớn trong nền văn học Việt Nam, ông thử sức với nhiều thể loại nhưng thành công và để lại nhiều tiếng vang nhất vẫn là tùy bút. Bản ngã của Nguyễn Tuân quá mức nổi bật, quá tương xứng với thể loại tự do tung hoành như tùy bút.

Tác giả Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một tác gia lớn trong nền văn học Việt Nam

Phong cách nghệ thuật của ông thâu tóm trong ba từ, ngông, tài hoa và uyên bác. Trước hay sau Cách mạng đều như thế, nếu có thay đổi thì là sự thay đổi trong cách nhìn, cách tiếp cận nhân vật mà thôi.

Nguyễn Tuân có ba là nhà nho tài giỏi, nhưng bất phùng thời. Sau đó, ông cũng bị ảnh hưởng và hay ảm đạm về thời cuộc bấy giờ. Ông đi tìm lại những điều xưa cũ, những vẻ đẹp “vang bóng một thời”, những phong tục, những nhân vật, cái thú vui lành mạnh, tao nhã để tưởng nhớ.

Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân mở ra con đường cho chính mình, ông ý thức được “chỉ có trường đời rộng rãi mới cho những bài học đắt giá về cuộc sống”. Người nghệ sĩ ấy lại đi nhưng với một tâm thế khác, một sự xâm nhập vào đời sống thường nhật, thưởng thức nét đẹp bình dị mà ông đã bỏ qua.

Tác phẩm Người lái đò sông Đà và lời đề từ đầy thi vị

Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960), đây là thành tựu nghệ thuật đẹp đẽ của người nghệ sĩ tài hoa, phát hành sau một chuyến đi đầy hứng thú lên vùng Tây Bắc những năm 1958 – 1960.

“Đích đến của chúng ta không phải là một vùng đất, mà là một cách nhìn mới.” – Henry Miller

“Chất vàng” vốn có của thiên nhiên Tây Bắc, nhất là dòng sông Đà khi lúc cá tính, lúc trữ tình đã níu chân người nghệ sĩ. Một kho báu khác lại đến từ niềm say mê lao động, bản lĩnh được tôi luyện của ông Đò giang và cho Nguyễn Tuân “cái say của rượu tối tân hôn”.

Người lái đò sông Đà là "chất vàng mười" cả đời người nghệ sĩ tìm kiếm
Người lái đò sông Đà là “chất vàng mười” cả đời người nghệ sĩ tìm kiếm

Cái say mê hứng khởi đã bắt đầu từ hai lời đề từ đầu tùy bút. Cái tôi độc đáo của chính nhà văn hay sự say mê sự khác biệt của sông Đà lùi về sau làm nền cho công sức lao động chân chính đáng ngưỡng mộ của người lái đò.

Lời đề từ thể hiện cảm xúc chủ đạo của cả tùy bút, nó giúp độc giả chạm đến những xúc cảm và tinh thần trong tác phẩm. Đối với nhà văn, đây là tín hiệu nghệ thuật giúp khơi nguồn cảm xúc, là cách người sáng tác cho ta bước vào những trang văn của họ.

Từ đó, niềm cảm hứng sáng tác, tinh thần văn chương độc đáo được nhà văn khéo léo vẽ nên qua hai lời đề từ đầy thi vị. Việc của độc giả là nắm lấy chiếc chìa khóa, đi sâu và khám phá một tài năng văn chương qua tùy bút Người lái đò sông Đà.

“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông.”

Lời đề từ đầu tiên là của nhà thơ người Ba Lan Wladyslaw Broniewski. Câu cảm thán này ca ngợi nét đẹp ngân vang, tiếng hát lạc quan, say mê lao động từ những người “chèo đò, kéo thuyền, vượt thác”, những người làm chủ đất nước thời kỳ mới.

Một nhà văn giải phóng bản thân sau những điều xưa cũ, nay mở toang cánh cửa cuộc đời thì bắt gặp nét đẹp chân thực từ cuộc sống, “chất vàng mười” mà cả đời nghệ sĩ tìm kiếm. Không khó hiểu khi Nguyễn Tuân lại có những xúc cảm say mê, mãnh liệt đến thế.

“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”

Lời đề từ thứ hai của Nguyễn Quang Bích lại nói lên sự khác biệt của Sông Đà, mọi dòng sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà theo hướng Bắc. Nhờ đó, nơi đây ghi dấu ấn trong mắt nhà văn xem cá tính là bản ngã, là điều độc tôn của văn chương.

Sự say mê vì bắt gặp tri kỷ, sự ngông cuồng nhưng đồng điệu tâm hồn, người nghệ sĩ tài hoa này một lần nữa khẳng định ý thức cá nhân độc đáo, phong cách sáng tạo “đóng triện riêng” bởi hai chữ Nguyễn Tuân.

Sông Đà hung bạo và tàn ác được tạo ra bởi những sinh thể thiên nhiên hiếu chiến

Vẻ hung bạo của sông Đà được miêu tả lần lượt qua cảnh đá bờ sông, mặt ghềnh Hát Loóng, cái hút nước và thác đá sông Đà. Đi qua bốn quãng ấy cứ ngỡ như đang dâng mình vào miệng con thủy quái hung tàn.

Sông Đà hung bạo chực chờ lấy mạng người lái đò

Đối với nhà văn ưa thích những cảm giác mạnh, ngòi bút của Nguyễn Tuân được tung hoành khi bắt gặp sự bạo liệt, hùng vĩ của sông Đà. Khả năng vận dụng ngôn từ điêu luyện cùng với những biện pháp nhân hóa, so sánh độc đáo được sử dụng triệt để.

Đá bờ sông mở ra những ấn tượng đầu tiên về sự hùng vĩ và hiểm trở của sông Đà

Ở đoạn văn này, Nguyễn Tuân cho độc giả cảm nhận bằng thị giác về độ cao, độ sâu triệt để hai bên bờ sông Đà, đồng thời trải nghiệm cảm giác chết nghẹn giữa cái hẹp nghẹt thở trong lòng sông.

