Người Nhện 2 – Wikipedia Tiếng Việt

Đối với các định nghĩa khác, xem Người Nhện 2 (định hướng).
Người Nhện 2
Áp phích chiếu rạp của phim
Đạo diễnSam Raimi
Kịch bảnAlvin Sargent
Cốt truyện
  • Alfred Gough
  • Miles Millar
  • Michael Chabon
Dựa trênSpider-Mancủa Stan Lee
Sản xuất
  • Laura Ziskin
  • Avi Arad
Diễn viên
  • Tobey Maguire
  • Kirsten Dunst
  • James Franco
  • Alfred Molina
  • Rosemary Harris
  • Donna Murphy
Quay phimBill Pope
Dựng phimBob Murawski
Âm nhạcDanny Elfman
Hãng sản xuất
  • Columbia Pictures[1]
  • Marvel Enterprises[1]
  • Laura Ziskin Productions[2]
Phát hànhSony Pictures Releasing[2]
Công chiếu
  • 22 tháng 6 năm 2004 (2004-06-22) (Mann Village Theater)
  • 30 tháng 6 năm 2004 (2004-06-30) (Hoa Kỳ)
Thời lượng127 phút[3]
Quốc giaHoa Kỳ
Ngôn ngữTiếng Anh
Kinh phí200 triệu USD[4]
Doanh thu783,8 triệu USD[4]

Người Nhện 2 (tựa gốc tiếng Anh: Spider-Man 2) là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2004 do Sam Raimi đạo diễn và Alvin Sargent viết kịch bản từ đầu truyện của Alfred Gough, Miles Millar và Michael Chabon. Là phần tiếp nối của phim Người Nhện năm 2002, tác phẩm là phần thứ hai trong trilogy Người Nhện, dựa trên nhân vật truyện tranh giả tưởng cùng tên của Marvel Comics. Các diễn viên Tobey Maguire, Kirsten Dunst, James Franco và Rosemary Harris lần lượt đảm nhận những vai diễn tương ứng của họ ở phần đầu tiên, trong khi Alfred Molina và Donna Murphy mới gia nhập dàn diễn viên trong phim.

Lấy bối cảnh hai năm sau những sự kiện trong Người Nhện, nội dung phim kể về Peter Parker phải chật vật để xoay xở cả cuộc sống cá nhân và trách nhiệm làm Người Nhện của anh, trong khi tiến sĩ Otto Octavius trở thành một phản diện hiểm ác, sau khi một thí nghiệm thất bại của ông vô tình giết vợ mình và để lại cho ông một đống xúc tu máy hợp nhất với hệ thần kinh của Otto. Người Nhện buộc phải ngăn chặn ông tái tạo thành công thí nghiệm gây đe dọa phá hủy thành phố. Quá trình quay phim chính bắt đầu vào tháng 4 năm 2003 tại thành phố New York và đồng diễn ra tại Los Angeles. Cảm hứng làm phim của Raimi đến từ màn ra mắt trên truyện tranh của Doctor Octopus vào năm 1964, tiểu phần If This Be My Destiny...! (1966) và tiểu phần Spider-Man No More! (1967).

Ngày 30 tháng 6 năm 2004, Người Nhện 2 công chiếu trên cả hai hệ thống rạp chiếu truyền thống và IMAX, thu về 783 triệu USD trên toàn cầu và trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao thứ ba trong năm. Tác phẩm đã giành giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất và nhận hai đề cử khác cho hòa âm hay nhất và biên tập âm thanh xuất sắc nhất. Phim còn nhận được năm đề cử tại lễ trao giải Sao Thổ như phim kỳ ảo hay nhất và đạo diễn xuất sắc nhất cho Raimi. Người Nhện 2 thường được coi là một trong những phim siêu anh hùng hay nhất mọi thời đại và là bệ phóng cho các bộ phim tương lai thuộc thể loại này;[a] thành công của phim dẫn đến phần tiếp mang tên Người Nhện 3 (2007). Maguire và Molin đã tái đảm nhận những vai diễn của họ trong phim Người Nhện: Không còn nhà của Vũ trụ Điện ảnh Marvel – tác phẩm nhắc tới khái niệm đa vũ trụ và liên kết tới các bộ phim của Watts và Webb.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong phim lần này, Peter Parker phải đấu tranh để cân bằng giữa nhiệm vụ chống tội phạm khi làm người nhện với những nhu cầu cuộc sống đời thường. Anh bị mất việc, tài chính khó khăn trong khi phải gắng sức duy trì việc học vật lý ở Đại học Columbia. Hơn nữa, anh còn bị người tình Mary Jane Watson xa lánh và người bạn thân Harry Osborn gây sức ép. Mary Jane rất bất mãn trong lúc hẹn hò với Peter, còn Harry lại hiểu lầm người nhện đã sát hại cha mình, Norman Osborn. Ngoài ra, Peter lại còn biết rằng dì May có nguy cơ phải thế chấp tài sản để trả nợ tiền nhà.

Harry bây giờ đã thành trưởng cục nghiên cứu của tập đoàn Oscorp và cậu đã tài trợ cho nhà khoa học hạt nhân Otto Octavius lỗi lạc. Otto mơ ước về một nguồn năng lượng nhiệt thạch khổng lồ hoàn chỉnh. Ộng ta mặc một bộ áo mang các cánh tay rô bốt cực khỏe có trí thông minh nhân tạo để điều khiển cuộc thí nghiệm. Trục trặc khi kiểm soát năng lượng đã làm mất thăng bằng cuộc thí nghiệm nhưng Octavius không chịu tắt máy đã dẫn đến kết cục thảm khốc: vợ ông bị chết, con chíp ức chế thần kinh để ngăn các cánh tay chi phối trí óc ông cũng bị hủy và các cánh tay đó càng cắm sâu vào xương sống ông. May thay người nhện cũng xuất hiện và tắt cái máy trước khi nó gây thêm thiệt hại.

Otto Octavius bị ngất rồi được đưa đến bệnh viện. Trong lúc các bác sĩ chuẩn bị tiến hành phẫu thuật cắt bỏ các cánh máy và bộ áo xúc tu, thì các cánh tay (xúc tu) bỗng tỉnh dậy và đồ sát ê kíp y bác sĩ. Các xúc tu đã phát triển được khả năng nhận thức sau khi con chíp ức chế bị phá hủy. Khi tỉnh dậy và thấy cảnh chết chóc đó, Octavius rời bệnh viện và trốn ở một bến cảng bỏ hoang. Và bây giờ ông được tờ báo Daily Bugle đặt cho biệt danh là Doctor Octopus (Tiến sĩ bạch tuộc). Các xúc tu thuyết phục ông thử lại cuộc thí nghiệm và để có tiền, phải đi cướp ngân hàng.

Sau khi Peter lỡ việc xem vở kịch đầu tiên Mary Jane đóng, cô cố tình hẹn hò với phi hành gia John Jameson, chỉ để "trả đũa" Peter. John Jameson chính là con trai của J. Jonah Jameson, chủ tờ báo Daily Bugle. Peter cực kì bị tổn thương, cộng thêm với các áp lực trong cuộc sống ngày càng dồn dập khiến anh mất sức mạnh người nhện. Anh từ bỏ mặt nạ người nhện và quay về cuộc sống đời thường để muốn nối lại mối tình với Mary Jane. Một nhân viên vệ sinh đã nhặt được bộ áo người nhện và mang đến cho J. Jonah Jameson, Jonah trách mình đã làm người nhện biến mất. Peter tiết lộ với dì May rằng cái chết của bác Ben cách đây không lâu còn do một phần lỗi của mình. Tuy lúc đầu có hơi sốc nhưng dì May cũng mau chóng tha thứ cho Peter. Khi một cậu bé hàng xóm 9 tuổi nhắc đến chuyện người nhện biến mất và tỉ lệ tội phạm gia tăng ở New York tiếp theo sau đó, Peter lại bắt đầu ngẫm nghĩ về "sự nghiệp" của chính mình trước đây.

