Nguồn Gốc Của Gia đình
Có thể bạn quan tâm
- Trong Gia đình Nọ Người Chồng Cho Rằng Mình
- Trong Giai đoạn 1990 đến Nay Cơ Cấu Ngành Kinh Tế Nước Ta đang Chuyển Dịch Theo Hướng
- Trong Giai đoạn Chủ Nghĩa Tư Bản độc Quyền Quy Luật Giá Trị Thặng Dư Biểu Hiện Thành Quy Luật Nào
- Trong Giai đoạn Chủ Nghĩa Tư Bản độc Quyền Tồn Tại Sự Cạnh Tranh Giữa
- Trong Giai đoạn đầu Phong Trào Cần Vương Diễn Ra
F. Engels Nguồn gốc của gia đình
II GIA ĐÌNH
Morgan từng sống với người Iroquois - ở bang New York - trong phần lớn đời m�nh, v� được một bộ lạc của họ (bộ lạc Seneca) nhận l�m con nu�i; �ng đ� ph�t hiện ra rằng người Iroquois c� một hệ thống th�n tộc m�u thuẫn với c�c quan hệ gia đ�nh thực tế của họ. Một chế độ h�n nh�n c� thể trong đ� hai b�n c� thể dễ d�ng li dị nhau, m� Morgan gọi l� �gia đ�nh đối ngẫu� (pairing family), đang tồn tại ở đ�. Vậy th� con ch�u của một cặp vợ chồng đương nhi�n l� được mọi người biết r� v� thừa nhận; v� kh�ng việc g� phải nghi ngờ về việc gọi ai l� cha, mẹ, con, anh, chị, em. Nhưng tr�n thực tế th� lại kh�c. Người đ�n �ng Iroquois gọi con m�nh, v� con của anh em ruột, l� �con�; v� ch�ng gọi anh ta l� �cha�. C�n con của chị em ruột th� anh ta gọi l� �ch�u�, v� ch�ng gọi anh ta l� �cậu�. Mặt kh�c, người đ�n b� Iroquois gọi con m�nh, v� con của chị em ruột, l� �con�; v� ch�ng gọi chị ta l� �mẹ�. Chị ta gọi con của anh em ruột l� �ch�u�, v� ch�ng gọi chị ta l� �c��. Tương tự, con của c�c anh em ruột (hay c�c chị em ruột) cũng gọi nhau l� �anh em ruột�, �chị em ruột�; v� gọi con của c� m�nh (hay cậu m�nh) l� �anh em họ�, �chị em họ�. Đ� kh�ng phải những t�n gọi su�ng, m� l� biểu hiện của những quan hệ th�n tộc gần hoặc xa, giống nhau hoặc kh�c nhau; ch�ng được d�ng l�m cơ sở cho một hệ thống th�n tộc ho�n to�n x�c định, c� thể biểu hiện h�ng trăm quan hệ th�n tộc kh�c nhau của một c� nh�n. Hệ thống đ� kh�ng chỉ c� ở tất cả những người Indian tại Mĩ (chưa ngoại lệ n�o được ghi nhận), m� cả ở d�n bản xứ Ấn Độ - c�c bộ lạc Dravida ở Deccan, v� c�c bộ lạc Gaura ở Hindustan (lưu vực s�ng Hằng) - dưới một h�nh thức gần như thế. Người Tamil ở miền Nam Ấn Độ, người Iroquois trong bộ lạc Seneca ở bang New York tới nay vẫn c� hơn hai trăm mức th�n tộc kh�c nhau. V� ở c�c d�n đ�, hệ thống th�n tộc cũng m�u thuẫn với c�c quan hệ th�n tộc sinh ra từ h�nh thức gia đ�nh hiện c�. Phải giải th�ch việc n�y thế n�o? V� vai tr� quyết định của hệ thống th�n tộc trong kết cấu x� hội của tất cả c�c d�n m�ng muội v� d� man, n�n kh�ng thể d�ng mấy c�u n�i để x�a bỏ � nghĩa của một hệ thống rất phổ biến như vậy. Một hệ thống thịnh h�nh tr�n to�n ch�u Mĩ, c� cả ở ch�u �, cả ở ch�u Phi v� ch�u Đại Dương với �t nhiều thay đổi; hệ thống đ� phải được giải th�ch về lịch sử, chứ kh�ng thể coi l� kh�ng c�, giống như McLennan. C�c tiếng �cha�, �con�, �anh em�, �chị em� kh�ng chỉ l� lối xưng h� k�nh trọng, m� c�n bao h�m c�c nghĩa vụ rất r� r�ng v� nghi�m chỉnh của họ với nhau; c�c nghĩa vụ ấy hợp th�nh một phần thiết yếu trong kết cấu x� hội của c�c d�n n�i tr�n. Lời giải th�ch đ� được t�m ra. V�o nửa đầu thế kỉ 19, tr�n quần đảo Hawaii vẫn c� một h�nh thức gia đ�nh với những kiểu �cha mẹ, anh chị em, con ch�u, c� cậu� đ�ng theo hệ thống th�n tộc ở Ấn Độ cổ v� ở Mĩ. Nhưng thật k� lạ: hệ thống th�n tộc c� ở Hawaii khi đ� cũng kh�ng ph� hợp với h�nh thức gia đ�nh bấy giờ. Theo hệ thống đ�, tất cả con c�i của anh chị em ruột, kh�ng trừ một ai, đều l� anh chị em ruột của nhau; ch�ng được coi như con chung của tất cả những anh chị em ruột của cha mẹ ch�ng, kh�ng ph�n biệt g� cả. Vậy, trong khi hệ thống th�n tộc ở Mĩ giả định sự tồn tại của một h�nh thức gia đ�nh cổ xưa, kh�ng tồn tại ở Mĩ nữa, nhưng vẫn c�n ở Hawaii; th� mặt kh�c, hệ thống th�n tộc ở Hawaii lại chỉ ra một h�nh thức gia đ�nh c�n cổ xưa hơn, nhất định đ� từng c�, d� hiện nay ta kh�ng thể t�m ra n� ở đ�u cả; từ h�nh thức gia đ�nh rất cổ xưa đ�, hệ thống th�n tộc c� ở Hawaii mới c� thể ph�t sinh.“Gia đình là một yếu tố năng động. Nó không đứng yên, mà tiến từ hình thức thấp lên hình thức cao hơn, khi xã hội tiến từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn... Ngược lại, các hệ thống thân tộc thì thụ động, chỉ phản ánh bước tiến của gia đình sau một thời gian dài, và chỉ bắt đầu thay đổi khi gia đình đã hoàn toàn thay đổi”1a
Marx n�i th�m: �N�i chung, những hệ thống ch�nh trị, luật ph�p, t�n gi�o v� triết học cũng thế�. Khi gia đ�nh tiếp tục thay đổi, th� hệ thống th�n tộc trở n�n cố định; v� khi hệ thống th�n tộc tiếp tục tồn tại do tập qu�n, th� gia đ�nh vượt qua hệ thống đ�. Nhưng Cuvier, từ một bộ xương th� được khai quật gần Paris, đ� suy ra rằng xương đ� l� của một lo�i th� c� t�i, từng sống ở đ� v� đ� tuyệt chủng; v� ch�ng ta, từ một hệ thống th�n tộc do lịch sử để lại, cũng c� thể suy ra một h�nh thức gia đ�nh ph� hợp với hệ thống đ�, nhưng nay kh�ng c�n nữa. Những hệ thống th�n tộc v� h�nh thức gia đ�nh, m� ta n�i tới ở tr�n, kh�c với những h�nh thức v� hệ thống hiện h�nh ở chỗ l� mỗi đứa con đều c� nhiều cha nhiều mẹ. Theo hệ thống th�n tộc ở Mĩ, do h�nh thức gia đ�nh ở Hawaii sinh ra, th� anh em trai v� chị em g�i kh�ng thể l� cha v� mẹ của c�ng một đứa con; nhưng ngược lại, hệ thống th�n tộc ở Hawaii lại giả định rằng c� một h�nh thức gia đ�nh, trong đ� hiện tượng tr�n l� thường thấy. Ở đ�y, ta thấy một loạt h�nh thức gia đ�nh m�u thuẫn trực tiếp với những h�nh thức m� tới nay vẫn được coi l� duy nhất c�. Quan niệm truyền thống chỉ thừa nhận chế độ h�n nh�n c� thể, th�m v�o đ� l� chế độ nhiều vợ, v� c�ng lắm l� chế độ nhiều chồng; cũng như bọn philistine hay dạy đời, n� giấu đi sự thật l� thực tiễn lu�n lặng lẽ vượt qua những r�o cản, m� x� hội ch�nh thống dựng l�n. Tuy nhi�n, việc nghi�n cứu lịch sử nguy�n thủy đ� ph�t hiện ra một trạng th�i, trong đ� đ�n �ng sống theo chế độ nhiều vợ, đ�n b� lại sống theo chế độ nhiều chồng; v� con c�i đều l� của chung - trạng th�i đ� đ� trải qua nhiều biến đổi, trước khi chuyển hẳn th�nh chế độ h�n nh�n c� thể. Xu hướng của c�c biến đổi đ� l� ng�y c�ng giảm số người c� quan hệ h�n nh�n c�ng nhau; ban đầu vốn rất nhiều, cuối c�ng chỉ c�n lại một cặp vợ chồng, như hiện nay thường gặp. Trong khi dựng lại lịch sử đ� qua của gia đ�nh như vậy, Morgan nhất tr� với hầu hết c�c đồng nghiệp của m�nh; rằng đ� c� một trạng th�i nguy�n thủy ở c�c bộ lạc, trong đ� việc tự do quan hệ t�nh giao đ� thịnh h�nh, mọi người đ�n b� đều thuộc về mọi người đ�n �ng v� ngược lại. Từ thế kỉ 18, một trạng th�i như thế đ� được n�i tới, nhưng rất chung chung. Bachofen l� người đầu ti�n đ� nghi�m t�c đặt ra vấn đề n�y, v� đ� t�m kiếm dấu vết của n� trong c�c t�n t�ch lịch sử v� t�n gi�o - đ� ch�nh l� một c�ng lao lớn của �ng. Ng�y nay, ta biết