Sự đa tài và điêu luyện của người nghệ sĩ uyên bác khi kết hợp vận dụng linh hoạt những kiến thức về điện ảnh và quân sự, đem lại cho chúng ta một cái nhìn sinh động khi quan sát cảnh bờ đá sông Đà ở đủ mọi góc nhìn.

Mở đầu là hình ảnh “đá dựng vách thành” khiến độc giả liên tưởng đến sự uy nghi, đồ sộ nơi những thành vách xa xưa, kiên cố và bao quanh những cung điện uy nghi của vua chúa. 

Nguyễn Tuân so sánh “cái yết hầu” chẹt lòng sông tạo cảm giác bóp nghẹt, dòng chảy như trôi vào miệng con thủy quái hung dữ giữa cung đường thẳng đứng, toàn đá sắc nhọn hai bên.

Không khí ở đây còn lạnh lẽo vô độ bởi “mặt nước đúng ngọ mới thấy mặt trời”, ý văn làm người đọc liên tưởng đến câu thơ “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” trong bài Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận.

Câu thơ của thi sĩ kéo rộng không gian nhiều chiều, nắng càng lên, trời càng cao, lòng sông càng sâu. Với Nguyễn Tuân, ông tập trung vào ánh nắng đứng bóng và làm cho khoảng cách trên cao giãn ra, trong lòng sâu thì vẫn âm u tối hẹp.

Khi nắng đúng ngọ gay gắt, lúc ấy dưới lòng sâu mới cảm nhận được chút hơi ấm từ mặt trời. Ngoài khắc ấy ra, cảm giác xung quanh lòng sông đều u ám, ánh sáng bị triệt tiêu và chảy vào bóng tối.

Nhìn từ trên cao, quãng sông Đà cho ta cảm nhận được sự yên bình trên bề mặt vì độ hẹp “nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”. Trái lại, nếu là người đứng từ dưới nhìn lên thì có bao nhiêu sợ hãi, hoảng loạn đều bộc lộ qua từng hình ảnh mà nhà văn sắp miêu tả.

“Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh không chỉ là nhiệt độ tự nhiên ở đáy lòng sông. Cái lạnh còn đến từ cảm giác rợn gáy như đang bị nhốt lại không thể thoát ra, lối thoát thì càng ngày càng bé cho đến khi bị đóng sầm lại.

Lấy hè ngõ làm lòng sông, gán cho vách đá như một tòa nhà cao tầng mà “ánh đèn tắt phụt”.  Nguyễn Tuân thành công mang lại cho độc giả cái giật mình hoảng loạn vì hy vọng dường như đã bị bóng tối nơi sông Đà nuốt chửng.

Mặt ghềnh Hát Loóng trái tính trái nết bắt đầu thể hiện sự hung hãn

Mặt ghềnh Hát Loóng với những hình ảnh “nước, đá, sóng, gió” nối tiếp nhau, ngang ngược mà đòi nợ người lái đò. Với sự tài hoa trong cách vận dụng ngôn từ, đoạn văn này như cuốn xô tất cả giữa sự hung bạo, ác liệt của sông Đà.

“Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, câu văn không dài nhưng ngắt nhịp tạo cảm giác dồn dập, ào ạt đẩy tới. Động từ “xô” xuất hiện ba lần với những dấu phẩy liên tiếp trùng điệp, mặt ghềnh tạo nên những âm thanh va đập kinh hãi vang động kéo dài cả hàng cây số.

Sông Đà ghét người ta nhìn ngắm và xâm nhập, nó phòng thủ rồi đe dọa. Từng sự xô đẩy nối tiếp nhau, cái sau lại mạnh hơn cái trước, cái sau lại nhanh hơn cái trước, độc giả chưa kịp đứng vững đã bị đẩy đi giữa cuồn cuộn sức chuyển động khủng khiếp.

Sông Đà giờ đây như bạo tàn hẳn lên, từ láy “gùn ghè” và hành động trái tính trái nết “đòi nợ xuýt” ngang ngược như những tên côn đồ dù chẳng một ai thiếu nợ gì cả. Nó ngang ngược vô lý và làm khiếp sợ, kinh hãi bao con người đi ngang đây. 

Kết lại là lời cảnh báo cho những ai có ý định khi dễ con sông, họ rồi chắc chắn sẽ hối hận. Sự hung bạo đó là thật, con sông như kẻ cướp đi bao mạng sống mà không có giọt nước mắt hối hận nào.

Văn của Nguyễn Tuân không có sự nhập nhằng giữa hiện thực và ngôn từ, những con chữ không còn nằm im mà dường như được tài năng của ông đánh thức. Chúng trở thành thạch trận để cuốn độc giả vào cái không khí hoang dã nguy hiểm trên từng trang văn.

Chạm mặt với cái hút nước tàn bạo quãng Tà Mường Vát

Sự bạo liệt của sông Đà tiếp tục được đẩy lên cao trào khi độc giả phải chứng kiến cái hút nước trên sông như một con thủy quái hung tợn, nó đe dọa tinh thần những người qua đây bằng những âm thanh và hình ảnh đầy kinh hãi.

Cái hút nước được tác giả miêu tả ở cả hai góc nhìn, từ dưới phần đáy xoáy nhìn lên và từ bên trên bao quát xuống lòng sâu. Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân vận dụng linh hoạt những kiến thức về điện ảnh để tái hiện sinh động sinh thể hung ác này.

Mở đầu là hình ảnh so sánh cái hút nước và giếng nước bê tông khổng lồ, sâu hoắm. Sau đó là âm thanh nhân hóa “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, lắm lúc lại “ặc ặc như vừa rót dầu sôi vào”, tắc nghẽn nhưng đầy ghê rợn.

Nhà văn tiếp tục thành công trong việc khiến người đọc liên tưởng đến sự nguy hiểm chực chờ nhờ hàng loạt động từ mạnh như “lôi tuột xuống”, “vụt biến đi”, “dìm”, “tan xác”, cảm giác một đi không trở về của những thuyền bè đến gần cái hút nước này.