Octavius cần tritium để cấp nhiên liệu cho lò phản ứng, hắn đến tìm Harry để đòi trao đổi. Lúc đầu Harry từ chối vì thí nghiệm đó có khả năng san bằng cả thành phố, rồi sau cùng đồng ý với điều kiện bắt sống người nhện. Harry cho biết chính Peter Parker là chìa khóa để tìm người nhện, vì Peter hay chụp ảnh người nhện đăng báo nên cho rằng Peter quen biết với người nhện. Nhưng Harry cũng căn dặn Octavius đừng làm hại Peter. Octavius tìm đến Peter ép anh kiếm người nhện, nhưng vì cam kết không hại đến Peter, hắn bắt Mary Jane đi. Peter nhận thấy sức mạnh người nhện của mình đã khôi phục sau cú kích động, anh trộm lại bộ áo người nhện từ tòa sọan Bugle và mặc nó vào.

Người nhện đã đánh nhau với Octavius trên một tòa tháp đồng hồ rồi cả hai bị rơi xuống mái của một tàu cao tốc đang chạy. Hai người tiếp tục đánh một trận quyết liệt. Sau đó Octavius phá hỏng bộ điều khiển của con tàu và nhảy ra khỏi đó. Người nhện chặn đứng con tàu lại trước khi nó chạy lọt ra ngoài đường ray. Khi anh ngất xỉu vì kiệt sức, hành khách trên tàu mang anh vào toa. Anh dần dần tỉnh lại và phát hiện mặt nạ người nhện của mình đã cởi ra. Nhưng hành khách rất biết ơn anh và thề sẽ không tiết lộ nhân dạng thực của anh. Rồi Octavius quay lại để đòi người nhện. Hắn khống chế các hành khách và đánh gục người nhện, rồi mang đến cho Harry.

Sau khi đưa tritium cho Octavius, Harry chuẩn bị giết người nhện. Cậu gỡ bỏ mặt nạ ra và vô cùng sửng sốt khi thấy đó là Peter - người bạn thân của mình. Peter tỉnh lại và thuyết phục Harry rằng những thứ quan trọng hơn đang bị đe dọa (thành phố và Mary Jane). Harry bất đắc dĩ tiết lộ chỗ của Octavius. Người nhện liền đến phòng thí nghiệm trên sông của tiến sĩ Octavius và lén lút cứu Mary Jane. Một xúc tu của Octavius đã thấy người nhện rồi cả hai lao vào đánh nhau. Lần này với nhiều kinh nghiệm hơn, Peter nhanh chóng đánh bại được Octavius. Anh cởi mặt nạ cho Octavius biết mặt mình và thuyết phục Octavius từ bỏ giấc mơ để làm những điều tốt hơn. Octavius cuối cùng cũng chế ngự được các xúc tu để chúng tuân lệnh mình và nhấn chìm lò phản ứng nhiệt thạch cùng bản thân hắn xuống dòng sông Hudson. Sau đó, Mary Jane cũng biết được khuôn mặt thực của người nhện cũng như lý do tại sao họ không thể ở bên nhau. Peter trả Mary Jane về lại cho John và đi ngay.

Ảo ảnh của cha Harry hiện về trong 1 chiếc gương và yêu cầu cậu giết người nhện để trả thù cho cái chết của ông ta. Harry từ chối làm hại Peter và đập vỡ cái gương. Anh phát hiện một căn phòng bí mật sau chiếc gương. Căn phòng chứa các thiết bị của Green Goblin và vài ống huyết thanh thử nghiệp đang dang dở. Còn Mary Jane trong ngày cưới đã bỏ lại John ngay trước bệ thờ của thánh đường và chạy về căn hộ của Peter. Cô thú nhận tình cảm thực của mình với Peter. Cả hai hôn nhau rồi nghe thấy tiếng rượt đuổi tội phạm của cảnh sát. Cô khuyến khích anh hãy giúp cảnh sát.

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn] Dàn diễn viên của Người Nhện 2 (từ trên xuống): Tobey Maguire vào vai Peter Parker / Người Nhện, Kirsten Dunst vào vai Mary Jane Watson và Alfred Molina vào vai phản diện Otto Octavius.
  • Tobey Maguire vai Peter Parker / Người Nhện:[11]Anh là một siêu anh hùng, sinh viên ngành vật lý của Đại học Columbia và nhiếp ảnh gia cho tờ Daily Bugle. Việc chật vật với cuộc sống hai mang làm anh đôi khi phải từ bỏ trách nhiệm làm siêu anh hùng của mình ở thời điểm nghịch cảnh.
  • Kirsten Dunst vai Mary Jane Watson:[12] Cô là một nữ diễn viên Broadway giàu tham vọng và cô bạn mà Peter yêu từ khi còn nhỏ, song anh đã từ bỏ cơ bội ở bên cô vì lo lắng cho an toàn của Watson. Dẫu vẫn ấp ủ tình cảm với Peter, Mary Jane bắt đầu hẹn hò với John Jameson và sau cùng đính hôn với anh ta, nhằm chọc tức Peter. Cô còn phải lòng Người Nhện, người đã cứu mạng cô nhiều lần trong quá khứ, và không hề biết Peter chính là danh tính thật của siêu anh hùng ấy.
  • James Franco vai Harry Osborn:[13] Anh là CEO đương nhiệm của tập đoàn Oscorp, con trai Norman Osborn và bạn thân của Peter, mặc cho cậu bạn che giấu bản ngã Người Nhện vì có trách nhiệm với cái chết của Norman. Harry còn là bạn trai cũ của Mary Jane và vẫn vương vấn tình cảm với cô.
  • Alfred Molina vai Dr. Otto Octavius / Doctor Octopus:[14]Ông là một nhà khoa học làm việc đại diện cho Oscorp, là thầy và hình mẫu của Peter; Sau khi thất bại trong thí nghiệm tạo ra phản ứng nhiệt hạch tự duy trì, ông phát điên và vô tình lấy mạng vợ mình là Rosie. Octavius được liên kết với thiết bị xử lý là bốn chiếc xúc tu cơ học thông minh nhân tạo, chúng tác động lên tinh thần của ông và thuyết phục ông phải hoàn tất thí nghiệm bằng mọi giá.
  • Rosemary Harris vai May Parker: Bà là góa phụ của Ben Parker và dì của Peter.[15]
  • Donna Murphy vai Rosie Octavius: vợ và trợ lý của Otto.[16]

J. K. Simmons tái đảm nhiệm vai J. Jonah Jameson, nhà quản lý keo kiệt và trưởng ban biên tập của tạp chí Daily Bugle,[17] trong khi Daniel Gillies hóa thân vai cậu con trai John Jameson, một phi hành gia và hôn thê của Mary Jane.[15]