l� những dấu vết m� �ng t�m ra kh�ng dẫn tới một giai đoạn x� hội trong đ� c� quan hệ t�nh giao bừa b�i, m� dẫn tới một h�nh thức c� sau đ� rất l�u, ấy l� chế độ quần h�n. Giai đoạn quan hệ t�nh giao bừa b�i kia, nếu c� tồn tại thật, th� cũng thuộc về một thời đại rất xa; đến nỗi ta kh� m� hi vọng c� thể trực tiếp chứng minh sự tồn tại đ�, nếu dựa v�o việc t�m kiếm c�c tục lệ x� hội, ở những người m�ng muội. C�ng lao của Bachofen l� ở chỗ đ� đặt việc nghi�n cứu vấn đề đ� l�n h�ng đầu1*. [Gần đ�y, việc phủ nhận giai đoạn đầu đ� trong quan hệ t�nh giao của con người đ� trở th�nh c�i mốt. Người ta muốn tr�nh cho nh�n loại �điều nhục nh� ấy; bằng c�ch viện cớ rằng kh�ng c� bằng chứng trực tiếp n�o về thời k� đ�, đặc biệt l� c�n lấy v� dụ từ cả động vật. Về động vật, theo những sự kiện m� Letourneau (�Sự tiến h�a của h�n nh�n v� gia đ�nh�2, 1888) đ� thu thập được, th� quan hệ t�nh giao ho�n to�n bừa b�i l� thuộc về một giai đoạn ph�t triển thấp. Nhưng từ c�c sự kiện đ�, t�i chỉ r�t ra được một kết luận: đối với lo�i người v� c�c điều kiện sinh sống nguy�n thủy của lo�i ấy, th� ch�ng chẳng chứng minh được g� cả. Việc c�c lo�i động vật c� xương sống sống th�nh đ�i trong thời gian d�i được giải th�ch đầy đủ nhờ c�c nguy�n nh�n sinh l� - với lo�i chim l� v� con m�i cần được bảo vệ trong thời gian ấp trứng; những v� dụ về t�nh trạng một vợ một chồng bền vững ở lo�i chim kh�ng n�i l�n điều g� về lo�i người cả, đơn giản v� người kh�ng phải từ chim m� ra. V� nếu t�nh trạng một vợ một chồng triệt để l� đỉnh cao của đức hạnh, th� chức qu�n qu�n phải l� của lo�i s�n: trong số 50-200 đốt của n�, mỗi đốt đều c� đủ cơ quan sinh dục đực v� c�i; trong suốt thời gian sống của m�nh, n� cứ tự giao cấu trong mỗi đốt như vậy. Nhưng khi giới hạn trong c�c lo�i th�, ta sẽ thấy mọi h�nh thức sinh hoạt t�nh giao: quan hệ t�nh giao bừa b�i, quần h�n (hay gần như vậy), nhiều vợ, c� thể. Chỉ thiếu c� h�nh thức nhiều chồng th�i, v� chỉ lo�i người c� h�nh thức đ�. Kể cả những lo�i gần ch�ng ta nhất, nh�m Bốn tay3, cũng c� đủ c�c kiểu kết hợp giữa hai giới. Nếu thu hẹp hơn nữa, chỉ xem x�t bốn lo�i vượn người, th� Letourneau chỉ n�i được rằng ch�ng c� l�c sống một vợ một chồng, khi lại theo kiểu nhiều vợ; c�n Saussure (tr�ch dẫn Giraud-Teulon) th� vẫn cho rằng ch�ng sống theo kiểu một vợ một chồng. Những khẳng định mới đ�y về kiểu h�n nh�n c� thể ở vượn người của Westermarck (�Lịch sử h�n nh�n của lo�i người�4a, London, 1891) cũng c�n l�u mới chứng tỏ được g� đ�. T�m lại, v� c�c bằng cớ chỉ c� thế, Letourneau đ� trung thực thừa nhận:“Ở các loài thú, không có quan hệ chặt chẽ nào giữa sự phát triển trí tuệ với hình thức quan hệ tính giao”
C�n Espinas (�Về c�c x� hội động vật�5, 1877) th� n�i toạc ra:“Bầy là tập đoàn xã hội cao nhất mà ta có thể thấy ở các động vật. Nó hình như là gồm nhiều gia đình; nhưng ngay từ đầu, gia đình và bầy đã đối kháng với nhau, và phát triển tỉ lệ nghịch với nhau”
Những điều tr�n cho thấy, ch�ng ta gần như kh�ng biết g� về gia đ�nh v� c�c tập đo�n x� hội kh�c ở vượn người, c�c bằng chứng th� ho�n to�n tr�i ngược nhau. Điều đ� kh�ng c� g� lạ. Ngay cả t�i liệu về c�c bộ lạc m�ng muội đ� rất m�u thuẫn, cần kiểm tra v� chọn lọc một c�ch rất c� ph� ph�n. M� c�c x� hội của lo�i vượn người c�n kh� quan s�t hơn nhiều so với x� hội lo�i người. V� thế, giờ đ�y ta phải b�c bỏ bất k� kết luận n�o được r�t ra từ c�c t�i liệu ho�n to�n kh�ng đ�ng tin ấy. Tuy nhi�n, � kiến tr�n kia của Espinas đ� đưa lại một xuất ph�t điểm tốt hơn. Trong c�c động vật cao cấp, bầy v� gia đ�nh kh�ng bổ sung cho nhau, m� đối lập với nhau. �ng chỉ ra rất r�: v�o m�a giao phối, m�u ghen của c�c con đực đ� khiến sự gắn b� của bầy bị lung lay, thậm ch� tạm thời bị ph� vỡ.“Khi quan hệ gia đình là gần gũi và gần như duy nhất, thì bầy chỉ hình thành trong các trường hợp ngoại lệ. Mặt khác, khi mà quan hệ tính giao tự do hay kiểu sống nhiều vợ đang thịnh hành, thì bầy được hình thành gần như là tự nhiên... Để bầy có thể hình thành, thì quan hệ gia đình phải yếu đi, và các cá thể phải lại được tự do. Thế nên, ở các loài chim, các bầy có tổ chức rất hiếm gặp... Nhưng ở các loài thú, ta lại thấy các xã hội ít nhiều có tổ chức; chính vì ở chúng, cá thể không bị gia đình nuốt mất... Khi bầy mới hình thành, thì kẻ thù lớn nhất của ý thức tập thể của bầy chính là ý thức tập thể của gia đình. Chúng ta không ngần ngại nói rằng: một hình thức xã hội cao hơn gia đình chỉ phát triển được khi hòa vào bản thân mình các gia đình đã biến đổi về cơ bản; cùng lúc đó, các gia đình ấy sau này cũng có thể tự thành lập lại - cũng theo cách trên - dưới những hình thức vô cùng thuận lợi hơn” (Espinas, “Về các xã hội động vật”; Giraud-Teulon trích dẫn trong “Nguồn gốc của hôn nhân và gia đình”, 1884, tr. 518-520).
Từ đ�, ta thấy rằng những x� hội động vật cũng c� gi� trị n�o đ� khi suy luận về c�c x� hội lo�i người, nhưng gi� trị đ� chỉ l� ti�u cực. Như ta đ� biết, những động vật c� xương sống cao cấp nhất cũng chỉ biết c� hai kiểu sống: nhiều vợ v� từng đ�i; trong đ� chỉ có một con đực trưởng th�nh, một ��ng chồng�. M�u ghen của con đực - vừa củng cố vừa c� lập gia đ�nh - khiến gia đ�nh động vật đối lập với bầy. N� cũng l�m cho bầy - h�nh thức x� hội cao hơn - l�c th� kh�ng thể h�nh th�nh, l�c th� bị lung lay, thậm ch� tan r� trong m�a giao phối; hay �t nhất cũng k�m h�m sự ph�t triển của bầy. Chỉ điều đ� cũng đủ chứng tỏ rằng gia đ�nh động vật v� x� hội lo�i người nguy�n thủy kh�ng thể ph� hợp với nhau; v� rằng khi ph�t triển l�n từ động vật, th� người nguy�n thủy hoặc l� chưa biết g� về gia đ�nh, hoặc l� chỉ biết tới một h�nh thức gia đ�nh chưa từng c� ở động vật. Một lo�i kh�ng c� khả năng tự vệ, như con người đang trong qu� tr�nh h�nh th�nh, vẫn c� thể sống s�t, với số lượng nhỏ, trong điều kiện sống c� lập, với h�nh thức sống từng đ�i l� cao nhất; như gorilla v� tinh tinh, m� Westermarck đ� kể lại, dựa theo c�u chuyện của c�c thợ săn. Nhưng cần c� c�i g� đ� hơn thế, để vượt qua được trạng th�i th� vật, để đạt được c�i bước tiến vĩ đại nhất của giới tự nhi�n; sự thiếu khả năng tự vệ của c� thể cần được b� lại bằng sức mạnh của sự li�n kết v� hợp t�c trong cả bầy. Sẽ kh�ng thể giải th�ch được bước chuyển th�nh người n�i tr�n, nếu đi từ những điều kiện sống hiện tại của vượn người ng�y nay; h�nh như ch�ng đ� đi lệch con đường tiến h�a, v� đang chết dần, hay �t nhất l� đang tho�i h�a, th� đ�ng hơn. Chỉ điều đ� cũng đủ b�c bỏ mọi cố gắng so s�nh c�c h�nh thức gia đ�nh của lo�i vật với c�c h�nh thức gia đ�nh của người nguy�n thủy. Sự khoan dung, tức l� kh�ng ghen tu�ng, giữa c�c con đực trưởng th�nh với nhau ch�nh l� điều kiện ti�n quyết để c�c tập đo�n lớn hơn, bền vững hơn c� thể h�nh th�nh; m� bước