Uy lực của những “cái cống” xé tan bao thuyền bè đi qua được nhà văn đặc tả trong hình ảnh  “thuyền trồng cây chuối rồi vụt biến đi, mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Bè gỗ rừng lớn, chắc nhưng trước con thủy quái này cũng trở nên bất lực, nhỏ bé và yếu đuối.

Chưa dừng lại, Nguyễn Tuân đem liên tưởng táo bạo của mình mà dẫn dụ người đọc vào một trò chơi cảm giác mạnh với anh quay phim, cùng ngồi vào thuyền thúng và thả thuyền xuống hút nước sông Đà mà cảm nhận.

“Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng xoay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem.”

Anh quay phim xoay tít theo cái xoáy nước, nước văng tung tóe và “khối pha lê xanh như vỡ tan ụp vào cả người quay phim và cả người đang xem” để rồi mở ra một cảm giác chân thật hơn bao giờ hết, họ phải căng mình giữ thăng bằng trong sự sợ hãi tột độ.

Hình ảnh so sánh sáng tạo “ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn” phần nào thể hiện sự không cân sức giữa con người và thực thể thiên nhiên này.

Nhà văn vận dụng kiến thức xây dựng trong việc miêu tả thành giếng “xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày”, ông khẳng định vẻ đẹp của cái hút nước cần một sự trải nghiệm mà không phải ai cũng dám buông mình để thử.

Đến đây, Nguyễn Tuân buộc phải thừa nhận sông Đà sống với “tâm thế kẻ thù số một” của những người lái đò, họ ngày đêm chiến đấu với con quái vật bạo tàn này, phải cẩn trọng từng bước để giành giật sự sống với thiên nhiên nơi đây.

Thác đá hung ác chực chờ cướp đi mạng sống người lái đò sông Đà

Những thác đá nơi đây tạo thành một thạch thủy trận vô cùng hiểm trở, đặc tả cụ thể như một cửa tử thực sự với người đò giang. Thác, đá, nước, sóng gió cộng hưởng tạo nên trận chiến ác liệt nhắm vào ông đò đơn độc.

Trước hết là thác sông Đà, con thác chưa gặp đã làm người ta chùn chân. Rõ ràng còn một khoảng cách xa mới đến thác dưới nhưng giọng điệu của nó đã thực sự thách thức “oán trách”, “van xin”,”gằn giọng”,”chế nhạo” biến tấu đủ cả.

Điệp từ “réo” cùng những sự tăng cấp làm cho âm thanh vang vọng, chúng ngày càng to và kéo dài đến vô tận. Như một kẻ đánh trận dày dặn kinh nghiệm, sông Đà muốn người lái đò phải nao núng trước đòn tâm lý mà nó đã bố trí.

Nghệ thuật nhân hóa kết hợp nhiều tính từ miêu tả cảm xúc con người khiến thác sông Đà hiện lên như một sinh thể chân thật. Một con quái vật vùng vẫy lâu ngày, bị nhốt dưới vực sâu giữa muôn ngàn đá và nước, càng ngày càng căm giận gào lên những âm thanh kinh hãi.

“Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.”

Càng tiến gần, con thác càng dữ dội hơn, động từ “rống” như báo hiệu nguy hiểm cho con mồi của nó. Hình ảnh so sánh, nhân hóa “tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn…da cháy bùng bùng” tạo nên sự hỗn loạn với âm thanh cực kỳ khủng khiếp.

Đó là sự cộng hưởng của tiếng rống, tiếng bước chân rầm rập như rung chuyển đất trời, tiếng da cháy bùng bùng của không phải một mà cả ngàn con trâu mộng. Chúng đang lồng lộn để thoát thân khỏi biển lửa, tiếng vẩu, tiếng tre nứa cháy phừng lên cả một khu rừng.

Tiếng thác sông Đà giống như trận cháy rừng nguyên thủy, thiêu rụi hết tất cả và mặc những sinh vật ấy gào thét. Đó là sức mạnh của tự nhiên mà không một ai có thể cản lại được, sự uy lực khiến người ta sợ hãi. 

Cái hay và cái tài của Nguyễn Tuân đều nằm ở đây, ông sử dụng điêu luyện đội quân từ ngữ khi không tả trực tiếp tiếng thác mà dùng những hình ảnh gián tiếp. Ông còn dùng lửa tả nước, dùng rừng tả sông, sự đối lập nhưng nổi bật đến bất ngờ.

“Đừng nói trao cho tôi đề tài – Hãy trao cho tôi đôi mắt.” Leonid Leonov

Người nghệ sĩ gom nhặt những chất liệu từ đời sống, tuy nhiên tác phẩm có thực sự đang sống thì còn phụ thuộc vào nét tài hoa riêng, còn phụ thuộc vào việc cho nó một diện mạo không trùng lặp, đầy sáng tạo và khác biệt.

Hết thác, là đến đá, những mỏm đá chực chờ lấy mạng của người lái đò nơi đây. Đá bây giờ không phải là một sinh vật vô tri, nó là tay sai của thủy quái, nó dàn thành “thạch thủy trận” chờ ông đò đến và ra tay kết liễu.

Đá chiếm lĩnh cả chiều dài của một dòng sông, trùng điệp và kéo dài miên man. “Chân trời đá” kết hợp với “sóng bọt trắng xóa” như một đội quân không ngừng nghỉ, ngày đêm gào thét đe dọa những người đi ngang mặt rộng mênh mông của dòng sông.

“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.”

Sử dụng nhiều từ ngữ liên quan đến quân sự, Nguyễn Tuân liền khơi dậy được cái thâm sâu của thác đá nơi đây, chúng biết lập chiến lược, mai phục rồi nhanh như chớp tác chiến làm cho con mồi không kịp trở tay.

Tính từ “trắng xóa” được lặp lại, thác đá sẽ nhanh chóng xóa đi tàn tích mà nó để lại rồi bố trí những hòn đá khác nhau theo ý nó muốn. Mỗi lúc làm lộ vị trí, thác đá lập tức thay người lính khác vào để gài bẫy cho cuộc săn mồi của mình, nó giở đủ mọi trò, đầy thủ đoạn.

“Mặt hòn nào cũng ngỗ ngược” rồi lại “nhăn nhúm méo mó”, thân dạng tuy khác nhau nhưng điểm chung duy nhất là muốn vây hãm những người lái đò ngang đây, bộ mặt hiếu chiến và đầy khiêu khích.

Nó có sẵn hàng tiền vệ và bày binh bố trận từ trước, có hòn đá “hất hàm” đòi ông đò xưng tên, mặt nước và sóng bắt tay reo hò, cổ vũ, lắm lúc lại cùng nhau nhào vào cùng nhau mà uy hiếp ông đò già.

Một chiến trường ác liệt diễn ra ngay tại đây, một thạch thủy trận mà người lái đò phải đối diện và đánh giáp lá cà vì không còn đường lui. Thác đá dồn ép, ra thế chủ động thị uy như một kẻ ngang ngược nắm chắc phần thắng trong tay.

Sông Đà nham hiểm nhất chính là ba trùng vi thạch trận, ba cửa với những kẻ nghiệp dư đều là cửa tử. Càng về những thạch trận sau, cửa sinh càng ít mà chỉ những người bản lĩnh mới thực sự vượt qua được.

Có những lúc sông nước nơi đây làm kiệt sức ông đò, chúng “bẻ gãy cán chèo” rồi tung nhiều thế đánh vào chỗ điểm, các động từ mạnh mỗi lúc một tăng và thậm chí đến mức “đòi lật ngửa bụng thuyền ra”.

Một loạt các thế đánh khác nhau được phô bày như “luồng sóng đánh hồi”,  “đánh đòn tỉa” hay nguy hiểm nhất là “ đánh đòn âm vào chỗ hiểm”, toàn là những thế nguy hiểm nhằm nhanh chóng hạ gục con mồi.

Ba trùng vi thạch trận đầy hung bạo và nguy hiểm, vòng vây thứ nhất chỉ có một cửa sinh ở tả ngạn bên trái, vây thứ hai tăng nhiều cửa tử, chỉ có cửa sinh ở tả ngạn bên phải, vây thứ ba thì chỉ có cửa sinh ở giữa.

Với hình ảnh nhân hóa đầy sinh động, thác đá sông Đà quả là “kẻ thù với tâm địa số một”, những trận chiến ác liệt đã diễn ra tại đây. Sông Đà tung hết mọi đòn nguy hiểm nhất, uy dũng thể hiện sự hoang dã bạo tàn của kẻ cầm đầu.

Giữa núi rừng Tây Bắc, âm thanh “vang trời thanh la não bạt” rùng mình rung chuyển cả đất trời. Sông Đà có thể tự cao khi chiến thắng nhưng chưa bao giờ chùn bước khi thất bại, bỏ qua con mồi này lại tiếp đến con mồi khác, ngàn đời nay vẫn thế.

Tác giả say mê miêu tả làm cho độc giả e sợ hình ảnh con sông hung bạo nhưng chắc chắn, chính Nguyễn Tuân cũng say mê cái cá tính kỳ lạ này lắm vì “nghệ thuật là con thuyền chở nội dung”, nếu không say mê không hứng thú, ngôn từ không thể thăng hoa như thế.

Một sông Đà trữ tình đằm thắm như thiếu nữ giữa rừng già Tây Bắc

Người ta khiếp sợ trước một sông Đà nguy hiểm cùng trời cuối đất, người ta nói về nó như sự hiện diện của thiên nhiên tàn bạo. Thế nhưng, quãng dòng chảy yên ả dưới dòng sông lại hớp hồn bao kẻ đi qua.

“Dòng sông vặn mình vào bến cát” để lại những âm thanh kinh hồn bạt vía của trận chiến ở phía sau. Vừa qua đấy thôi, “sóng nước xèo xèo” tan vào trong kí ức, để rồi sau bến cát kia là một sông Đà khác hoàn toàn, một sông Đà đằm thắm trữ tình quá đỗi.

Sông Đà mang nét kiêu sa nổi bật giữa hạ nguồn

Nguyễn Tuân lần lượt cho ta thích thú ở nhiều góc nhìn, góc nhìn từ trên tàu bay nhìn xuống, góc nhìn của người đi rừng lâu ngày trở về và người trôi thuyền trên sông, cuối cùng là góc nhìn của một cố nhân đằm thắm.

Sông Đà hiện lên với đường nét của người con gái kiêu sa

Góc nhìn thứ nhất, tác giả bay từ trên cao để nhìn xuống, bao quát cả con quái vật hung dữ và một nàng thơ trữ tình nhất trong một sinh thể, đó là sông Đà. Ở điểm nhìn ấy, sông Đà hiện ra với từng đường nét, hình khối đặc trưng dáng dấp của một thiếu nữ.

Từ láy “ngoằn ngoèo” gợi hình ảnh quanh co, gấp khúc. Nghĩa là Sông Đà không chảy theo đường thẳng, nó chùng chình, tạo thành hình khối và đường nét rất đẹp giữa bạt ngàn thiên nhiên Tây Bắc.

Dòng sông giờ đây mang nét dịu hiền của người con gái đang phô bày vẻ đẹp của mình giữa rừng già. Nguyễn Tuân đã điệp cụm từ “không ai nghĩ rằng” như chứng minh hai cá tính trái ngược của sông Đà là quá kỳ lạ để có thể cùng nhau tồn tại.

Đó không phải là con sông với thành đá, sóng thác cuồn cuộn nữa, không phải “làm mình làm mẩy” cũng không còn “giận dỗi vô cớ”, không phải là dòng sông “đời đời đánh ghen”, sông Đà chiếm trọn tâm tình lãng khách với vẻ kiêu sa của thiếu nữ.

“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”

Nghệ thuật nhân hóa ở câu văn được mở ra tuyệt đối, sông Đà trở thành mỹ nhân và kiệt tác của nghệ thuật tạo hóa. “Áng” tóc của thiếu nữ “tuôn dài, tuôn dài” gợi sự bất tận miên man, chảy vào trong tiềm thức nét mỹ miều óng ả.