Giống như phần phim trước, Bruce Campbell có một vai diễn khách mời, lần này là vai một người chỉ chỗ ngồi từ chối cho Peter vào vì tới trễ để xem show của Mary Jane Watson.[18] Nhà đồng sáng tạo Người Nhện là Stan Lee thủ vai một người đàn ông trên phố cứu được một phụ nữ tránh khỏi các mãnh vỡ rơi xuống đất trong trận chiến giữa Người Nhện và Doctor Octopus.[19] Dylan Baker hóa thân vào vai Tiến sĩ Curt Connors, một trong những giáo sự dạy vật lý ở đại học của Peter và đồng nghiệp của Octavius,[16] trong khi Willem Dafoe tái nhận vai Norman Virgil Osborn, người cha quá cố của Harry xuất hiện trước mặt anh như một ảo giác. Dafoe nảy ra ý tưởng này trong lần quảng bá cho Người Nhện, ông đem nhân vật so sánh với Vua Hamlet ám con trai để báo thù cho mình.[20] Elizabeth Banks, John Paxton, Ted Raimi và Bill Nunn lần lượt tái nhận diễn các vai Betty Brant,[21] Bernard Houseman (quản gia của gia đình Osborn),[22] Ted Hoffman,[17] và Robbie Robertson.[23] Elya Baskin thủ vai ông Ditkovitch (chủ nhà của Peter; cái tên của nhân vật có liên hệ tới nhà đồng sáng tạo của Người Nhện là Steve Ditko) còn Mageina Tovah thủ vai cô con gái Ursula.[24] Cliff Robertson tái nhận vai người chú của Peter, Ben Parker trong cảnh hồi tưởng.[25]

Scott Spiegel thủ vai một người đàn ông cố ăn vài chiếc bánh pizza mà Người Nhện đang giao hàng, song bị dính tơ nhện trên tay.[26] Joel McHale đóng vai ông Jacks, một nhân viên giao dịch ngân hàng.[27] Hal Sparks diễn một hành khách trong thang máy có một cuộc trò chuyện với Người Nhện.[27] Donnell Rawlings hóa thân làm một người dân New York kêu rằng Người Nhện "đã đánh cắp những chiếc pizza của anh ta"[28] và Emily Deschanel thủ vai một nhân viên lễ tân.[27] Brent Briscoe đóng vai người dọn rác tìm thấy bộ đồ của Người Nhện trong đống rác và trao nó cho Jameson.[29] Peter McRobbie thủ vai một đại diện của OsCorp.[24] Reed Diamond đóng vai Algernon.[24] Peyton List và em trai cô là Spencer List có các vai điện ảnh đầu tay là đôi bé trai và gái chơi trên bậc cầu thang.[30][31] Daniel Dae Kim thủ vai Raymond, trợ lý của Otto Octavius làm việc trong phòng thí nghiệm của ông.[27] Aasif Mandvi thủ vai Aziz, chủ quán Joe's Pizza.[27] Joey Diaz,[32] Dan Hicks và Chloe Dykstra thì diễn các vai hành khách trên tàu.[24] Vanessa Ferlito thủ vai Louise, một trong những bạn diễn của Mary Jane.[33] Joy Bryant xuất hiện trong vai một khán giả nhìn thấy Người Nhện hành động.[27] John Landis diễn vai một trong những bác sĩ phẫu thuật lên người Doctor Octopus.[34] Phil LaMarr thủ vai một hành khách trên tàu dễ thấy nhất ở phía bên trái của Người Nhện (góc phải theo chiều của người xem) trong lúc người hùng ấy sử dụng tơ để làm chậm tốc độ của tàu.[35] Gregg Edelman thủ vai Tiến sĩ Davis.[24]

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay sau khi hoàn thành Người Nhện, đạo diễn Sam Raimi với sự giúp đỡ từ James Keltie đã tiến hành đạo diễn một phần tiếp nối.[36] Vào tháng 4 năm 2002, Sony thuê bộ đôi biên kịch là Alfred Gough và Miles Millar để viết kịch bản phim.[37] Ngày 8 tháng 5 năm 2002, sau khi Người Nhện phá kỷ lục 115 triệu USD dịp cuối tuần mở màn, Sony Pictures cũng công bố một phần hậu truyện vào năm 2004.[38] Với tựa đề The Amazing Spider-Man, dựa theo tựa truyện tranh chính của nhân vật,[39] phim nhận được kinh phí 200 triệu USD[40] và nhắm lịch chiếu vào ngày 7 tháng 5 năm 2004. Tháng sau, các nhà làm phim đã tuyển thêm David Koepp để đồng viết kịch bản với Gough và Millar.[37]

Tháng 9 năm 2002, Michael Chabon được thuê để viết lại kịch bản.[37] Phần kịch bản nháp của ông có một nhân vật Doc Ock trẻ hơn và say mê Mary Jane. Những cánh tay bằng máy của y sử dụng chất endorphin để kháng lại cơn đau bị những cánh tay gắn vào cơ thể, khiến y thấy hưng phấn. Khi Doc Ock gây thương tích cho hai kẻ cướp thì Mary Jane bắt đầu hoảng sợ, dẫn đến cuộc chiến với Người Nhện. Sau đó những xúc tu của y bị rối vào nhau và bắt đầu giết hắn. Trong kịch bản, Octavius là người tạo ra con nhện biến đối gen từ phần phim đầu tiên và tặng cho Peter một liều thuốc giải độc để loại bỏ sức mạnh của anh: điều này được lý giải khi Octavius đang dần chết cùng với các xúc tu, y muốn rút xương sống của Người Nhện để tự cứu mình, do đó dẫn đến việc liên minh với Harry ở cuối phim. Trước đó Harry và nhật báo Daily Bugle từng trả giá 10 triệu USD cho cái đầu của Người Nhện, khiến cho các công dân của thành phố quay lưng lại với anh ta.[41]

Raimi sifted through the previous drafts by Gough, Millar, Koepp and Chabon, picking what he liked with screenwriter Alvin Sargent.[42] He felt that thematically the film had to explore Peter's conflict with his personal wants against his responsibility, exploring the positive and negatives of his chosen path, and how he ultimately decides that he can be happy as a heroic figure.[36] Although the story takes some partial influence from Doc Ock's debut in 1963 and the 1966 storyline If This Be My Destiny...!, the story was mostly inspired by the 1967 storyline Spider-Man No More!, specifically The Amazing Spider-Man #50. It was decided that Doctor Octopus would be kept as the villain, as he was both a visually interesting villain who was a physical match for Spider-Man, and a sympathetic figure with humanity, accompanied by the fact that the character had been repeatedly considered as a villain for the first film over the course of its 15-year development.[36] Raimi changed much of the character's backstory, however, adding the idea of Otto Octavius being a hero of Peter, and how their conflict was about trying to rescue him from his demons rather than kill him.[39]

Ghi hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Người Nhện 2 được quay tại hơn một trăm bối cảnh và địa điểm, bắt đầu với địa điểm tiền ghi hình ở The Loop, Chicago diễn ra trong hai ngày vào tháng 11 năm 2002. Đoàn làm phim đã mua một đoàn tàu chứa nhiều toa 2200 series, thay thế mười sáu máy quay cho những cảnh quay nền của trận chiến trên tàu giữa Người Nhện và Doc Ock.[36] Quá trình quay phim chính bắt đầu vào ngày 12 tháng 4 năm 2003 tại thành phố New York. Ngày 13 tháng 5 ê-kíp làm phim di chuyển đến Los Angeles [37] để ghi hình mười bối cảnh chính do nhà thiết kế sản xuất Neil Spisak tạo ra. Sau nỗi hoang mang xung quanh chấn thương lưng của mình, Tobey Maguire vẫn thích biểu diễn nhiều pha nguy hiểm, thậm chí cả tạo trò đùa với Raimi khi anh tạo ra câu thoại "My back, my back" (Lưng tôi, lưng tôi) trong lúc Người Nhện cố gắng để lấy lại siêu năng lực.