tiến h�a từ động vật l�n người chỉ c� thể diễn ra trong c�c tập đo�n đ�. Thật vậy, h�nh thức gia đ�nh nguy�n thủy nhất, m� ta c� thể chứng minh chắc chắn l� n� từng tồn tại trong lịch sử; v� thậm ch�, hiện nay, ta vẫn c� thể nghi�n cứu n� ở đ�u đ�; h�nh thức ấy l� g�? Đ� l� h�nh thức quần h�n, một h�nh thức gia đ�nh trong đ� cả một nh�m đ�n �ng v� cả một nh�m đ�n b� đều l� của nhau, sự ghen tu�ng gần như kh�ng c�. Ở giai đoạn ph�t triển sau, ta c�n thấy một h�nh thức đặc biệt: nhiều chồng, n� đối lập gay gắt với mọi bản năng ghen tu�ng, do đ� ta chưa từng biết lo�i động vật n�o c� h�nh thức ấy. Nhưng mọi h�nh thức quần h�n m� ta biết, đều k�m theo những qui tắc phức tạp kh�c thường; tới mức ch�ng nhất thiết phải dẫn tới một h�nh thức quan hệ t�nh giao sớm hơn, đơn giản hơn; v� sau c�ng l� dẫn tới một thời k� quan hệ t�nh giao bừa b�i, trong giai đoạn chuyển từ động vật th�nh người. Việc dẫn ra c�c kiểu h�n nh�n ở động vật chỉ đưa ta quay về ch�nh c�i điểm m� ta đ� vĩnh viễn vượt qua. Vậy quan hệ t�nh giao bừa b�i nghĩa l� g�? Nghĩa l� mọi cấm đo�n v� hạn chế, đang tồn tại hay từng tồn tại, th� l�c đ� đều kh�ng c�. Ta đ� thấy những r�o cản, do t�nh ghen tu�ng g�y ra, bị đ�nh đổ. Một điều chắc chắn l� t�nh cảm ghen tu�ng kh� l�u sau n�y mới ph�t triển. Quan niệm về loạn lu�n th� cũng thế. L�c ban đầu, kh�ng chỉ anh chị em mới l� vợ chồng; m� cả ng�y nay, quan hệ t�nh giao giữa cha mẹ v� con c�i vẫn được thừa nhận ở nhiều d�n. Bancroft (�Những thổ d�n ở c�c bang ven Th�i B�nh Dương ở Bắc Mĩ�6a, 1875, t. I) chứng thực sự tồn tại của t�nh trạng đ� ở người Kadiak v�ng eo biển Bering v� Alaska, người Tinneh ở Bắc Mĩ thuộc Anh. Letourneau đ� thu thập c�c th�ng tin về t�nh trạng đ� ở người Indian Chippewa, người Cucus ở Chile, người bản xứ Caribe, người Karen ở Myanmar. Đ� l� chưa n�i đến những c�u chuyện của người Hi Lạp v� La M� thời cổ về người Parthia, người Ba Tư, người Scythia, người Hun, v.v. Trước khi tội loạn lu�n được ph�t minh ra - v� n� chính là một ph�t minh, v� l� một ph�t minh rất qu� gi� - th� việc quan hệ t�nh giao giữa cha mẹ v� con c�i cũng kh�ng g�y ra sự gh� tởm lớn hơn việc quan hệ t�nh giao giữa những người thuộc c�c thế hệ kh�c nhau g�y ra. Hiện nay, ngay ở c�c xứ philistine nhất, điều đ� vẫn xảy ra m� kh�ng g�y n�n điều kinh khủng lớn g� cả: ngay cả những �c� g�i gi�� ngo�i s�u mươi, nếu đủ gi�u, vẫn lấy được những ch�ng trai tuổi ba mươi. Nhưng nếu ch�ng ta, từ c�c h�nh thức gia đ�nh nguy�n thủy nhất đ� biết, loại bỏ c�c quan niệm về loạn lu�n, vốn gắn liền với ch�ng - những quan niệm ấy kh�c xa, thậm ch� thường đối lập trực tiếp, với quan niệm ng�y nay của ch�ng ta; th� h�nh thức quan hệ t�nh giao khi đ� chỉ c� thể n�i l� bừa b�i, v� khi đ� chưa c� sự hạn chế n�o của tập qu�n cả. Nhưng trong thực tiễn, chắc chắn l� kh�ng nhất thiết phải c� t�nh trạng cực k� lang chạ. Việc nhất thời sống chung theo từng đ�i kh�ng phải l� tuyệt đối kh�ng c�, cũng như trong chế độ quần h�n m� ta thấy ng�y nay. V� khi Westermarck, t�c gia gần đ�y nhất đ� phủ nhận sự tồn tại của trạng th�i nguy�n thủy ấy, v� coi �h�n nh�n� l� mọi trường hợp sống chung đến khi sinh con đẻ c�i của một đ�i nam nữ; th� ch�ng ta phải chỉ ra rằng kiểu h�n nh�n đ� ho�n to�n c� thể c� trong trạng th�i quan hệ t�nh giao bừa b�i, v� kh�ng hề m�u thuẫn với t�nh trạng ấy - nghĩa l� t�nh trạng quan hệ t�nh giao kh�ng k�m theo bất k� hạn chế n�o của tập tục. Nhưng Westermarck lại đứng tr�n quan điểm: quan hệ t�nh giao bừa b�i“bao hàm việc bóp chết tình yêu cá nhân”, do đó “hình thức xác thực nhất của tình trạng ấy là tệ mãi dâm”
Theo � t�i, người ta sẽ kh�ng thể hiểu được x� hội nguy�n thủy, chừng n�o c�n nh�n x� hội ấy bằng cặp k�nh nh� thổ. Ta sẽ quay lại điểm n�y khi b�n về chế độ quần h�n.] Theo Morgan, từ trạng th�i quan hệ t�nh giao bừa b�i thời nguy�n thủy, c�c h�nh thức gia đ�nh sau đ�y đ� ph�t triển: 1. Gia đình huyết tộc, giai đoạn đầu ti�n của gia đ�nh. L�c n�y, c�c tập đo�n h�n nh�n đ� t�ch ra theo c�c thế hệ: tất cả �ng b�, trong phạm vi gia đ�nh, đều l� vợ chồng của nhau; con của họ, tức l� tất cả bố mẹ, cũng thế; con của đời thứ hai, tức l� c�c ch�u, lập th�nh nh�m vợ chồng chung thứ ba; rồi con của họ, tức l� đời thứ tư, lập th�nh nh�m thứ tư. V� thế, trong kiểu h�n nh�n n�y, chỉ c� tổ ti�n v� con ch�u, cha mẹ v� con c�i, l� kh�ng c� �quyền hay nghĩa vụ vợ chồng� (như ta vẫn n�i) đối với nhau. C�n anh chị em ruột, anh chị em họ ở bậc n�o đi nữa th� đều l� anh chị em, chính vì thế n�n đều l� vợ chồng, của nhau. Ở giai đoạn n�y, quan hệ họ h�ng của anh chị em đương nhi�n cũng bao h�m cả việc quan hệ t�nh giao giữa họ với nhau2*. V� dụ điển h�nh của kiểu gia đ�nh đ� l� c�c hậu duệ của một cặp vợ chồng: họ đều l� anh chị em, v� đều l� vợ chồng, của nhau; trong phạm vi từng đời một. Gia đ�nh huyết tộc đ� ti�u tan. Ngay những d�n m�ng muội nhất, m� lịch sử từng biết đến, cũng kh�ng cho ta một v� dụ chắc chắn n�o về h�nh thức đ�. Nhưng ch�ng ta buộc phải c�ng nhận l� n� nhất định từng tồn tại: hệ thống th�n tộc Hawaii, ng�y nay vẫn thịnh h�nh tr�n khắp quần đảo Polynesia, đang biểu hiện những mức độ th�n tộc m� chỉ c� h�nh thức gia đ�nh đ� mới tạo ra được. To�n bộ sự ph�t triển sau n�y của gia đ�nh cũng giả định sự tồn tại của gia đ�nh huyết tộc, như l� giai đoạn tất yếu đầu ti�n. 2. Gia đình punalua. Nếu bước tiến đầu ti�n trong tổ chức gia đ�nh l� x�a bỏ quan hệ t�nh giao giữa cha mẹ v� con c�i, th� bước tiến thứ hai l� hủy bỏ quan hệ t�nh giao giữa anh chị em với nhau. V� anh chị em c� tuổi gần nhau hơn, n�n bước thứ hai n�y l� v� c�ng quan trọng hơn, nhưng cũng kh� khăn hơn bước thứ nhất. N� được thực hiện dần dần, [chắc l�] bắt đầu với việc hủy bỏ quan hệ t�nh giao giữa anh chị em c�ng mẹ; trước hết l� trong những trường hợp c� biệt, rồi từng bước trở th�nh th�ng lệ (ở Hawaii, ngay trong thế kỉ n�y, vẫn c� những ngoại lệ); v� cuối c�ng l� cấm kết h�n giữa c�c anh chị em họ đời thứ nhất, thứ hai v� thứ ba, như ta thường n�i. Theo Morgan, đ� l�“minh họa rất tốt về hoạt động của nguyên tắc chọn lọc tự nhiên”