Xưa nay, độc giả hay cảm thức trước một áng văn hay, xuýt xoa một áng thơ quá đỗi cảm xúc. Nay Nguyễn Tuân lại gợi nét đẹp nàng thơ của sông Đà trong bốn từ “áng tóc trữ tình”, nhà văn hẳn đã say mê chúng lắm, đến nỗi dùng vẻ đẹp nghệ thuật để sánh với dòng sông.

Ông ngồi trên tàu bay, nhìn xuyên qua những đám mây để tìm kiếm nàng thơ, nay lại được mây tô điểm thêm phần mờ ảo lộng lẫy “đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc”.

Hoa rừng cũng không thua kém, “bung nở” góp phần họa vào sông Đà những gì kiêu sa nhất, gợi một nét đẹp thiên nhiên hoang dã nhưng không kém phần ấn tượng và nổi bật. Tất cả những sinh thể nơi đây đều ưu ái cho sông Đà, cho cô công chúa đài các nơi núi rừng này.

Chỉ một câu văn dài, một dấu ngắt nhịp, tác giả đã có thể gợi tả vẻ đẹp ẩn. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân xóa bỏ khoảng cách giữa trang sách và hiện thực, đem chúng ta vào sự say mê vẻ đẹp thiên nhiên bao la của Tổ Quốc.

Sông Đà nằm giữa sự “cuồn cuộn mù khói núi Mèo”, nơi sức sống lao động của một người cũng góp phần họa nên nét đẹp cho cô công chúa sông Đà. Sông Đà tham gia vào đời sống của nhân dân, nó gần gũi và thân thiết hơn bao giờ hết.

Cái đẹp của nhà văn tìm đến giờ đây không còn lạc lõng, cô đơn giữa thời cuộc mà hòa với dòng chảy chung ở cuộc sống thường nhật. Cái đẹp không tìm đâu xa, nó hiện ra giữa những điều ấm áp bình dị của người lao động đời thường.

Sắc nước biến ảo tô vẽ cho sông Đà trữ tình

Mùa xuân sông Đà “xanh màu ngọc bích”, câu văn nhiều thanh bằng và gợi nên màu nước trong trẻo, xanh như có ánh sáng. Không chỉ là dòng chảy, màu nước cũng mang nét độc đáo riêng, chẳng hề trộn lẫn với “màu xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô.

Thạc sĩ Trịnh Thu Tuyết từng nhận xét đây “không chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài hoa uyên bác mà còn là sự thiên vị của một niềm yêu!”. Nguyễn Tuân yêu sông Đà một phần bởi sự khác biệt nó đem lại cho xúc cảm chính mình.

Mùa thu đến với sông Đà trầm lặng và nặng nề hơn với màu nước “lừ lừ chín đỏ”. Hình ảnh so sánh gợi sắc da “người mặt bầm đi đi vì rượu bữa”, sau đó lại tiếp tục từ láy “lừ lừ” để trở thành sắc thái “bất mãn” của con người.

Sông Đà đâu đó vẫn vương vấn một sự kiêu ngạo thất thường như một phần tính cách khó bỏ của bản thân. Từ láy “lừ lừ” còn được nhắc đến trong phần miêu tả cái hút nước uy lực kia, khi nhắc lại vẫn là một trải nghiệm rùng mình.

Vì vậy, khi đã đi qua quãng sông hung bạo, Nguyễn Tuân vẫn ám ảnh đâu đấy một cảm giác choáng ngợp hùng hồn “năm năm báo oán, đời đời đánh ghen”, nơi những câu chuyện chưa bao giờ đi đến hồi kết.

Để rồi, nhà văn khẳng định chắc nịch như một nhà sử học dày công nghiên cứu và kinh nghiệm “nước sông chưa bao giờ Đen” lếu láo như thế, lòng tự hào về dân tộc trong ông không dung nạp những thứ ngang ngược như vậy.

Nắng sông Đà đẹp như nắng Đường thi

Góc nhìn thứ hai bắt đầu từ góc độ gần hơn, góc độ của “những người đi rừng lâu ngày trở về và thuyền trôi trên sông Đà”. Tại quãng này, sông Đà qua ngòi bút của nhà văn trở nên thơ mộng và đầy sinh động.

Đi rừng lâu ngày, người ta thèm chỗ thoáng và nhất là thèm trở về gặp lại “cố nhân”. Trước hết là nắng sông Đà, từ “loang loáng” nắng chiếu lấp lánh, vô cùng long lanh. Nhà văn còn liên tưởng như “một đứa trẻ nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”.

Sự tinh nghịch cùng màu nắng sáng trong như ánh nắng của sông Đà cũng vui vẻ, nghịch ngợm trêu đùa những người đi xa trở về. Khung cảnh nơi đây muôn đời đã thế, chỉ là đối với nhà văn, nắng đã chảy vào miền ký ức thi vị của thơ Đường.

“Nắng tháng ba nắng đường Thi”, để rồi ký ức dừng chân tại điểm “Yên hoa tam nguyệt há dương Châu”, gợi nhắc ý thơ của Lý Bạch ngày xuân hoa khói rực rỡ, vời vợi nhớ thương tiếc nuối vì tiễn bạn đi xa.

Liên tưởng của Nguyễn Tuân ở đây cực kỳ đắt giá, nó làm xao xuyến những tâm hồn mộc mạc thích thơ Đường. Chỉ trái ngược một điều, đây là niềm vui ngày gặp lại cố nhân chứ không phải ngậm ngùi tiễn bạn đi xa như thiên cổ lệ cú của nhà thơ Lí Bạch.

Đó là niềm vui, nỗi nhớ đan xen lẫn lộn, lúc vui vẻ trẻ trung, lúc âm trầm chiêm nghiệm và đầy cổ điển. Đây là cảm xúc của người lữ khách rối bời vì gặp lại cố nhân xưa cũ, vừa thích thú lại vừa sợ người ta quên đi chính mình.

Cảnh vật lặng tờ bên bờ sông Đà cùng khát vọng đất nước ngày càng hưng thịnh

Tiếp đó là “bờ sông Đà, bãi sông Đà chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Một câu văn chỉ có liệt kê chủ ngữ, cảnh sông Đà hiện lên sinh động trong từng nhịp chuyển động của những sinh vật quanh đây.