Hiệu ứng hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù gần như tương đương bộ đồ trong phần trước, nhà thiết kế phục trang James Acheson có một vài thay đổi tinh tế đối với bộ trang phục của Người Nhện. Màu áo đẹp và táo bạn hơn, biểu tượng con nhện có thêm nhiều dòng kẻ tao nhã hơn và có kích thước mở rộng; trong khi đó ống kính mắt nhỏ hơn một chút, và bộ đồ cơ bắp bên trong cơ thể được chia thành nhiều mảng, đem lại cảm giác di chuyển tốt hơn. Mũ bảo hiểm Maguire đội dưới lớp mặt nạ cũng có cải tiến khi gắn những mảng quai hàm giả và miếng mắt có từ tính nhằm di chuyển tốt hơn và dễ tháo ra hơn.[36]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Spider-Man 2 (nhạc phim)

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải trí tại gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc đầu Người Nhện 2 được phát hành trên VHS và DVD vào ngày 30 tháng 11 năm 2004. Bản DVD có sẵn trên cả định dạng màn ảnh rộng anamorphic và "toàn màn hình" pan and scan, cũng như một ấn bản superbit và một hộp box-set kèm theo phần phim đầu tiên. Ngoài ra cũng có một bộ quà tặng DVD của nhà sưu tập trong đó có một tái bản của The Amazing Spider-Man #50.[43] Phim được phát hành trên Blu-ray vào tháng 10 năm 2007, đi kèm trong hộp box-set Spider-Man: The High Definition Trilogy.[44] Tác phẩm cũng được phát hành riêng trên đĩa Blu-ray vào tháng 11 năm 2010 cũng như phần phim trước đi kèm trong bộ Blu-ray Essentials Collection của Sony, bao gồm cả bản phát hành chiếu rạp và bản cắt mở rộng 2.1.[45] Tất cả ba phần phim đều được phát hành trên Blu-ray đi kèm trong bộ đĩa Spider-Man: Origins vào năm 2017.[46]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Doanh thu phòng vé

[sửa | sửa mã nguồn]

Người Nhện 2 thu về tổng cộng 373.6 triệu USD chỉ tính riêng tại thị trường Mỹ và Canada, và 410.2 triệu USD tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khác, đưa tổng mức doanh toàn cầu lên 783.8 triệu USD so với kinh phí làm phim là 200 triệu USD.[4]

Ngày 30 tháng 6 năm 2004, Người Nhện 2 ra mắt tại Hoa Kỳ và thu về 40.4 triệu USD trong ngày chiếu đầu tiên, phá vỡ kỷ lục 39.4 triệu USD trong ngày mở màn của phần phim đầu tiên,[47] cho đến khi kỷ lục trên bị Chiến tranh giữa các vì sao: Tập III – Sự báo thù của người Sith xô đổ một năm sau (50 triệu USD).[48] Phim cũng xô đổ kỷ lục doanh thu trong ngày thứ Tư cao nhất mọi thời đại (34.5 triệu USD) của Chúa tể của những chiếc nhẫn: Sự trở về của nhà vua.[49] Bộ phim nắm giữ kỷ lục ngày thứ Tư trong ba năm trước khi bị Harry Potter và Hội Phượng Hoàng vượt qua (44.2 triệu USD).[50] Doanh thu của phim từ thứ Sáu đến Chủ Nhật đạt mức 88.2 triệu USD, trở thành phim có doanh thu dịp cuối tuần ngày Độc lập cao nhất, phá vỡ kỷ lục của Men in Black II (52.1 triệu USD), cho đến khi kỷ lục trên bị Transformers 3 xô đổ bảy năm sau (97.9 triệu USD).[51] Trong sáu ngày chiếu đầu tiên, Người Nhện 2 đã thu về hơn 180 triệu USD.[52] Tác phẩm cuối cùng đã chạm mốc 373.5 triệu USD, trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao thứ hai trong năm 2004 sau Shrek 2. Người Nhện 2 còn là phim điện ảnh có doanh thu cao thứ 28 tại thị trường Hoa Kỳ và Canada và tiêu thụ ước tính 60,158,700 vé xem tại Hoa Kỳ.[53]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]

Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, Người Nhện 2 nhận được 93% lượng đồng thuận dựa theo 269 bài đánh giá, với điểm trung bình là 8.3/10. Các chuyên gia của trang web nhất trí rằng, "Niềm kiêu hãnh về một phản diện giải trí và tập trung vào cảm xúc sâu sắc hơn, đây là một phần tiếp nối nhanh trí cải thiện trên cả bản gốc".[54] Trên trang Metacritic, phim đạt số điểm 83 trên 100 dựa trên 41 nhận xét, chủ yếu là những lời tán dương.[55] Lượt bình chọn của khán giả trên trang thống kê CinemaScore cho phần phim điểm "A–" trên thang từ A+ đến F.[56] Tác phẩm xếp thứ 441 trong danh sách tốp 500 phim điện ảnh của tạp chí Empire.[57]

Mark Caro của nhật báo Chicago Tribune cho rằng Alfred Molina là một "phản diện phức tạp mà dễ chịu", và bộ phim là một tổng thể "cải thiện phần tiềm nhiệm của nó theo hầu hết mọi hướng".[58] Kenneth Turan của Los Angeles Times chấm phần phim 4 trên 5 sao và có chung quan điểm với Caro, ông viết, "Doc Ock chiếm đoạt bộ phim này với bốn chiếc tay máy uốn khúc hung hãn và từ chối buông bỏ."[59] Nếu Roger Ebert là người chấm phần phim đầu tiên hai sao rưỡi thì lần này ông chấm Người Nhện 2 bốn sao trên bốn sao hoàn hảo, ông gọi bộ phim là "phim điện ảnh siêu anh hùng hay nhất kể từ khi thể loại hiện đại khởi đầu với Superman (1978)" và ca ngợi tác phẩm vì đã "[kết hợp] nhuần nhuyễn hiệu ứng hình ảnh và một câu chuyện nhân văn, giữ cho các tình tiết phim tồn tại và hoạt động song song".[60] Sau đó ông còn gọi Người Nhện 2 là phim điện ảnh hay thứ tư trong năm 2004.[61]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Danh sách giải thưởng và đề cử của loạt phim điện ảnh Spider-Man 2002-2007

Người Nhện 2 giành hai giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất và giành các đề cử cho hòa âm hay nhất (Kevin O'Connell, Greg P. Russell, Jeffrey J. Haboush và Joseph Geisinger, nhưng thua Ray) và biên tập âm thanh xuất sắc nhất (thua Gia đình siêu nhân).[62] Phim cũng chiến thắng năm giải Sao Thổ cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất, đạo diễn xuất sắc nhất, phim kỳ ảo hay nhất, hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất và kịch bản xuất sắc nhất, bên cạnh đó là hai đề cử cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất và nhạc phim hay nhất.[63] Tác phẩm còn nhận hai đề cử BAFTA cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất (thua The Day After Tomorrow) và âm thanh xuất sắc nhất (thua Ray).[64] Viện phim Mỹ xếp Người Nhện 2 là một trong mười phim điện ảnh hay nhất năm 2004,[65] đồng thời giành đề cử cho vị trí trong các danh sách tốp 10 phim kỳ ảo hay nhất,[66] 100 phim điện ảnh Mỹ truyền cảm hứng nhất[67] và 100 phim điện ảnh hay nhất.[68]