Kh�ng nghi ngờ g� nữa, c�c bộ lạc n�o bị hạn chế bởi bước tiến ấy ắt phải ph�t triển nhanh hơn v� ho�n thiện hơn, so với c�c bộ lạc m� kết h�n giữa anh chị em vẫn l� tục lệ. Bước tiến đ� c� ảnh hưởng lớn đến thế n�o, điều đ� c� thể thấy được từ việc th�nh lập thị tộc; một tổ chức do bước tiến ấy trực tiếp tạo ra, v� đ� vượt xa c�i mục đ�ch ban đầu của ch�nh n�. Thị tộc đ� tạo n�n cơ sở của trật tự x� hội trong hầu hết, nếu kh�ng phải tất cả, c�c d�n d� man tr�n Tr�i Đất; từ đ�, ở Hi Lạp v� La M�, ch�ng ta đ� tiến thẳng l�n thời văn minh. Nhiều lắm l� sau v�i thế hệ, mỗi gia đ�nh nguy�n thủy phải tự chia nhỏ ra. Th�i quen sống chung trong một c�ng x� cộng sản nguy�n thủy - từng thịnh h�nh cho tới tận giai đoạn giữa của thời d� man, v� kh�ng c� ngoại lệ - đ� đặt ra một giới hạn cho qui m� của c�ng x� gia đ�nh; n� c� thể biến đổi t�y ho�n cảnh, nhưng lại kh� x�c định với từng địa phương. Ngay khi quan niệm �quan hệ t�nh giao giữa anh chị em c�ng mẹ l� sai tr�i� ra đời, n� đ� thể hiện t�c động của m�nh khi c�c c�ng x� gia đ�nh cũ chia nhỏ ra v� tạo n�n c�c c�ng x� gia đ�nh mới (ch�ng kh�ng nhất thiết phải ăn khớp với tập đo�n gia đ�nh). Một hay nhiều nh�nh chị em g�i trở th�nh trung t�m của một c�ng x�, c�n anh em trai c�ng mẹ của họ lại l� hạt nh�n của một c�ng x� kh�c. Ch�nh bằng c�ch đ�, hoặc những c�ch tương tự, một h�nh thức gia đ�nh mới đ� xuất hiện từ h�nh thức gia đ�nh huyết tộc; n� được Morgan gọi l� gia đ�nh punalua. Theo phong tục Hawaii, th� một số chị em g�i c�ng mẹ, hoặc l� chị em g�i họ, đều l� vợ chung của những người chồng chung của họ; nhưng trong đ� kh�ng c� anh em trai của họ. Những người chồng n�y kh�ng gọi nhau l� anh em nữa, m� cũng kh�ng nhất thiết phải l� anh em với nhau; họ gọi nhau l� punalua (nghĩa l� �bạn th�n� hay tương tự thế). Cũng như vậy, một số anh em trai lấy chung nhau một số người đ�n b� l�m vợ, nhưng trong đ� không có chị em g�i của họ; những người vợ chung n�y cũng gọi nhau l� punalua. Đ� l� h�nh thức cổ điển của một kiểu gia đ�nh, sau n�y n� c� thể c�n biến đổi nữa, nhưng đặc trưng chủ yếu của n� vẫn l�: chung vợ chung chồng với nhau trong phạm vi một gia đ�nh nhất định, nhưng phải loại ra anh em trai của vợ v� chị em g�i của chồng; trước hết l� anh chị em c�ng mẹ, sau đ� l� những người c� họ h�ng xa hơn. H�nh thức gia đ�nh đ� đ� đưa ra, với sự ch�nh x�c tuyệt đối, c�c mức độ th�n tộc c� trong hệ thống ở Mĩ. Con của d� t�i cũng l� con của mẹ t�i, con của ch� t�i cũng l� con của cha t�i, họ đều l� anh chị em ruột của t�i. Nhưng con của cậu t�i l� ch�u của mẹ t�i, con của c�c c� t�i l� ch�u của cha t�i, v� họ l� anh chị em họ của t�i. Khi chồng của d� t�i vẫn l� chồng của mẹ t�i, vợ của ch� t�i vẫn l� vợ của cha t�i (�t ra l� tr�n nguy�n tắc); th� việc cấm quan hệ t�nh giao giữa anh chị em ruột với nhau đ� chia con c�i của họ - trước đ�y vẫn l� anh chị em ruột của nhau, kh�ng ph�n biệt g� cả - l�m hai loại: một số vẫn l� anh chị em ruột của nhau, một số kh�c th� không thể như thế nữa - v� họ kh�ng thể c� chung cha mẹ nữa. V� thế, ở đ�y, lần đầu ti�n cần c� �ch�u� v� �anh chị em họ�, những thứ bậc v� nghĩa đối với kết cấu gia đ�nh trước kia. Hệ thống th�n tộc ở Mĩ - l� ho�n to�n v� l� nếu x�t theo bất k� h�nh thức gia đ�nh c� thể n�o - đ� được giải th�ch hết sức hợp l�, tới từng chi tiết nhỏ nhất; nhờ c� gia đ�nh punalua, ch�nh l� cơ sở của hệ thống đ�. Gia đ�nh punalua, [hoặc một h�nh thức tương tự], nhất định đ� tồn tại rất phổ biến; �t ra cũng ngang với mức phổ biến của hệ thống th�n tộc do n� tạo ra. C�c bằng cớ về h�nh thức ấy, h�nh thức được chứng tỏ l� vẫn c�n ở Hawaii, c� thể được thu thập tr�n khắp quần đảo Polynesia; nếu c�c nh� truyền gi�o ngoan đạo, cũng giống như c�c tăng lữ người T�y Ban Nha ở Mĩ xưa kia, c� thể coi những trạng th�i tr�i với gi�o l� Cơ Đốc ấy l� c�i g� kh�c hơn �điều gh� tởm�3*. C�u chuyện của Caesar về người Briton - l�c đ� đang ở giai đoạn giữa của thời d� man - rằng �cứ mươi, mười hai người th� c� những người vợ chung; đặc biệt l� giữa anh em trai hoặc cha con với nhau�, đ� được giải th�ch r� nhất trong chế độ quần h�n10a. Một người mẹ ở thời d� man kh�ng thể c� tới mươi, mười hai con trai c�ng lứa tuổi để lấy chung vợ; nhưng chế độ th�n tộc ở Mĩ, ph� hợp với gia đ�nh punalua, lại c� thể; v� tất cả anh em họ, gần v� xa, đều coi l� anh em ruột cả. C� thể Caesar đ� nhầm khi n�i �cha con với nhau�; nhưng hệ thống ấy cũng kh�ng ho�n to�n cấm việc cha v� con trai (hay mẹ v� con g�i) c�ng ở trong một nh�m h�n nh�n, m� chỉ cấm cha v� con g�i (hay mẹ v� con trai) th�i. H�nh thức quần h�n đ�, [hay một h�nh thức tương tự], cũng l� lời giải th�ch dễ d�ng nhất đối với những m� tả của Herodotus v� c�c t�c gia cổ đại kh�c về việc lấy chung vợ ở c�c d�n m�ng muội v� d� man. C�ng với đ� l� những m� tả của Watson v� Kaye (�D�n cư Ấn Độ�11) về người Teehur ở Oudh (ở ph�a Bắc s�ng Hằng):“Họ sống chung một cách gần như bừa bãi (đây là nói về quan hệ tính giao) trong các gia đình lớn; nếu hai người có quan hệ vợ chồng, thì đó cũng chỉ là trên danh nghĩa: họ có thể bỏ nhau rất dễ dàng”
Trong tuyệt đại đa số trường hợp, chế độ thị tộc c� vẻ đ� trực tiếp ph�t sinh từ gia đ�nh punalua; thực ra, hệ thống kết h�n đẳng cấp ở Australia cũng l� một xuất ph�t điểm của n�. Người Australia c� thị tộc, nhưng lại kh�ng c� gia đ�nh punalua; họ chỉ c� một h�nh thức quần h�n th� sơ hơn12. Ở mọi h�nh thức gia đ�nh trong chế độ quần h�n, người ta chỉ biết chắc ai l� mẹ của một đứa b�, chứ kh�ng biết cha của n�. D� người mẹ đ� gọi mọi đứa trẻ trong c�ng x� gia đ�nh l� �con�, th� người ấy vẫn ph�n biệt con đẻ của m�nh v� con của người kh�c. V� thế, r� r�ng l� chừng n�o chế độ quần h�n c�n thịnh h�nh, th� huyết tộc chỉ t�nh được về b�n mẹ, do đ� chỉ nữ hệ được thừa nhận. V� trong tất cả c�c d�n ở thời m�ng muội (hay ở giai đoạn thấp của thời d� man), th� đ� l� sự thật. C�ng lao lớn thứ hai của Bachofen l� đ� lần đầu ti�n t�m ra sự thật đ�. �ng d�ng từ �mẫu quyền� để chỉ việc thừa nhận duy nhất huyết tộc về b�n mẹ, c�ng với c�c quan hệ thừa kế (sau n�y) được ph�t sinh tr�n cơ sở đ�; để cho ngắn gọn, t�i vẫn d�ng thuật ngữ ấy, mặc d� n� kh�ng thật chuẩn; v� ở giai đoạn đ� của x� hội th� kh�ng thể n�i đến �quyền� theo nghĩa ph�p l� được. B�y giờ, nếu ta lấy một trong hai nh�m điển h�nh của gia đ�nh punalua; cụ thể l� nh�m chị em g�i (c�ng với con c�i họ), v� nh�m anh em trai (c�ng mẹ hay c�ng họ) của những chị em g�i đ�; th� ch�ng ta sẽ c� ch�nh c�c nh�m người sau n�y sẽ trở th�nh th�nh vi�n thị tộc, dưới h�nh thức ban đầu của chế độ đ�. Họ đều c� một b� mẹ tổ chung, v� thế những hậu duệ nữ (thuộc c�ng một thế hệ) đều l� chị em g�i của nhau. Nhưng chồng của họ th� kh�ng l� anh em trai của họ, v� thế cũng kh�ng l� con ch�u của b� mẹ tổ kia, do đ� cũng kh�ng l� th�nh vi�n của tập đo�n huyết tộc đ� (ch�nh l� thị tộc sau n�y). Nhưng con c�i của những chị em n�i tr�n lại thuộc về tập đo�n đ�, v� chỉ c� huyết tộc về ph�a mẹ được thừa nhận. Từ khi c� việc cấm quan hệ t�nh giao giữa anh chị em về ph�a mẹ, kể cả trong những họ xa nhau nhất, th� tập đo�n n�i tr�n sẽ biến th�nh thị tộc; tức l� biến th�nh một nh�m cố định, c� quan hệ huyết tộc về nữ hệ, v� h�n nh�n nội bộ bị cấm; v� từ đ� về sau, nhờ những thiết chế x� hội v� t�n gi�o chung, nh�m đ� ng�y c�ng trở n�n vững chắc v� tự ph�n biệt với c�c thị tộc kh�c trong c�ng một bộ lạc. Sau đ�y, ta sẽ c�n n�i th�m về việc đ�. Khi ta thấy thị tộc, một c�ch tất yếu v� ho�n to�n tự nhi�n, đ� ph�t triển từ gia đ�nh punalua; th� ch�ng ta, ho�n to�n hợp l�, c� thể suy ra l� h�nh thức gia đ�nh ấy - ở một thời k� n�o đ� - đ� tồn tại trong tất cả c�c d�n m� xưa kia từng c� chế độ thị tộc, nghĩa l� trong hầu hết c�c d�n d� man v� văn minh. [L�c Morgan viết cuốn s�ch của �ng th� hiểu biết của ch�ng ta về chế độ quần h�n c�n rất hạn chế. Chỉ c� ch�t th�ng tin về chế độ quần h�n theo đẳng cấp ở thổ d�n Australia, v� c�c t�i liệu về gia đ�nh punalua ở Hawaii trong cuốn s�ch năm 1871 của Morgan. Gia đ�nh punalua, một mặt đ� ho�n to�n giải th�ch được hệ thống th�n tộc hiện c� của người Indian ở Mĩ, hệ thống n�y lại l� điểm xuất ph�t của tất cả những nghi�n cứu của Morgan; mặt kh�c, l� nguồn gốc trực tiếp của thị tộc mẫu quyền; hơn nữa, lại biểu hiện một giai đoạn ph�t triển cao hơn nhiều, so với chế độ kết h�n đẳng cấp ở Australia. V� thế, việc Morgan coi n� (gia đ�nh punalua) l� giai đoạn ph�t triển tất yếu trước khi c� gia đ�nh đối ngẫu, v� tin rằng n� từng rất phổ biến ở c�c thời xa xưa, cũng l� dễ hiểu. Từ hồi đ� (năm 1871), ta đ� biết th�m nhiều h�nh thức quần h�n kh�c, v� giờ th� ta biết l� Morgan đ� đi qu� xa về điểm đ�. Nhưng Morgan cũng đ� may mắn với gia đ�nh punalua của m�nh: đ� l� h�nh thức cao nhất, h�nh thức kinh điển của chế độ quần h�n, v� bước chuyển từ h�nh thức đ� l�n một giai đoạn cao hơn c� thể được giải th�ch một c�ch đơn giản nhất. Ch�ng ta phải biết ơn nh� truyền gi�o người Anh Lorimer Fison - người đ� nghi�n cứu chế độ quần h�n trong nhiều năm, tr�n miếng đất cổ điển của n�: Australia - v� những đ�ng g�p quan trọng bậc nhất của �ng đối với hiểu biết của ch�ng ta về chế độ ấy. �ng đ� t�m ra tr�nh độ ph�t triển thấp nhất của d�n bản địa Australia ở Mount Gambier, bang South Australia. Ở đ�, to�n thể bộ lạc được chia th�nh hai đẳng cấp ngoại h�n lớn: Kroki v� Kumite. Quan hệ t�nh giao trong nội bộ mỗi đẳng cấp bị nghi�m cấm; mặt kh�c th� mỗi người đ�n �ng ở đẳng cấp n�y - từ khi sinh ra - đ� l� chồng của mọi người đ�n b� ở đẳng cấp kia, v� ngược lại. Kh�ng phải l� từng c� nh�n, m� l� từng đẳng cấp kết h�n với nhau. Cần thấy rằng ở đ�y kh�ng c� sự hạn chế về tuổi t�c hay huyết tộc, chỉ c� sự hạn chế về đẳng cấp, đối với việc quan hệ t�nh giao. Một người đ�n �ng Kroki c� vợ l� mọi người đ�n b� Kumite; nhưng con g�i của anh ta (do người đ�n b� Kumite đẻ ra) th� theo mẫu quyền l� người Kumite, v� thế cũng l� vợ của mọi người đ�n �ng Kroki (trong đ� c� cha của n�) ngay từ khi ra đời. D� thế n�o th� việc tổ chức ra c�c đẳng cấp như thế cũng kh�ng g�y trở ngại g� cho việc đ�, theo như ta biết. Vậy th� hoặc l� tổ chức ấy xuất hiện v�o thời m� quan hệ t�nh giao giữa cha mẹ v� con c�i vẫn chưa g�y ra sự gh� tởm đặc biệt, mặc d� đ� c� c�i xu hướng lờ mờ muốn hạn chế việc quan hệ t�nh giao giữa những người c�ng huyết tộc, thế th� hệ thống đẳng cấp đ� trực tiếp ph�t sinh từ trạng th�i quan hệ t�nh giao bừa b�i; hoặc l� khi c�c đẳng cấp đ� xuất hiện th� quan hệ t�nh giao giữa cha mẹ v� con c�i đã bị tập tục ngăn cấm rồi, thế th� trạng th�i hiện nay c� sau khi gia đ�nh huyết tộc xuất hiện, v� l� bước đầu ti�n để vượt qua h�nh thức gia đ�nh đ�. Giả thiết sau c� lẽ đ�ng hơn. Theo t�i biết th� ở Australia kh�ng c� v� dụ n�o về quan hệ t�nh giao giữa cha mẹ v� con c�i cả; c�n h�nh thức ngoại tộc h�n c� sau n�y - tức l� thị tộc mẫu quyền - th�, theo qui luật, đ� ngầm giả định rằng việc cấm c�c quan hệ t�nh giao đ� đ� c� từ khi thị tộc mới xuất hiện. Ngo�i Mount Gambier, chế độ hai đẳng cấp đ� c�n c� cả ở lưu vực s�ng Darling (miền Đ�ng) v� Queensland (miền Đ�ng Bắc), như thế l� n� được phổ biến rộng r�i. N� chỉ cấm h�n nh�n giữa anh chị em, con c�i của anh em trai v� con c�i của chị em g�i với nhau, v� họ thuộc c�ng một đẳng cấp; c�n con c�i của anh v� em g�i (hay chị v� em trai) th� vẫn được lấy nhau. Bộ lạc Kamilaroi ở lưu vực s�ng Darling, bang New South Wales, đ� tiến th�m một bước trong việc ngăn cấm h�n nh�n giữa những người c�ng huyết tộc: hai đẳng cấp ban đầu được chia ra th�nh bốn, v� to�n bộ mỗi đẳng cấp đ� lại kết h�n với một đẳng cấp kh�c. Hai đẳng cấp đầu ti�n l� vợ chồng của nhau từ khi sinh ra, t�y theo người mẹ thuộc đẳng cấp thứ nhất hay thứ hai m� con c�i thuộc đẳng cấp thứ ba hay thứ tư, con c�i của hai đẳng cấp n�y lại thuộc đẳng cấp thứ nhất v� thứ hai. Vậy, nếu một thế hệ thuộc hai đẳng cấp đầu, th� thế hệ ngay sau đ� lại thuộc hai đẳng cấp sau, v� thế hệ thứ ba lại thuộc hai đẳng cấp đầu. Vậy anh chị em họ (về ph�a mẹ) kh�ng thể lấy nhau, nhưng con c�i họ th� c� thể. Sự sắp đặt ấy, vốn đ� đặc biệt phức tạp, lại c�n rắc rối hơn; khi c� th�m những thị tộc mẫu quyền được gh�p v�o, d� chuyện n�y m�i về sau mới c�. Nhưng l�c n�y ta kh�ng thể đi s�u v�o việc đ� được. Điều quan trọng l�, d� � muốn chống lại h�n nh�n giữa những người c�ng huyết tộc ng�y c�ng được thể hiện; nhưng t�c động của n� chỉ l� theo bản năng, chứ kh�ng c� � thức r� rệt về mục đ�ch. Chế độ quần h�n - như ở Australia, vốn vẫn l� chế độ h�n nh�n đẳng cấp; tức l� việc lấy nhau giữa cả một đẳng cấp đ�n �ng sống rải r�c tr�n to�n lục địa, với cả một đẳng cấp đ�n b� cũng ở rải r�c như thế - nếu x�t kĩ, th� cũng kh�ng c� g� qu� khủng khiếp; như l� bọn philistines, với c�i tr� �c nh� thổ của ch�ng, vẫn tưởng tượng. Tr�i lại, sự tồn tại của chế độ ấy đ� kh�ng bị nghi ngờ trong h�ng bao nhi�u năm, v� chỉ gần đ�y n� mới bị đem ra x�t lại. Một kẻ quan s�t hời hợt th� chỉ thấy chế độ quần h�n l� một h�nh thức h�n nh�n c� thể lỏng lẻo, ở v�i nơi th� lại l� chế độ nhiều vợ, đ�i khi c� cả việc kh�ng chung thủy. Phải nghi�n cứu nhiều năm, như Fison v� Howitt, th� mới t�m ra c�i qui luật chi phối c�c quan hệ h�n nh�n đ�, c�c quan hệ c� vẻ kh� l� quen thuộc đối với sinh hoạt thực tế của người ch�u �u. C�i qui luật gi�p cho người đ�n �ng bản xứ Australia, d� ở xa qu� hương m�nh h�ng trăm dặm, d� sống giữa những d�n m� m�nh kh�ng hiểu tiếng n�i của họ; th� vẫn t�m được, ở bất k� đ�u v� bất k� bộ lạc n�o, một người đ�n b� sẵn s�ng hiến th�n cho anh ta m� kh�ng phản đối hay tức giận. C�i qui luật khiến cho người đ�n �ng c� nhiều vợ sẵn l�ng nhường một người trong số đ� cho kh�ch ngủ c�ng trong một đ�m. Ở chỗ m� người ch�u �u thấy l� v� đạo v� phi ph�p, th� thực ra lại c� luật lệ nghi�m ngặt. Những người đ�n b� đ� thuộc về đẳng cấp h�n nh�n của người kh�c xứ kia, do đ� cũng l� vợ của anh ta từ khi sinh ra. Luật lệ đ� cấm mọi quan hệ t�nh giao b�n ngo�i c�c đẳng cấp h�n nh�n được qui định từ xưa, ai l�m tr�i sẽ phải nhận h�nh phạt. Kể cả khi tục cướp vợ vẫn thường c� ở nhiều v�ng, th� luật lệ về c�c đẳng cấp kết h�n vẫn được tu�n thủ cẩn thận. H�n nh�n