Mỗi một vế như ngân lên niềm say mê, phấn khích và hứng thú của nhà văn. Không gian như nhân đôi sự mênh mông, phóng khoáng, hết sinh thể này đến sinh thể khác tiếp nối chung vui, hạnh phúc đến choáng ngợp.

Cảm xúc vui sướng ấy được Nguyễn Tuân ví von “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Điệp lại “vui như” như nhân đôi niềm vui sướng của tác giả.

“Nắng giòn tan” gợi liên tưởng ánh nắng đầm ấm khi những người cố nhân gặp lại nhau. Nó không còn là ánh nắng trong trẻo như trẻ con đang nghịch, không còn là nắng của quá khứ bồi hồi, ánh nắng giờ đây tựa niềm say mê vô bờ cho tình cảm nối lại sau bao ngày xa cách.

Chúng ta không thể nắm bắt lấy nắng nhưng hoàn toàn có thể cảm nhận điều mà nó mang lại. Niềm vui cũng vậy, không biểu hiện cụ thể, không minh chứng xác đáng nhưng luôn có thể thấm đậm cái niềm vui say mê lâng lâng, rung động trong từng khoảnh khắc.

Một giấc chiêm bao trải qua nhiều cung bậc cảm xúc, hụt hẫng vì “đứt quãng” nay lại được hồi sinh tựa những điều kỳ diệu trở thành hiện thực. Cảm giác thú vị sung sướng như được đẩy lên cực điểm khi Nguyễn Tuân so sánh một hình ảnh thân thuộc như thế.

Cuối cùng là hình ảnh “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà thật sự trở thành người tri kỷ, người bạn tâm tình sau mỗi chuyến đi. Sông Đà tiễn ông đi rồi lại đón ông về, lần nào cũng vui như lần gặp đầu tiên.

Người cố nhân này thật khó chiều nhưng cũng mang lại cảm xúc khó quên. Giờ đây không chỉ là “rượu đêm tân hôn”, Nguyễn Tuân hẳn đã say “rượu gặp lại cố nhân” như người đời vẫn bảo “tiểu biệt thắng tân hôn”. 

Nét trữ tình thi vị nhất chính là khoảng lặng như tờ của sông Đà, sắc thái hoang dại. Niềm vui gặp lại dần qua đi, giờ đây có lẽ cố nhân muốn nhìn ngắm nhau kỹ càng hơn, cùng nhau nhớ lại những điều xưa cũ.

“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.”

Câu văn mở đầu toàn thanh bằng khiến người đọc cảm nhận chiếc thuyền cũng lặng lờ “trôi trên sông Đà” một cách đầy yên bình hoài niệm. Một sự thanh vắng tuyệt đối như đưa con người ngược về quá khứ, miên viễn xa xăm của lịch sử.

Tính từ “lặng tờ” một lần nữa lặp lại, sự yên ả được nhấn mạnh trong thời gian lịch sử “từ đời Lí đời Trần đời Lê”, sông Đà như người cất giữ âm thanh của thời đại, từ ngàn xưa vẫn vậy.

Nhà văn trừu tượng hóa  bờ sông hoang dại như “bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, bờ sông giờ đây không hẳn chỉ là hiện tại, mà dần trôi ngược về quá khứ hay miền cổ tích xa xăm nào đấy, càng liên tưởng càng đi sâu về dòng thời gian xưa cũ.

Trong thế giới ấy, sự yên lặng của sông Đà được nhấn mạnh, vẻ đẹp tiền sử vẫn còn gìn giữ. Không có lớp trầm tích phủ bụi nào ở đây, chỉ có sông Đà ngàn năm vẫn thế, vẫn ở lại đợi chờ người tình của mình trở về.

Khoảnh khắc ấy thật sự chạm đến cảm xúc của độc giả, trong niềm thương nhớ da diết sự im lặng, vừa hồi tưởng kí ức vừa chiêm nghiệm hiện tại của sông Đà. Dòng sông này chảy trong ký ức của thiên nhiên Tây Bắc, của những kẻ thù địch nhưng cũng hết lòng chiêm ngưỡng nó.

Trong sự lặng lẽ ấy, sông Đà lần nữa lại làm ta bất ngờ, không phải “làm mình làm mẩy” thay đổi tính nết mà thay vào đó là vẻ đẹp của sức sống. Dù mỏng manh, nhỏ bé nhưng trong lành nguyên sơ, thuần khiết hơn bao giờ hết.

Ngô non mới “nhú” và “cỏ gianh đang ra những nõn búp” xen lẫn trong “tiếng cá dầm xanh vẫy nước” xua đuổi “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh”, tạo ra sinh khí cho sự yên ả của bức tranh nơi đây, bản thân sông Đà toát lên vẻ đẹp căng tràn, trù phú và màu mỡ.

Những chi tiết này đưa nhà văn vào cõi tiên cảnh an lành, đến mức ông thèm “được giật mình bởi tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa”. Nguyễn Tuân như đã thực sự lạc vào cõi tiên mộng tiếng còi như kéo ông thức giấc để Nguyễn Tuân nhận ra mình vẫn đang ở thế giới thực.

Ẩn giấu phía sau tiếng còi ấy là mong ước và khát vọng không chỉ của tác giả mà còn là nhân dân đất gửi gắm sự phát triển của Tây Bắc hòa nhịp chung với không khí tiến lên xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Với thủ pháp nhân hóa sinh động, so sánh hình ảnh táo bạo độc đáo, người nghệ sĩ tài hoa đã khắc họa đặc sắc cả hai phương diện của sông Đà, hung bạo và trữ tình. Từ đó, ông cũng bộc lộ phong cách nghệ thuật mang cái chất riêng, sóng sánh ánh vàng.

“Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam chuộng hơn bây giờ, tôi dám tin những tác phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn một địa vị xứng đáng hơn nữa.”, Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã khẳng định chắc nịch như thế.

Người lái đò sông Đà với “tay lái ra hoa”

Enerst Hemingway từng so sánh tác phẩm có “ba phần nổi bảy phần chìm” như một tảng băng trôi, sông Đà là phần nổi giúp người đọc tìm được những phần âm trầm, thi vị sau lớp băng, thấy sự ngưỡng mộ tuyệt đối cho bản lĩnh của người lái đò già.