Tên giải thưởng Ngày trao giải Hạng mục Người nhận Kết quả
Giải Oscar[69] 27 tháng 2 năm 2005 Biên tập âm thanh xuất sắc nhất Paul N.J. Ottosson Đề cử
Hòa âm hay nhất Kevin O'Connell, Greg P. Russell, Jeffrey J. Haboush và Joseph Geisinger Đề cử
Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất John Dykstra, Scott Stokdyk, Anthony LaMolinara và John Frazier Đoạt giải
Giải thưởng Viện phim Mỹ[70] 2005 Phim điện ảnh của năm Spider-Man 2 Đoạt giải
BMI Film and TV Awards[71] 18 tháng 5 năm 2005 Giải thưởng âm nhạc điện ảnh BMI Danny Elfman Đoạt giải
Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Anh quốc[72] 12 tháng 2 năm 2005 Thành tựu hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất John Dykstra, Scott Stokdyk, Anthony LaMolinara và John Frazier Đề cử
Âm thanh xuất sắc nhất Paul N.J. Ottosson, Kevin O'Connell, Greg P. Russell và Jeffrey J. Haboush Đề cử
Phim điện ảnh cam của năm Spider-Man 2 Đề cử
Giải Lựa chọn của Nhà phê bình Điện ảnh[73] 10 tháng 1 năm 2005 Phim kỳ ảo hay nhất Spider-Man 2 Đề cử
Phim điện ảnh đại chúng hay nhất Spider-Man 2 Đoạt giải
Cinema Audio Society Awards[74] 19 tháng 2 năm 2005 Thành tựu hòa âm cho tác phẩm điện ảnh nổi bật Joseph Geisinger, Kevin O'Connell, Greg P. Russell và Jeffrey J. Haboush Đề cử
Giải Empire[75][76] 13 tháng 3 năm 2005 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Tobey Maguire Đề cử
Đạo diễn xuất sắc nhất Sam Raimi Đoạt giải
Golden Trailer Awards[77] 25 tháng 5 năm 2004 Summer 2004 Blockbuster Spider-Man 2 Đề cử
Giải Hugo[78] 7 tháng 8 năm 2005 Trình bày ca kịch xuất sắc nhất – Dạng dài Spider-Man 2 Đề cử
Giải thưởng hiệp hội phê bình điện ảnh Luân Đôn[79] 9 tháng 2 năm 2005 Nam diễn viên phụ Anh Quốc của năm Alfred Molina Đề cử
MTV Movie Awards[80] 4 tháng 6 năm 2005 Phân cảnh hành động hay nhất Spider-Man 2 Đề cử
Phim điện ảnh hay nhất Spider-Man 2 Đề cử
Phản diện xuất sắc nhất Alfred Molina Đề cử
People's Choice Awards[81] 9 tháng 1 năm 2005 Phim điện ảnh yêu thích Spider-Man 2 Đề cử
Nụ hôn yêu thích trên màn ảnh Kirsten Dunst và Tobey Maguire Đề cử
Phần tiếp nối yêu thích Spider-Man 2 Đề cử
Ngôi sao phản diện điện ảnh yêu thích Alfred Molina Đề cử
Giải Vệ tinh[82] 17 tháng 12 năm 2005 Nam diễn viên phụ phim chính kịch xuất sắc nhất Alfred Molina Đề cử
Quay phim xuất sắc nhất Bill Pope and Anette Haellmigk Đề cử
Bản DVD mở rộng xuất sắc nhất Spider-Man 2 Đề cử
Dựng phim xuất sắc nhất Bob Murawski Đề cử
Nhạc nền xuất sắc nhất Danny Elfman Đề cử
Bản DVD tổng thể xuất sắc nhất Spider-Man 2 Đoạt giải
Âm thanh xuất sắc nhất (dựng & hòa âm) Kevin O'Connell, Greg P. Russell, Jeffrey J. Haboush, Joseph Geisinger, Paul N.J. Ottosson và Susan Dudeck Đề cử
Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất John Dykstra, Scott Stokdyk, Anthony LaMolinara và John Frazier Đề cử
Giải Sao Thổ[83] 3 tháng 5 năm 2005 Phim kỳ ảo hay nhất Spider-Man 2 Đoạt giải
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Tobey Maguire Đoạt giải
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Alfred Molina Đề cử
Đạo diễn xuất sắc nhất Sam Raimi Đoạt giải
Kịch bản xuất sắc nhất Alvin Sargent Đoạt giải
Âm nhạc xuất sắc nhất Danny Elfman Đề cử
Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất John Dykstra, Scott Stokdyk, Anthony LaMolinaravà John Frazier Đoạt giải
Ấn bản phát hành DVD đặc biệt xuất sắc nhất Spider-Man 2 Đề cử
Giải VES[84] 16 tháng 2 năm 2005 Hiệu ứng hình ảnh đơn của năm John Dykstra, Lydia Bottegoni, Dan Abrams và John Monos Đề cử
Sáng tác xuất sắc trong một phim điện ảnh Colin Drobnis, Greg Derochie, Blaine Kennison và Ken Lam Đoạt giải
Outstanding Created Environment in a Live Act on Motion Picture Dan Abrams, David Emery, Andrew Nawrot và John Hart Đoạt giải
Nam diễn viên hoặc nữ diễn viên xuất sắc trong một phim điển ảnh có hiệu ứng hình ảnh Alfred Molina Đoạt giải
Outstanding Special Effects in Service to Visual Effects in a Motion Picture John Frazier, James D. Schwalm, James Nagle và David Amborn Đề cử
Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc trong phim điện ảnh có sử dụng hiệu ứng hình ảnh John Dykstra, Lydia Bottegoni, Anthony LaMolinara và Scott Stokdyk Đề cử
World Stunt Awards[85] 25 tháng 9 năm 2005 Đóng thế tổng thể của một diễn viên xuất sắc nhất Chris Daniels và Michael Hugghins Đoạt giải
Đóng thế đặc biệt xuất nhất Tim Storms, Garrett Warren, Susie Park, Patricia M. Peters, Norb Phillips, Lisa Hoyle, Kevin L. Jackson và Clay Donahue Fontenot Đề cử
Tác phẩm kết hợp với phương tiện xuất sắc nhất Tad Griffith, Richard Burden, Scott Rogers, Darrin Prescott và Mark Norby Đề cử