cướp đoạt r� r�ng l� dấu hiệu của việc chuyển sang chế độ h�n nh�n c� thể, �t nhất l� dưới h�nh thức h�n nh�n đối ngẫu. Khi một nh�m ch�ng trai đ� c�ng nhau bắt c�c hay cướp được một c� g�i, th� họ sẽ lần lượt quan hệ t�nh giao với c� g�i đ�, nhưng sau đ� c� ta được coi l� vợ của ch�ng trai chủ mưu việc n�y. Mặt kh�c, nếu người đ�n b� trốn tho�t khỏi tay chồng m�nh, v� bị người đ�n �ng kh�c bắt được, th� người đ� lại l� chồng mới của chị ta; v� người chồng trước kh�ng c� quyền g� với chị ta nữa. Như vậy, trong khi chế độ quần h�n tiếp tục tồn tại như l� h�nh thức phổ biến; th� b�n cạnh n� v� b�n trong n�, c�c quan hệ h�n nh�n độc quyền, việc sống kết đ�i trong một thời k� d�i hoặc ngắn, v� cả chế độ nhiều vợ, đều đ� bắt đầu h�nh th�nh. V� thế ở đ�y, chế độ quần h�n cũng đang diệt vong; v� c�u hỏi chỉ l�, với t�c động của người ch�u �u th� c�i g� sẽ biến mất trước: chế độ quần h�n hay l� những d�n bản xứ Australia đang thực hiện chế độ đ�. Kiểu kết h�n đẳng cấp đang thịnh h�nh ở Australia d� sao cũng l� một h�nh thức rất thấp v� nguy�n thủy của chế độ quần h�n, trong khi gia đ�nh punalua biểu hiện giai đoạn ph�t triển cao nhất của chế độ đ�, như ta đ� biết. C�i đầu h�nh như l� tương ứng với tr�nh độ x� hội của người m�ng muội du mục; c�n c�i sau lại giả định l� c�c c�ng x� cộng sản đ� định cư tương đối thường xuy�n, v� n� trực tiếp dẫn tới một giai đoạn ph�t triển cao hơn. Nhưng chắc chắn ta sẽ c�n thấy v�i giai đoạn trung gian giữa hai h�nh thức đ�; đ�y l� một lĩnh vực nghi�n cứu mới mẻ, gần như chưa ai bước ch�n v�o.] 3. Gia đình đối ngẫu. Một h�nh thức kết h�n theo từng cặp nhất định, trong thời gian ngắn hoặc d�i, đ� tồn tại trong chế độ quần h�n10b, hoặc c�n sớm hơn nữa; khi đ�, người đ�n �ng c� một vợ ch�nh (nhưng chưa thể n�i đ� l� vợ y�u nhất) trong số rất nhiều vợ của m�nh; v� đối với người vợ ch�nh đ�, th� anh ta l� người chồng ch�nh trong số nhiều người chồng. T�nh trạng đ� đ� g�p phần đ�ng kể v�o việc tạo ra sự lẫn lộn trong đầu �c của c�c gi�o sĩ: họ coi chế độ quần h�n10c khi th� l� sự cộng th� hỗn loạn, khi th� l� việc ngoại t�nh bừa b�i. Nhưng việc kết h�n từng cặp đ� hẳn l� đ� ng�y c�ng lớn mạnh v� vững chắc; khi m� thị tộc ng�y c�ng ph�t triển, c�c nh�m �anh em trai� v� �chị em g�i� kh�ng thể lấy nhau ng�y c�ng nhiều. Sự th�c đẩy việc cấm h�n nh�n giữa những người c�ng huyết tộc, do thị tộc đặt ra, ng�y c�ng mạnh hơn. Như ở người Iroquois v� hầu hết những người Indian kh�c, đang ở giai đoạn thấp của thời d� man, ta thấy h�n nh�n giữa những người c� quan hệ họ h�ng với nhau - theo hệ thống của họ - đều bị cấm; m� c�c quan hệ họ h�ng đ� th� c� đến mấy trăm loại. Những điều cấm ng�y c�ng phức tạp đ� đ� khiến chế độ quần h�n ng�y c�ng trở n�n bất khả thi, v� chế độ đ� đ� bị thay thế bởi gia đình đối ngẫu. Ở giai đoạn n�y, một người đ�n �ng sống với một người đ�n b�, nhưng việc c� nhiều vợ v� đ�i khi ngoại t�nh vẫn l� quyền của đ�n �ng, d� trường hợp đ� rất hiếm, v� c�c nguy�n nh�n kinh tế kh�ng cho ph�p; nhưng người đ�n b� lại phải triệt để chung thủy trong thời gian sống với chồng, v� sẽ bị trừng trị t�n khốc nếu ngoại t�nh. Tuy thế, mối li�n hệ h�n nh�n c� thể dễ d�ng bị một trong hai b�n cắt đứt; sau khi �li dị�, con c�i chỉ thuộc về mẹ, cũng như xưa kia. Trong khi việc cấm h�n nh�n giữa những người c�ng huyết tộc ng�y c�ng được mở rộng, th� nguy�n tắc chọn lọc tự nhi�n vẫn ph�t huy t�c dụng. Theo Morgan th�:“Tác động của thói quen mới, dẫn tới việc kết hôn giữa những người không có quan hệ họ hàng với nhau, đã tạo ra một giống nòi mạnh mẽ hơn cả về thể chất và trí óc... Khi hai bộ lạc đang tiến bộ, với những đặc tính ưu việt về thể chất và trí óc, nhờ sự tình cờ của đời sống dã man mà kết hợp thành một; thì sọ và não của các thế hệ mới cũng lớn lên, tương ứng với các đặc tính của cả hai bộ lạc cũ”1b
V� thế, c�c bộ lạc c� kết cấu thị tộc hẳn phải ưu việt hơn c�c bộ lạc lạc hậu; hơn thế nữa, đ� l�i k�o những bộ lạc ấy đi theo h�nh mẫu của m�nh. Vậy, lịch sử gia đ�nh trong c�c thời nguy�n thủy ch�nh l� việc thu hẹp kh�ng ngừng phạm vi h�n nh�n; l�c đầu n� bao gồm to�n bộ lạc, v� hai giới c� quan hệ h�n nh�n cộng đồng với nhau. Việc cấm quan hệ t�nh giao giữa những người c�ng huyết tộc; trước hết l� họ h�ng gần, sau đ� l� họ h�ng xa hơn, cuối c�ng l� cả họ h�ng b�n vợ (hay b�n chồng); đ� l�m cho mọi h�nh thức quần h�n đều trở th�nh bất khả thi. Cuối c�ng chỉ c�n từng đ�i vợ chồng ri�ng rẽ, kết hợp với nhau bằng những mối li�n hệ h�y c�n lỏng lẻo, v� nếu h�nh thức đ� mất đi th� h�n nh�n cũng kh�ng c�n. Chỉ điều đ� cũng đủ chứng tỏ l� t�nh y�u nam nữ, hiểu theo nghĩa hiện nay của n�, chỉ c� vai tr� nhỏ b� đến thế n�o trong sự xuất hiện của chế độ h�n nh�n c� thể. Những bằng chứng r� hơn đến từ ch�nh thực tế đời sống của người thời đ�. Trong khi dưới những h�nh thức gia đ�nh trước kia, đ�n �ng kh�ng bao giờ thiếu đ�n b�, đ�ng ra họ c�n c� qu� nhiều; th� giờ đ�y đ�n b� trở n�n �t ỏi hơn, v� được t�m kiếm r�o riết. V� thế, từ khi c� chế độ h�n nh�n đối ngẫu, việc cướp v� mua đ�n b� cũng xuất hiện; đ� l� những hiện tượng phổ biến, nhưng chỉ l� hiện tượng, kh�ng hơn kh�ng k�m; do những sự thay đổi s�u xa hơn nhiều g�y ra. Những hiện tượng đ�, ho�n to�n chỉ l� những c�ch kiếm vợ, đ� được �học giả� người Scotland McLennan biến b�o th�nh những h�nh thức đặc biệt, �h�n nh�n cướp đoạt� v� �h�n nh�n mua b�n�. Ngo�i ra, trong c�c d�n Indian ở Mĩ hay c�c d�n kh�c, c�c b� mẹ quyết định việc kết h�n, chứ kh�ng phải đ�i lứa. Thường th� hai người được đ�nh h�n với nhau như vậy, họ chỉ biết việc đ� khi ch� rể đem lễ vật đến biếu nh� g�i để hỏi cưới; lễ vật đ� thường được coi l� m�n tiền hơn l� m�n qu�, v� n� cũng kh�ng phải l� c�i g� bất ngờ, để th�ng b�o l� cuộc mua b�n đ� xong. H�n nh�n vẫn c� thể bị hủy bỏ t�y theo � muốn của một trong hai b�n, nhưng ở nhiều bộ lạc, v� dụ người Iroquois, dần dần đ� c� dư luận phản đối việc li dị; khi c� bất h�a, hai thị tộc của vợ v� chồng sẽ d�n xếp, v� chỉ khi kh�ng d�n xếp được th� mới li dị; con c�i l� của mẹ, v� hai b�n được tự do t�i h�n. Bản th�n gia đ�nh đối ngẫu qu� non yếu v� bất ổn, n�n kh�ng thể đẻ ra sự cần thiết - thậm ch� l� � muốn - phải c� kinh tế gia đ�nh độc lập; n�n n� kh�ng hủy bỏ được c�ng x� cộng sản do thời trước để lại. Nhưng c�ng x� cộng sản tức l� đ�n b� nắm quyền thống trị trong nh�; cũng như việc chỉ thừa nhận huyết tộc theo nữ hệ, v� kh�ng thể biết r� cha đẻ, c� nghĩa l� phụ nữ - hay c�c b� mẹ - rất được k�nh trọng. Một trong những quan điểm phi l� nhất của thời k� khai s�ng (thế kỉ XVIII) l� việc coi đ�n b� l� n� lệ của đ�n �ng ở thời k� đầu của x� hội. Ở c�c d�n m�ng muội v� c�c d�n d� man - ở c�c giai đoạn thấp, giữa, v� một phần ở giai đoạn cao; địa vị