Nguyễn Tuân làm bật nổi cái hung bạo của thác nước sông Đà một cách dữ tợn như thế, nền thiên nhiên kỳ vĩ và rộng lớn mà con người dường như phải quy phục, một không gian đầy bạo tàn và không có tình người.

Chính từ đó, nhà văn góp phần bật nổi tình huống xuất hiện của người lái đò, một cuộc chèo đò vượt thác qua tất cả cửa tử mà thác đá bày trận sẵn, mai phục chờ con mồi từ lâu. Đó là cuộc chiến giành giật sự sống với thiên nhiên kỳ vĩ.

Đối thủ của ông Đò là một đội quân còn ông chỉ đơn thân độc mã. Giữa thiên nhiên ác nghiệt, hình ảnh ông đò bé nhỏ và đơn độc làm người ta cảm thấy sự không tương xứng và thầm nghĩ đến một cái kết không hay.

Người lái đò sông Đà là “chất vàng mười” mà nhà văn tìm kiếm

Thế nhưng với kinh nghiệm từng trải, bản lĩnh và tài hoa, người lái đò toát lên khí thế hiên ngang, kiên cường vượt thác chẳng mảy may run sợ. Nét đẹp lao động nghệ thuật tương phản với nét đẹp bình dị khi đối mặt thử thách của ông lái đò.

Nguyễn Tuân đã có nhận xét rằng ” Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một”.

Sức vóc của ông Đò giang từng nếm trải bao nhiêu đòn đánh của con thủy quái

Vẻ đẹp ngoại hình của ông đò được nhà văn hết lời ca ngợi, dẫu bước sang tuổi bảy mươi vẫn mang hình thể “đẹp như tạc tượng cẩm thạch”, cách nói phóng đại của nhà văn vì hết lòng ngưỡng mộ cũng không ngoa.

Sức vóc ấy tôi luyện qua năm tháng cùng đôi mắt tinh anh, nhãn quan tuyệt vời. Ông cũng từng kinh qua những trận chiến với con quái vật tàn bạo, để lại những thương tích “củ nâu”, cái mà nhà văn gọi là “huân chương lao động hạng nhất.”

Gắn bó với những cuộc vượt thác hằng ngày, một phần cuộc sống ông đã hài hòa ở trong đấy. Những thói quen “chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp lấy một cuống lái” là hành trình nhiều năm gian lao vất vả, đáng khâm phục.

Sự tài trí và linh hoạt của người lái đò sông Đà trong lúc vượt ba trùng vi thạch trận

Cảnh ông đò dùng tài trí vượt thác trận là điều nhà văn không viết nhiều, ông đặc tả sự thâm sâu của sông Đà nhiều hơn nhưng càng như vậy, hình tượng người lái đò càng khiến độc giả thán phục.

Trước hết, người lái đò là người giàu kinh nghiệm và dũng cảm phi thường. Dòng sông kéo dài hàng cây số, thác đá lại hay thay đổi phục kích. Thế nhưng, ông “nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”.

Ngoài ra, ông “thuộc đến cả những cái dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng; thuộc từng quy luật phục kích nước ải”. Từ đó, ở người lái đò hiện lên hình ảnh một ông Đò giang dày dặn kinh nghiệm, luôn quan sát mỗi khi vượt thác, học thác để tự cứu lấy mình.

Dù vậy, sự tài trí phi thường và sự linh hoạt của ông bộc lộ rõ nhất trong cách vượt qua ba trùng vi thạch trận, thứ mà kẻ thù đã bày ra để dìm chết những người đi ngang qua.

Ở trùng vi thứ nhất của thạch trận, sông Đà có năm cửa, bốn cửa tử và một cửa sinh ở tả ngạn bên trái. Thác ở thượng nguồn hiếu chiến hơn bao giờ hết, nó có đầy sức mạnh để giết chết tinh thần, làm tan xác con người đi qua đây.

Ông đò bị đánh những đòn hiểm nhất, “sóng nước như quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “ bóp chặt lấy hạ bộ ông lái đò” những đòn như thế cũng phần nào làm ông đau đớn.

Cái đau được Nguyễn Tuân đặc tả đến mức mặt “méo bệch”, sự đau đớn méo mó trong từng khớp cơ, khuôn mặt không độ hồng hào vì phải chịu những cú đánh nguy hiểm khi ngâm mình trong nước quá lâu.

Sự đau đớn còn được nhà văn miêu tả gián tiếp thông qua hình ảnh “ lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”, thị giác bị quay cuồng choáng váng, không rõ hình dạng mà chỉ thấy hàng ngàn đóm sáng đồng loạt lóe.

Rồi cảm giác bỏng rát như bị châm lửa, tất cả cùng lúc tấn công vào ông đò giang. Thế nhưng, ông ông vẫn ngoan cố kiên cường “đè nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”, người thương binh vẫn xoay sở, vẫn can trường như thế.

Trong phút đau đớn, ông buông tay lái, giữ chặt chân rồi sau đó nhanh chóng “chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo”. Trùng vi thứ nhất đã kết thúc, sự ngoan cường của ông khiến Nguyễn Tuân vô cùng ái mộ và khâm phục.

Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà hiểm ác đổi luôn chiến thuật và vị trí phục kích của mình. Binh lính sông Đà nhiều thế xoay chuyển, ông đò đơn độc cũng buộc phải đổi chiến thuật liên tục.

“Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” dù cho nó đã hung hãn hơn nhiều sau trận thua ở cửa đầu tiên. “ Dòng thác đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”, nó quyết chiến và xé tan con đò ngay tức khắc, nó nhào vào đầy hiếu chiến.

Ông đò cũng bắt đầu trận đánh với sự linh hoạt, thay đổi thế đánh tức thời. Ông quyết định dứt khoát và chính xác “nắm chặt cái buồng sóng đúng luồng, ghì cương lái” mà phóng vào cửa sinh.