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn] Ghi chú
  1. ^ [5][6][7][8][9][10]
Chú thích
  1. ^ a b “Spider-Man 2” [Người Nhện 2]. AFI Catalog of Feature Films. American Film Institute. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2020.
  2. ^ a b Spider-Man 2”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
  3. ^ “Spider-Man 2”. Ủy ban phân loại điện ảnh Vương quốc Anh. Truy cập 22 tháng 7 năm 2015. 127m 12s
  4. ^ a b c “Spider-Man 2 (2004)”. Box Office Mojo. Truy cập 5 tháng 2 năm 2009.
  5. ^ “Top 10 Best and Worst Superhero Movies” [Top 10 phim điện ảnh siêu anh hùng hay nhất và dở nhất]. Den of Geek. 26 tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2014.
  6. ^ “The 10 Greatest Superhero Movies of All Time” [10 phim điện ảnh siêu anh hùng xuất sắc nhất mọi thời đại]. The Street. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2014.
  7. ^ “Readers' Poll: The 15 Greatest Superhero Movies” [Bầu chọn của độc giả: 15 phim điện ảnh siêu anh hùng hay nhất]. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
  8. ^ “MRQE's Best of Comics & Superheroes” [Những phim siêu anh hùng và truyện tranh hay nhất của MRQE]. Movie Review Query Engine. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  9. ^ “50 Best Superhero Movies of All Time” [50 phim điện ảnh siêu anh hùng hay nhất mọi thời đại]. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2017.
  10. ^ “Why Sam Raimi's Spider-Man 2 is the definitive superhero movie” [Vì sao Người Nhện 2 của Sam Raimi là cực phẩm điện ảnh siêu anh hùng]. The Independent. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên MaguireCast
  12. ^ Hiatt, Brian (15 tháng 4 năm 2003). “First look: On the set of Spider-Man 2” [Góc nhìn đầu tiên: Trên phim trường Người Nhện 2]. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  13. ^ Downey, Ryan J. (20 tháng 2 năm 2003). “'Spider-Man 2' Villain Doc Ock Cast” [Diễn viên phản diện Doc Ock của 'Người Nhện 2']. MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2020. Truy cập 22 tháng 12 năm 2020.
  14. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên EightArmsToHoldYou
  15. ^ a b Hiatt, Brian (21 tháng 7 năm 2003). “A first look at Doc Ock, Spider-Man 2's villain” [Góc nhìn đầu tiên vào Doc Ock, phản diện của Người Nhện 2]. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  16. ^ a b “Additional casting in The Amazing Spider-Man!!!” [Những diễn viên được tuyển thêm trong Người Nhện siêu đẳng!!!]. Ain't It Cool News. 11 tháng 4 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2020. Truy cập 22 tháng 12 năm 2020.
  17. ^ a b “Ted Raimi talks "Spider-Man 2"” [Ted Raimi nói về Người Nhện 2]. Moviehole. 2 tháng 12 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  18. ^ Behbakht, Andy (20 tháng 2 năm 2020). “Spider-Man: Every Bruce Campbell Cameo in Sam Raimi's Trilogy” [Người Nhện: Mọi vai khách mời của Bruce Campbell trong loạt bộ ba của Sam Raimi]. Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  19. ^ Oswald, Anjelica; Acuna, Kirsten (26 tháng 4 năm 2019). “Stan Lee has made 60 cameos in the Marvel universe — here they all are” [Stan Lee có 60 vai khách mời trong vũ trụ Marvel - tất cả chúng ở đây]. Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  20. ^ Otto, Jeff (25 tháng 6 năm 2004). “Spidey 2 Talk” [Trò chuyện về Spidey 2]. IGN. Bản gốc lưu trữ 18 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2007.
  21. ^ Pulver, Andrew (22 tháng 6 năm 2016). “Elizabeth Banks: I was 'too old' for Spider-Man girlfriend role at 28” [Elizabeth Banks: Tôi 'quá già' để đóng bạn gái của Người Nhện ở tuổi 28]. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  22. ^ Mucci, Gianna (6 tháng 7 năm 2017). “Red Carpet Flashback! 15 Years of Spider-Man Movies” [Ngược dòng thảm đỏ! 15 năm các bộ phim Người Nhện]. Yahoo! Entertainment. tr. 6. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  23. ^ Hughes, William (24 tháng 9 năm 2016). “R.I.P. Do The Right Thing and Spider-Man's Bill Nunn” [Hãy an nghỉ nhé Bill Nunn của Do The Right ThingNgười Nhện]. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  24. ^ a b c d e “Spider-man 2 (2004)” [Người Nhện 2 (2004)]. British Film Institute. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  25. ^ Weiss, Josh (11 tháng 3 năm 2019). “Into the Spider-Verse Features a Sneaky Cliff Robertson Cameo as Sam Raimi's Uncle Ben” [Into the Spider-Verse có một cảnh quay lén vai khách mời của Cliff Robertson trong vai Chú Ben thuộc loạt phim của Sam Raimi]. Syfy Wire. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  26. ^ Hoffman, Julian (13 tháng 11 năm 2020). “All The Evil Dead References Hidden In The Spider-Man Movies” [Tất cả những chi tiết liên hệ Evil Dead ẩn trong các bộ phim Người Nhện]. Ranker. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  27. ^ a b c d e f “60 Actors You Forgot Appeared in Marvel Movies” [60 diễn viên mà bạn đã quên xuất hiện trong các bộ phim của Marvel]. E!. 16 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  28. ^ Ciemcioch, Mark (26 tháng 1 năm 2016). “Người chơi trong 'Chappelle Show' Donnell Rawlings đến với Helium”. The Buffalo News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  29. ^ Jung, Michael (18 tháng 10 năm 2020). “Namor The Sub-Mariner Has A Secret Cameo In Raimi's Spider-Man 2” [Namor Tàu Ngầm có một vai khách mời bí mật trong Người Nhện 2 của Raimi]. Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  30. ^ Parker, Dylan (3 tháng 11 năm 2020). “How Disney Channel Star Peyton List Made $7 Million” [Làm thế nào mà ngôi sao Peyton của Disney Channel kiếm ra 7 triệu đô la Mỹ]. TheThings. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  31. ^ “Spencer List | Booking Agent”. MN2S. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  32. ^ Sharp, Nathan (7 tháng 7 năm 2020). “Joey Diaz: 10 Best Movie & TV Roles, Ranked (According To IMDB)” [Joey Diaz: 10 vai diễn điện ảnh và truyền hình hay nhất, xếp (theo IMDB)]. Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  33. ^ Scott, A. O. (29 tháng 6 năm 2004). “Film Review; Putting Action After Feelings Of a Superhero” [Đánh giá phim; Hành động sau những cảm giác về một siêu anh hùng]. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  34. ^ Green, Willow (15 tháng 11 năm 2004). “John Landis Joins The Real Men” [John Landis tham gia The Real Men]. Empire. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020.
  35. ^ LaMarr, Phil [@phillamarr] (17 tháng 9 năm 2018). “That time I held $20M in my hand #SpiderMan2” (Tweet). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2020 – qua Twitter.
  36. ^ a b c d e Making the Amazing (DVD). Sony. 2004.
  37. ^ a b c d Schmitz, Greg Dean. “Greg's Preview – Spider-Man 2” [Buổi chiếu thử của Greg – Người Nhện 2]. Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2007.