của đ�n b� kh�ng chỉ l� tự do, m� c�n l� danh gi� nữa. Ta h�y nghe Arthur Wright, người đ� nhiều năm truyền gi�o cho d�n Iroquois thuộc bộ lạc Seneca, để xem điều tr�n c�n tồn tại đến mức n�o trong gia đ�nh đối ngẫu:“Về chế độ gia đình của họ, ở thời mà những ngôi nhà dài theo kiểu cổ (công xã cộng sản bao gồm vài gia đình) vẫn đang thịnh hành, thì hay có một họ (thị tộc) thống trị, và đàn bà đi lấy chồng ở các họ khác... Đàn bà thường quản lí gia đình... Lương thực là của chung, nhưng thật bất hạnh cho ông chồng hay kẻ tình nhân nào không góp được phần mình vào số lương thực ấy, vì quá không may hoặc quá lười biếng. Dù có bao nhiêu con, hay bao nhiêu tài sản, anh ta vẫn có thể nhận được lệnh cuốn gói ra đi bất kì lúc nào; và nếu không tuân lệnh thì tình hình sẽ chẳng tốt đẹp gì. Khi đó, gia đình sẽ trở thành địa ngục với người ấy; và... anh ta chỉ còn cách trở về họ nhà mình, hoặc tái hôn ở một họ khác, đó là điều vẫn hay xảy ra. Trong các họ, cũng như ở mọi nơi khác, đàn bà có quyền lực rất lớn. Khi cần, họ không ngần ngại cách chức một tù trưởng, và hạ người đó xuống hàng chiến binh thường” (“Xã hội Cổ đại”; do Morgan trích dẫn)
C�ng x� cộng sản - trong đ� hầu hết (nếu kh�ng phải l� tất cả) phụ nữ đều thuộc c�ng một thị tộc, c�n đ�n �ng lại thuộc nhiều thị tộc kh�c nhau - ch�nh l� cơ sở hiện thực của sự thống trị, từng rất phổ biến ở c�c thời nguy�n thủy, của đ�n b�; v� c�ng lao thứ ba của Bachofen l� đ� ph�t hiện ra điều đ�. T�i xin n�i th�m, những c�u chuyện của c�c nh� du h�nh v� c�c gi�o sĩ, về c�ng việc hết sức nặng nhọc của đ�n b� trong c�c d�n m�ng muội v� d� man; kh�ng m�u thuẫn ch�t n�o với điều n�u tr�n. Sự ph�n c�ng lao động giữa hai giới l� do những nguy�n nh�n ho�n to�n kh�c, chứ kh�ng phải do địa vị của đ�n b� trong x� hội, g�y ra. Ở c�c d�n m� đ�n b� phải l�m lụng cực nhọc hơn nhiều, so với mức m� ta cho l� hợp l�; th� sự t�n k�nh thực tế d�nh cho đ�n b� cũng vượt xa, so với người ch�u �u ch�ng ta. Một qu� b� ở thời văn minh - được t�n trọng một c�ch giả tạo, xa lạ với mọi c�ng việc thực tế - c� một địa vị x� hội v� c�ng thấp; so với người đ�n b� thời d� man - phải l�m lụng vất vả, nhưng lại được người ta coi l� một qu� b� thực sự, v� thật sự l� một qu� b� - nếu x�t theo địa vị m� người ấy c�. Ở Mĩ hiện nay, �chế độ h�n nh�n đối ngẫu đ� ho�n to�n thay thế chế độ quần h�n chưa?� l� một vấn đề chỉ c� thể được giải quyết nhờ việc nghi�n cứu s�u hơn c�c d�n ở v�ng T�y Bắc, v� đặc biệt l� ở Nam Mĩ, vốn đang ở giai đoạn cao của thời m�ng muội. Ở trường hợp sau, người ta đ� biết nhiều v� dụ về quan hệ t�nh giao tự do, đến mức kh� m� cho rằng chế độ quần h�n cổ đ� mất đi hẳn. �t nhiều th� những dấu vết của chế độ đ� vẫn c�n. Ở �t nhất bốn mươi bộ lạc Bắc Mĩ, người đ�n �ng - sau khi lấy người chị cả - c� quyền lấy tất cả những c� em của người chị đ�, khi họ đủ tuổi; đ� l� t�n t�ch của thời k� m� tất cả c�c chị em g�i c�ng lấy một chồng. C�n Bancroft th� kể về người Indian ở b�n đảo California (ở giai đoạn cao của thời m�ng muội) l� trong những ng�y hội nhất định, nhiều �bộ lạc� tập hợp lại để tiến h�nh quan hệ t�nh giao bừa b�i. R� r�ng đ� l� c�c thị tộc, họ vẫn giữ được c�i k� ức lờ mờ về thời k� m� đ�n b� ở một thị tộc l� vợ chung của đ�n �ng ở c�c thị tộc kh�c, trong những ng�y hội ấy. [Một tục lệ tương tự cũng thịnh h�nh ở Australia. Ở một số d�n, ta c�n thấy c�c b� l�o, t� trưởng v� ph�p sư đ� lợi dụng chế độ lấy chung vợ để chiếm hữu đại đa số đ�n b�; nhưng trong những dịp hội h� lớn, họ lại phải kh�i phục chế độ đ�, v� cho ph�p vợ m�nh quan hệ t�nh giao với c�c ch�ng trai trẻ. Westermarck (s�ch đ� dẫn4b, tr. 28-29) đ� đưa ra một loạt v� dụ về c�c lễ Saturnalia định k� đ�; khi trong thời gian ngắn, trạng th�i quan hệ t�nh giao tự do xưa kia đ� được phục hồi: người Ho, người Santal, người Punjab, người Kotar ở Ấn Độ; một v�i d�n ch�u Phi; v.v. K� lạ ở chỗ Westermarck kết luận rằng đ� l� những t�n dư của m�a giao phối ở người nguy�n thủy (cũng như c�c động vật kh�c), kh�ng phải của chế độ quần h�n (c�i m� �ng ta ho�n to�n phủ nhận). B�y giờ ta đến với ph�t hiện lớn thứ tư của Bachofen, tức l� h�nh thức qu� độ phổ biến từ chế độ quần h�n sang chế độ h�n nh�n đối ngẫu. C�i được Bachofen m� tả l� một sự chuộc tội v� đ� vi phạm những tục lệ thần th�nh cổ xưa, m� người đ�n b� phải l�m để c� được quyền thủ tiết; thực ra chỉ l� biểu hiện thần b� của sự chuộc m�nh, m� người đ�n b� d�ng để tho�t khỏi t�nh trạng nhiều chồng thời cổ, v� gi�nh lấy quyền hiến th�n cho chỉ một người đ�n �ng. Sự chuộc lại đ� ch�nh l� việc phải hiến th�n - c� hạn chế - cho người lạ: phụ nữ Babylonia phải hiến th�n h�ng năm ở đền Mylitta; c�c d�n kh�c ở Tiểu � th� h�ng năm lại gửi con g�i tới đền Anaitis, ở đ� ch�ng được tự do �n �i với những người m�nh th�ch, trước khi được ph�p lấy chồng. Những tục lệ tương tự, nấp sau c�i vỏ t�n gi�o, th� phổ biến trong hầu hết c�c d�n ch�u �, từ Địa Trung Hải đến tận s�ng Hằng. Sự hi sinh để chuộc m�nh đ� ng�y c�ng nhẹ dần đi, như Bachofen n�i:“Thay vì hiến thân hàng năm, thì chỉ hiến thân một lần; thay vì tục tạp hôn ở các bà mẹ, thì chỉ có tục tạp hôn ở các thiếu nữ; thay vì thực hiện nó trong hôn nhân, thì chỉ thực hiện nó trước hôn nhân; thay vì phải hiến thân cho mọi người, thì chỉ hiến thân cho vài người đã chọn” (“Mẫu quyền”*, tr. XIX)
Trong một số d�n kh�c th� kh�ng c� c�i vỏ t�n gi�o. Ở v�i trường hợp - người Thrace, người Celt, nhiều d�n bản địa ở Ấn Độ cổ; ng�y nay th� c� người Malaya, c�c d�n tr�n c�c đảo ở Nam Th�i B�nh Dương, nhiều d�n Indian ch�u Mĩ - con g�i c� quyền tự do t�nh giao rất rộng r�i cho đến l�c lấy chồng mới th�i. Việc đ� đặc biệt phổ biến ở hầu khắp Nam Mĩ, bất k� ai đi s�u t�m hiểu một ch�t đều c� thể chứng thực. V� thế m� Agassiz (�H�nh tr�nh tới Brazil�, Boston & New York, 1868, tr. 266) đ� kể về một gia đ�nh gốc Indian gi�u c� như sau: sau khi l�m quen với c� con g�i, �ng hỏi về người cha, v� đo�n đ� l� chồng của b� mẹ - �ng ta l� sĩ quan đang tham gia cuộc chiến tranh chống Paraguay; nhưng b� mẹ mỉm cười trả lời: �Nao tem pai, e filha da fortuna� (n� kh�ng c� cha đ�u, n� l� đứa con do ngẫu nhi�n m� c� đấy).“Những người đàn bà Indian hay lai Indian luôn nói thế về những đứa con hoang của mình... không hề buồn bã hay hổ thẹn... Mà điều đó cũng không có gì bất thường cả... ngược lại thì mới là kì lạ. Con cái... thường chỉ biết mẹ thôi, vì mọi trách nhiệm và săn sóc đều là của mẹ; chúng không biết gì về cha cả, hoặc là người đàn bà chưa bao giờ nghĩ rằng mình và con cái mình lại có quyền đòi hỏi gì đó ở người cha”