Sông Đà không cho con mồi thoát thân dễ dàng như thế và để “ Bốn năm bọn thủy quân” tập kết định “níu thuyền” lôi vào cửa tử. Những hành động linh hoạt tác chiến, ông đò đều nhớ cả, đứa thì ông tránh, đứa thì ông “chặt đôi”.

Người lái đò vận dụng linh hoạt những kế hoạch khác nhau để không bị những tên này nắm thóp, ông vận dụng trí nhớ và sự dẻo dai điêu luyện của một “tay lái ra hoa” để đối đầu với kẻ thù một cách khôn ngoan nhất.

Thạch trận thứ hai diễn ra nhanh hơn nhưng tính chất lại ác nghiệt hơn hẳn. Để có một sự di chuyển, nắm thóp chính xác thì ông đò cũng phải nhanh trí và linh hoạt hơn bao giờ hết. Bản thân ông như một dũng tướng, cưỡi con chiến mã thuần phục cái bất kham của sông Đà.

Nhờ kinh nghiệm và trí nhớ thuộc dòng, thuộc đá, thuộc cả những ải phục kích, người lái đò đã giành lại sự sống cho bản thân. Nguyễn Tuân dùng câu văn ngắn cắt nghĩa hành động của ông rất chính xác và dứt khoát, hệt như ông đò đang chiến đấu ở đời thực.

Ở phía sau, thác đá sông nước vẫn tiếp tục khiêu khích tinh thần ông đò mặc dù thằng tướng đá canh giữ cửa sinh đã bị ông đò đánh bại đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”, còn ông đò vẫn bình thản giữ tinh thần chiến đấu trận chiến chưa đi đến hồi kết.

Trùng vi thạch trận thứ ba, “bên trái bên phải đều là luồng chết”, mọi sự sơ xuất ở đây đều là kết thúc. Sự hiểm ác của sông Đà tăng lên gấp bội,”cổng đá cánh mở cánh khép”, sóng nước đá nơi đây làm con người hoa mắt, nay lại dùng thủy trận làm phòng vệ vững chắc.

Nhiệm vụ của ông đò là khoảnh khắc “cửa đá mở ra”, phải“phóng thẳng” và “chọc thủng” cửa giữa đó như con đường duy nhất. Sự kết hợp động từ mạnh, câu văn ngắn đòi hỏi sự nhanh nhẹn, chính xác tuyệt đối.

Ông đò “vút” hết cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Điệp hàng loạt từ “vút” gợi tả tốc độ con thuyền lao đi giữa bạt ngàn sóng nước, hàng ngàn khối đá hung hãn. Sự tinh luyện dày dặn, nhanh nhẹn của người lái đò bộc lộ một cách đáng ngưỡng mộ.

Tài năng của “tay lái ra hoa” được nhà văn miêu tả gián tiếp qua con thuyền “vút như mũi tên tre”, “vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”, độc giả cảm tưởng ông đò như có cả một đội quân bên cạnh.

Tài trí kết hợp với tài năng, bản lĩnh và sự gan dạ của ông Đò giang dường như đạt đến độ hoàn mỹ. Thế rồi ông vượt cả ba thạch trùng vi, dù mất sức nhưng vẫn bảo toàn được mạng sống.

Từ sự chênh lệch giữa thiên nhiên và con người, ông lái đò đã cho chúng ta thấy một cái kết khác. Một cái kết mà ông làm chủ được vận mệnh của mình trước tự nhiên hoang dã và rộng lớn. Trong cái nền sắc xanh hoang dại, ông đò là ánh vàng giữa sóng nước.

Người anh hùng bình dị giữa cuộc sống đời thường

Nét đẹp lao động nghệ thuật của ông đò là nét đẹp nghệ thuật bình dị của đời sống, ông cẩn trọng và giữ sự tôn trọng với nghề. Nếu Nguyễn Tuân không khắc lại sẽ khó ai để tâm đến, hoặc nếu có cũng không biết mấy ai có thể tái hiện đặc sắc như ông đã làm.

Sau khi ra khỏi thạch trận, ông đò bình thản “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh”, hoàn toàn không bàn về chiến trận vừa qua.

Điều này càng bật lên tầm vóc lớn lao của ông lão, một người lao động bình thường nhưng bản lĩnh. Họ là anh hùng trong đời sống bình dị, là người nghệ sĩ trên vũ khúc sông Đà.

Để có thể tái hiện một người nghệ sĩ đời thường như thế, độc giả cũng cần một người nghệ sĩ như Nguyễn Tuân. Phong cách nghệ thuật độc đáo cùng tài hoa văn chương đã góp phần biến Người lái đò sông đà trở thành trang tùy bút xuất sắc của thời đại.

Ông Đò giang là hình tượng tiêu biểu cho điểm nhìn nhân vật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng. Một người lao động đời thường bản lĩnh nghiêm túc, đạt đến trình độ điêu luyện thuần thục và xứng đáng được ghi nhớ trên trang văn.

“Vang bóng một thời”  và đời đời nhớ mãi

Nghề viết, với Nguyễn Tuân như đứng trước một “pháp trường trắng”, không quy nạp cái đẹp thì tự mình sẽ lụi tàn trên từng trang giấy. Cái thú xê dịch tạo cho người nghệ sĩ niềm vui trải nghiệm nhưng giữ ông lại là “cái đẹp” mà bản thân thầm tìm kiếm.

Người lái đò sông Đà là một tùy bút xứng đáng “vang bóng mãi mãi”

Nhà văn say sưa trên từng trang viết của mình để dâng cho đời bông hoa đẹp nhất, nghệ thuật nhất. Tập truyện Vang bóng một thời là nốt son chói lọi trong đời văn ông nhưng những tác phẩm sau Cách mạng gần như tiệm cận sự hoàn hảo.

Nhất là tập tùy bút Sông Đà, ở đó tác phẩm của ông bắt đầu sống vì cuộc đời và cả vì nghệ thuật. Khi ấy, ông là “định nghĩa của người nghệ sĩ chân chính” mà mãi đến sau này, không ai có thể thay thế.

Mai Hy

Từ khóa » Những Lời Bình Về Người Lái đò Sông đà