  38. ^ “Spider-Man sequel set for 2004” [Phần hậu truyện của Người Nhện dự kiến chiếu vào năm 2004]. BBC. 8 tháng 5 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2007.
  39. ^ a b Hewitt, Chris (25 tháng 6 năm 2004). “Spidey's Back”. Empire. tr. 79–90.
  40. ^ Thomas, Archie (30 tháng 4 năm 2002). “Spider-Man 2 Budget” [Kinh phí của Người Nhện 2]. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2006.
  41. ^ Vandermeer, Jeff (14 tháng 4 năm 2008). “Read Michael Chabon's Script for Spider-Man 2” [Đọc kịch bản Michael Chabon cho phim Người Nhện 2]. io9. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2008.
  42. ^ Papamichael, Stella (9 tháng 7 năm 2004). “Sam Raimi”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2007.
  43. ^ Woodward, Tom (13 tháng 9 năm 2004). “Spider-Man 2 US – DVD R1”. DVDActive.com. Lưu trữ bản gốc 31 tháng 5 năm 2016. Truy cập 7 tháng 6 năm 2007.
  44. ^ “Spider-Man: The High Definition Trilogy (Spider-Man / Spider-Man 2 / Spider-Man 3)”. Amazon.com. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  45. ^ Woodward, Tom (2 tháng 7 năm 2007). “Spider-Man 1 and 2 Get Separate Blu-ray Releases (Update)”. DVDActive. Truy cập 6 tháng 10 năm 2018.
  46. ^ “SPIDER-MAN ORIGINS COLLECTION - SPIDER-MAN ORIGINS COLLECTION (2 Blu-ray)” (bằng tiếng Đức). Amazon.com. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  47. ^ 1 tháng 7 năm 2004#film2 “Arachnophilia at Box Office as Spidey Sets Record” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Internet Movie Database. 1 tháng 7 năm 2004. Truy cập 7 tháng 6 năm 2017.[liên kết hỏng]
  48. ^ 'Sith' Destroys Single Day Record”. Truy cập 5 tháng 10 năm 2014.
  49. ^ 'Spider-Man 2' Amazes on Opening Day”. Truy cập 5 tháng 10 năm 2014.
  50. ^ 'Harry Potter' Flies with the 'Phoenix'”. Box Office Mojo. Truy cập 5 tháng 10 năm 2014.
  51. ^ “Weekend Report: 'Transformers' Claims Independence Gross Record”. Box Office Mojo. Truy cập 5 tháng 10 năm 2014.
  52. ^ 7 tháng 7 năm 2004#film2 “Spidey, The Champ” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Internet Movie Database. 7 tháng 7 năm 2004. Truy cập 7 tháng 6 năm 2017.[liên kết hỏng]
  53. ^ “Spider-Man 2”. Box Office Mojo. Truy cập 30 tháng 5 năm 2016.
  54. ^ Spider-Man 2 Movie Reviews”. Rotten Tomatoes (Flixster). Truy cập 30 tháng 8 năm 2018.
  55. ^ Spider-Man 2: Reviews”. Metacritic.com Networks. Truy cập 1 tháng 8 năm 2018.
  56. ^ “CinemaScore”. cinemascore.com.
  57. ^ “Empire's 500 Greatest Movies of All Time”. Empire. Truy cập 15 tháng 10 năm 2018.
  58. ^ Caro, Mark (28 tháng 6 năm 2004). “Bản sao đã lưu trữ”. Chicago Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2006. Truy cập 29 tháng 5 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề= và |title= (trợ giúp)
  59. ^ Turan, Kenneth (29 tháng 6 năm 2004). “Turan reviews Spider-Man 2”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập 29 tháng 5 năm 2017.
  60. ^ Ebert, Roger (30 tháng 6 năm 2004). “Bản sao đã lưu trữ”. Chicago Sun-Times. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2007. Truy cập 29 tháng 5 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề= và |title= (trợ giúp)
  61. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Chicago Sun-Times. 15 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2011. Truy cập 12 tháng 7 năm 2018. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề= và |title= (trợ giúp)
  62. ^ “The 77th Academy Awards (2005) Nominees and Winners”. oscars.org. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 6 năm 2014. Truy cập 20 tháng 11 năm 2014.
  63. ^ “2005 Saturn Awards”. LOCUS Index. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2010. Truy cập 3 tháng 6 năm 2017.
  64. ^ “BAFTA awards from 2000–nay” (PDF). BAFTA. Truy cập 3 tháng 9 năm 2017.
  65. ^ “AFI MOVIES OF THE YEAR-OFFICIAL SELECTIONS”. American Film Institute. Truy cập 3 tháng 6 năm 2007.
  66. ^ AFI's 10 Top 10 Ballot Lưu trữ 2011-08-07 tại Wayback Machine
  67. ^ AFI's 100 Years...100 Cheers Ballot Lưu trữ 2010-07-14 tại Wayback Machine
  68. ^ AFI's 100 Years...100 Movies – 10th Anniversary Edition Ballot Lưu trữ 2009-09-19 tại Wayback Machine
  69. ^ Ebert, Roger (25 tháng 1 năm 2011). “Bản sao đã lưu trữ”. Chicago Sun-Times. John Barron. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập 23 tháng 6 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề= và |title= (trợ giúp)
  70. ^ “AFI Movies Of The Year-Official Selection”. Viện phim Mỹ. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  71. ^ “2005 BMI Film/TV Awards”. Broadcast Music Incorporated. ngày 18 tháng 5 năm 2005. Truy cập 23 tháng 6 năm 2017.
  72. ^ Singh, Anita (ngày 17 tháng 1 năm 2005). “Double Bafta nomination for Winslet”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.[liên kết hỏng]
  73. ^ “The 10th Critics' Choice Movie Awards Winners And Nominees”. Broadcast Film Critics Association Awards. Bản gốc lưu trữ 19 tháng 7 năm 2012. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  74. ^ “The 41st C.A.S. Award Winners and Nominees for 2004”. Cinema Audio Society. Bản gốc lưu trữ 23 tháng 7 năm 2008. Truy cập 23 tháng 6 năm 2017.
  75. ^ “Previous Winners”. Empire. Bauer Consumer Media. Truy cập 23 tháng 6 năm 2017.
  76. ^ “Empire Awards - the nominees”. Daily Mail. London: Associated Newspapers Ltd. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  77. ^ “5th Annual Golden Trailer Award Winner and Nominees”. Golden Trailer Awards. Bản gốc lưu trữ 13 tháng 4 năm 2014. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  78. ^ “2005 Hugo Awards”. Hugo Awards. Bản gốc lưu trữ 7 tháng 5 năm 2011. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  79. ^ Soares, Andre (9 tháng 2 năm 2005). “London Film Critics Awards 2005”. Alt Film Guide. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  80. ^ Cosgrove, Ben (4 tháng 5 năm 2005). “Vicious Teens And Happy Drunk Lead 2005 MTV Movie Awards Nominees”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  81. ^ “2005”. People Choice Awards. Truy cập 23 tháng 6 năm 2011.
  82. ^ “2005-A* 9th Annual Satellite™ Awards - January 2005”. Satellite Awards. Bản gốc lưu trữ 18 tháng 7 năm 2011. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  83. ^ “The 31st Annual Saturn Awards Nominations”. Saturn Awards. Bản gốc lưu trữ 9 tháng 10 năm 2003. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  84. ^ “3rd Annuel VES Awards”. Visual Effects Society Awards. Bản gốc lưu trữ 8 tháng 2 năm 2012. Truy cập 23 tháng 6 năm 2014.
  85. ^ “2005 Taurus World Stunt Awards Nominees” (PDF). World Stunt Awards. Bản gốc (PDF) lưu trữ 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập 28 tháng 8 năm 2017.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: Người Nhện 2
  • Spider-man 2 Sony Pictures
  • Người Nhện 2 trên Internet Movie Database
  • Người Nhện 2 tại AllMovie
  • Người Nhện 2 tại Metacritic
  • Người Nhện 2 tại Box Office Mojo
  • Người Nhện 2 tại Rotten Tomatoes

Bản mẫu:Sam Raimi Bản mẫu:Spider-Man trong phương tiện đại chúng

  • x
  • t
  • s
Người Nhện trong điện ảnh
Phim điện ảnh
The Amazing Spider-Man
  • Spider-Man (1977)
  • Spider-Man Strikes Back (1978)
  • Spider-Man: The Dragon's Challenge (1981)
Người Nhện (Nhật Bản)
  • Spider-Man (1978)
Người Nhện
  • Người Nhện (2002)
  • Người Nhện 2 (2004)
  • Người Nhện 3 (2007)
Người Nhện siêu đẳng
  • Người Nhện: Siêu nhện tái xuất (2012)
  • Người Nhện siêu đẳng 2: Sự trỗi dậy của Người Điện (2014)
Vũ trụ Điện ảnh Marvel
  • Người Nhện: Trở về nhà (2017)
  • Người Nhện xa nhà (2019)
  • Người Nhện: Không còn nhà (2021)
Spider-Verse
  • Người Nhện: Vũ trụ mới (2018)
    • giải thưởng
  • Spider-Ham: Caught in a Ham (2019)
Vũ trụ Người Nhện của Sony
  • (chưa có phim về Người Nhện)
Nhạc phim
  • Music from and Inspired by Spider-Man
  • Spider-Man
  • Spider-Man 2
  • Spider-Man 3
  • The Amazing Spider-Man
  • The Amazing Spider-Man 2
  • Captain America: Civil War
  • Spider-Man: Homecoming
  • Spider-Man: Into the Spider-Verse
  • Spider-Man: Far From Home
Bài hát
  • "Hero"
  • "What We're All About"
  • Bài hát chủ đề của Người Nhện
  • "Vindicated"
  • "We Are"
  • "Meant to Live"
  • "Web of Night"
  • "Najane Kyun"
  • "Signal Fire"
  • "It's On Again"
  • "The Edge"
  • "Venom"
  • "Sunflower"
Trò chơi điện tử
  • Spider-Man
  • Spider-Man 2
  • Spider-Man 3
  • Spider-Man: Friend or Foe
  • The Amazing Spider-Man (pinball)
  • Spider-Man (pinball)
  • The Amazing Spider-Man
  • The Amazing Spider-Man 2
Liên quan
  • Diễn viên
  • x
  • t
  • s
Phim dựa trên Marvel Comics
Thương hiệu
Người Kiến
  • Người kiến (2015)
  • Người kiến và chiến binh ong (2018)
  • Ant-Man and the Wasp: Quantumania (2023)
Avengers
  • Biệt đội siêu anh hùng (2012)
  • Avengers: Đế chế Ultron (2015)
  • Avengers: Cuộc chiến vô cực (2018)
  • Avengers: Hồi kết (2019)
Black Panther
  • Black Panther: Chiến binh Báo Đen (2018)
  • Black Panther: Wakanda Forever (2022)
Blade
  • Blade
  • Blade II
  • Blade: Trinity
Captain America
  • Captain America (loạt phim)
  • Captain America (1990)
  • Kẻ báo thù đầu tiên (2011)
  • Chiến binh mùa đông (2014)
  • Nội chiến siêu anh hùng (2016)
Captain Marvel
  • Đại úy Marvel (2019)
  • Biệt Đội Marvel (2022)
Deadpool
  • Deadpool (2016)
  • Deadpool 2 (2018)
Doctor Strange
  • Doctor Strange: Phù thủy tối thượng (2016)
  • Phù thủy tối thượng trong Đa Vũ trụ hỗn loạn (2022)
Bộ tứ siêu đẳng
  • The Fantastic Four (1994)
  • Fantastic Four (2005)
  • Sứ giả bạc (2007)
  • Bộ tứ siêu đẳng (2015)
  • Fantastic Four (2023)
Ma tốc độ
  • Ma tốc độ (2007)
  • Linh hồn báo thù (2012)
Vệ binh dải Ngân Hà
  • Vệ binh dải Ngân Hà (2014)
  • Vệ binh dải Ngân Hà 2 (2017)
  • Guardian of the Galaxy Vol. 3 (2023)
Hulk
  • Hulk
  • Người khổng lồ xanh phi thường (2008)
Người Sắt
  • Người Sắt (2008)
  • Người Sắt 2 (2010)
  • Người Sắt 3 (2013)
Punisher
  • The Punisher (1989)
  • The Punisher (2004)
  • Punisher: War Zone (2008)
Người nhện
  • Spider-Man (1977)
  • Spider-Man (1978)
  • Người Nhện (2002)
  • Người Nhện 2 (2004)
  • Người Nhện 3 (2007)
  • Người Nhện: Siêu nhện tái xuất (2012)
  • Người Nhện siêu đẳng 2: Sự trỗi dậy của Người Điện (2014)
  • Người Nhện: Trở về nhà (2017)
  • Người Nhện xa nhà (2019)
  • Người Nhện: Không còn nhà (2021)
Thor
  • Thor (2011)
  • Thor 2: Thế giới Bóng tối (2013)
  • Thor: Tận thế Ragnarok (2017)
  • Thor: Love and Thunder (2022)
Venom
  • Venom (2018)
  • Venom: Đối mặt tử thù (2021)
Wolverine
  • Người sói (2009)
  • Người sói Wolverine (2013)
  • Logan: Người sói (2017)
X-Men
  • X-Men (2000)
  • X2 (2003)
  • The Last Stand (2006)
  • Thế hệ thứ nhất (2011)
  • Ngày cũ của tương lai (2014)
  • Cuộc chiến chống Apocalypse (2016)
  • Phượng hoàng bóng tối (2018)
Phim lẻ
  • Howard the Duck (1986)
  • Daredevil (2003)
  • Elektra (2005)
  • Man-Thing (2005)
  • Dị nhân thế hệ mới (2020)
  • Góa phụ đen (2021)
  • Shang-Chi và huyền thoại Thập Nhẫn (2021)
  • Chủng tộc bất tử (2021)
  • Morbius (2022)
  • Kraven: Thợ săn thủ lĩnh (2023)
Thương hiệutừ MarvelComics imprints
Kick-Ass
  • Kick-Ass (2010)
  • Kick-Ass 2
Kingsman
  • Mật vụ Kingsman (2015)
  • Kingsman: Tổ chức Hoàng Kim (2017)
  • Kingsman: Khởi nguồn (2021)
Men in Black
  • Đặc vụ áo đen (1997)
  • Men in Black II
  • Điệp viên áo đen 3 (2012)
  • Đặc vụ áo đen: Sứ mệnh toàn cầu (2019)
Xem thêm
  • Marvel Studios
  • Vũ trụ Điện ảnh Marvel
    • phim
  • Marvel One-Shots
    • Item 47
    • Agent Carter
    • All Hail the King
  • No Good Deed
  • x
  • t
  • s
Giải Sao Thổ cho phim kỳ ảo hay nhất
1973–1980
  • Chuyến du hành quý báu của Sinbad (1973)
  • Người thiếc Doc Savage (1974/75)
  • Cái hố (1976)
  • Ôi, trời ạ! (1977)
  • Thiên đường có thể chờ (1978)
  • Đại hội nhạc rối (1979)
  • Ngược dòng thời gian (1980)
1981–2000
  • Chiếc rương thánh tích (1981)
  • Màn đêm xuyên thấu (1982)
  • Something Wicked This Way Comes (1983)
  • Biệt đội săn ma (1984)
  • Ladyhawke (1985)
  • Cậu bé biết bay (1986)
  • Cô dâu công chúa (1987)
  • Roger siêu quậy (1988)
  • Bóng ma (1989/90)
  • Người tay kéo (1991)
  • Aladdin và cây đèn thần (1992)
  • Đêm kinh hoàng trước Giáng sinh (1993)
  • Cuộc đời của Forrest Gump (1994)
  • Chú heo chăn cừu (1995)
  • Trái tim của rồng (1996)
  • Điệp vụ hào hoa (1997)
  • Buổi trình diễn của Truman (1998)
  • Thử làm John Malkovich (1999)
  • Tần số (2000)
2001–nay
  • Chúa tể những chiếc nhẫn: Hiệp hội nhẫn thần (2001)
  • Chúa tể của những chiếc nhẫn: Hai tòa tháp (2002)
  • Chúa tể của những chiếc nhẫn: Sự trở về của nhà vua (2003)
  • Người Nhện 2 (2004)
  • Huyền thoại Người Dơi (2005)
  • Siêu nhân trở lại (2006)
  • Chuyện thần tiên ở New York (2007)
  • Dị nhân Benjamin (2008)
  • Người hùng báo thù (2009)
  • Alice ở xứ sở thần tiên (2010)
  • Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 2 (2011)
  • Cuộc đời của Pi (2012)
  • Her (2013)
  • Người Hobbit: Đại chiến Năm cánh quân (2014)
  • Lọ Lem (2015)
  • Cậu bé rừng xanh (2016)
  • Người đẹp và thủy quái (2017)
  • Câu chuyện đồ chơi 4 (2018/2019)
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • GND: 4788030-2
  • LCCN: n2004029439
  • MBW work: 07b5ef75-03a1-4adf-a68c-f478959a4a4e
  • VIAF: 183215167
  • WorldCat Identities (via VIAF): 183215167

Từ khóa » Diễn Viên đóng Thế Spider Man 2