Điều lạ l�ng đối với người văn minh th� ở đ�y, theo chế độ mẫu quyền v� trong chế độ quần h�n, lại l� th�ng lệ. Hơn nữa, trong đ�m cưới của c�c d�n ấy, th� bạn b� v� họ h�ng của ch� rể, rồi cả kh�ch khứa đều đ�i c�i �quyền cổ truyền� của họ với c� d�u, sau c�ng mới l� ch� rể; đ� cũng l� tục lệ thời cổ ở c�c d�n tr�n quần đảo Balears, người Augila ở Bắc Phi; v� hiện vẫn c�n ở người Barea ở Abyssinia. Ở c�c d�n kh�c, một người c� địa vị - thủ lĩnh bộ lạc hay thị tộc, cacique, shaman, thầy ph�p, ho�ng th�n, hay bất k� t�n g� - thay mặt cộng đồng, v� được quyền hưởng đ�m đầu ti�n với c� d�u. Mặc cho việc �tẩy trắng� theo kiểu l�ng mạn mới, c�i jus primae noctis13 ấy hiện vẫn c�n như một t�n t�ch của chế độ quần h�n, ở hầu hết c�c d�n v�ng Alaska, người Tahu miền Bắc Mexico (Bancroft: s�ch đ� dẫn6b, tr. 81 & 584) v� nhiều d�n kh�c; n� cũng đ� tồn tại suốt thời Trung cổ, �t ra l� ở c�c xứ - Aragon chẳng hạn - m� cư d�n c� gốc Celt, đ� l� do chế độ quần h�n trực tiếp truyền lại. Trong khi ở Castile n�ng d�n kh�ng bao giờ l� n�ng n�, th� ở Aragon lại c� chế độ n�ng n� xấu xa nhất, tới khi c� chiếu chỉ năm 1486 của vua Ferdinand II mới th�i. Trong đ� c� viết:“Chúng ta phán xét và tuyên bố rằng các lãnh chúa (senor, baron) nói trên ... không có quyền ngủ đêm đầu tiên với người được một nông dân lấy làm vợ, cũng không được bước qua giường khi người vợ nói trên đang nằm trên đó, vào đêm tân hôn, để tỏ quyền thống trị; các lãnh chúa nói trên cũng không có quyền bắt con cái nông dân phục vụ mình, dù có trả tiền hay không, nếu họ không đồng ý” (Sugenheim, trích nguyên văn tiếng Catalan trong “Chế độ nông nô”14, Sankt-Peterburg, 1861, tr. 35)
Bachofen lại ho�n to�n đ�ng khi quả quyết rằng bước chuyển từ c�i m� �ng gọi l� �tạp h�n� hay �thụ thai tội lỗi� (Sumpfzeugung) sang chế độ h�n nh�n c� thể được thực hiện nhờ phụ nữ l� ch�nh. Nhờ sự ph�t triển của c�c điều kiện kinh tế - do đ� m� chế độ cộng sản cổ xưa bị tan r� - v� sự tăng mật độ d�n số, n�n c�c quan hệ t�nh giao cổ truyền ng�y c�ng mất đi t�nh tự nhi�n nguy�n thủy của n�; phụ nữ hẳn l� cảm thấy n� ng�y c�ng nặng nề v� nhục nh�; họ ng�y c�ng mong muốn được thủ tiết, tức l� chỉ kết h�n - nhất thời hay l�u d�i - với một người đ�n �ng th�i, giống như một sự giải ph�ng. Bước tiến n�y kh�ng thể n�o do đ�n �ng thực hiện, v� tới tận ng�y nay, họ vẫn kh�ng muốn từ bỏ c�i th� vị của chế độ quần h�n thực sự. Chỉ khi phụ nữ tạo ra bước chuyển tr�n, th� đ�n �ng mới c� thể thực h�nh chế độ h�n nh�n c� thể chặt chẽ - d� thật ra chỉ l� chặt chẽ với phụ nữ th�i.] Gia đ�nh đối ngẫu ph�t sinh v�o buổi chuyển giao giữa thời m�ng muội v� thời d� man, chủ yếu l� ở giai đoạn cao của thời m�ng muội, nhưng đ�i khi l� ở giai đoạn thấp của thời d� man. N� l� h�nh thức ti�u biểu của thời d� man, cũng như chế độ quần h�n của thời m�ng muội, v� chế độ h�n nh�n c� thể của thời văn minh. Để gia đ�nh đối ngẫu ph�t triển hơn nữa th�nh gia đ�nh c� thể chặt chẽ, cần những nguy�n nh�n kh�c, so với những nguy�n nh�n đ� t�c động từ trước tới nay, m� ta đ� thấy. Với gia đ�nh đối ngẫu, nh�m h�n nh�n đ� giảm tới đơn vị nhỏ nhất của n�, l� ph�n tử với hai nguy�n tử: một người đ�n �ng v� một người đ�n b�. Nguy�n tắc chọn lọc tự nhi�n, với việc ng�y c�ng loại trừ cộng đồng khỏi h�n nh�n, đ� ho�n th�nh nhiệm vụ của n�; về mặt đ�, n� kh�ng c� g� để l�m nữa. Kh�ng c� l� do g� để một h�nh thức gia đ�nh mới c� thể ph�t sinh từ gia đ�nh đối ngẫu, nếu những động lực x� hội chưa hoạt động. Nhưng ch�ng đ� bắt đầu hoạt động. B�y giờ ta rời ch�u Mĩ, miếng đất cổ điển của gia đ�nh đối ngẫu. Kh�ng c� dấu hiệu n�o cho ph�p ta kết luận rằng một h�nh thức gia đ�nh cao hơn đ� ph�t triển ở đ�, rằng chế độ một vợ một chồng chặt chẽ đ� c� ở ch�u Mĩ, trước khi n� được ph�t hiện v� bị x�m chiếm. Nhưng ở thế giới cũ th� kh�ng như vậy. Ở đ�y, việc thuần dưỡng s�c vật v� chăn nu�i c�c đ�n th� đ� mở ra một nguồn của cải chưa từng thấy từ trước tới nay, v� tạo ra những quan hệ x� hội ho�n to�n mới. Cho tới giai đoạn thấp của thời d� man, của cải cố định hầu như chỉ l� nh� cửa, quần �o, trang sức th� sơ, những c�ng cụ để t�m kiếm v� nấu thức ăn: thuyền b�, vũ kh�, c�c đồ d�ng gia đ�nh đơn giản nhất. Thức ăn th� vẫn phải kiếm h�ng ng�y. Giờ đ�y, với những đ�n ngựa, lạc đ�, lừa, tr�u b�, d�, cừu, lợn; c�c d�n du mục đang ph�t triển - người Semite ở Lưỡng H�; hay người Arya ở Punjab v� lưu vực s�ng Hằng của Ấn Độ, hoặc những thảo nguy�n nhiều nước hơn, ven c�c s�ng Oxus v� Jaxartes* - đ� c� được một thứ t�i sản c� thể sinh s�i đều đặn, ng�y c�ng tăng l�n, lại cung cấp rất nhiều sữa v� thịt; m� chỉ cần tr�ng coi v� chăm s�c một c�ch sơ s�i nhất. Mọi phương tiện kiếm thức ăn trước kia đều l�i xuống h�ng thứ yếu; việc săn bắn, xưa l� cần thiết, nay lại l� một tr� vui xa xỉ. Vậy của cải mới đ� thuộc về ai? Kh�ng nghi ngờ g� nữa, l�c đầu th� thuộc về thị tộc. Nhưng chế độ tư hữu c�c đ�n gia s�c hẳn l� đ� ra đời từ sớm. T�c giả của c�i gọi l� �cuốn s�ch đầu ti�n của Moses� c� coi tộc trưởng Abraham l� người sở hữu c�c đ�n s�c vật của �ng ta hay kh�ng, do quyền của ri�ng �ng ta với tư c�ch người đứng đầu c�ng x� gia đ�nh, hay do quyền của người đứng đầu thị tộc m� �ng ta đ� thực sự được thế tập - c�i đ� kh� m� n�i được. C� điều chắc chắn l� ta kh�ng thể nghĩ về �ng ta như một người sở hữu, theo nghĩa hiện đại của từ đ�. Cũng chắc chắn l� ở ngưỡng cửa của thời k� lịch sử th�nh văn, ta đ� thấy c�c đ�n gia s�c ở bất k� đ�u cũng trở th�nh sở hữu ri�ng rẽ15 của c�c chủ gia đ�nh; cũng như c�c t�c phẩm nghệ thuật của thời d� man, c�c đồ d�ng gia đ�nh bằng kim loại, c�c thứ đồ xa xỉ, v� sau c�ng l� những con vật dạng người - tức l� n� lệ. V� giờ đ�y chế độ n� lệ cũng đ� được ph�t minh ra. Đối với người ở giai đoạn thấp của thời d� man, n� lệ kh�ng c� gi� trị g�. V� thế m� người Indian ch�u Mĩ đối xử với kẻ bại trận kh�c hẳn so với c�c d�n ở giai đoạn cao hơn. Đ�n �ng bị giết hoặc được nhận l�m anh em trong bộ lạc thắng trận; phụ nữ được lấy l�m vợ, hoặc được thu nhận theo c�ch kh�c, c�ng với con c�i của họ. Ở giai đoạn đ�, sức lao động của con người chưa tạo ra được một lượng dư thừa đ�ng kể, so với c�c chi ph� để duy tr� sức lao động ấy. Đến khi biết chăn nu�i, l�m đồ kim loại, dệt, v� cuối c�ng l� trồng trọt, th� kh�ng c�n như vậy nữa. Hệt như những người vợ: trước kia thật dễ kiếm, m� giờ lại l� m�n h�ng, c� gi� trị trao đổi, v� phải đi mua; sức lao động cũng thế, đặc biệt l� từ khi c�c bầy gia s�c ho�n to�n trở th�nh sở hữu của gia đ�nh16. Gia đ�nh sinh s�i kh�ng nhanh như gia s�c. Cần nhiều người hơn để chăm s�c ch�ng, c� thể d�ng t� binh v�o việc đ�, m� t� binh cũng c� thể sinh s�i dễ d�ng như gia s�c vậy. Những của cải ấy, một khi đ� trở th�nh tư hữu [của c�c gia đ�nh], v� tăng l�n nhanh ch�ng; th� n� đ�nh một đ�n ch� mạng v�o c�i x� hội dựa tr�n chế độ h�n nh�n đối ngẫu v� thị tộc mẫu quyền. Chế độ h�n nh�n đối ngẫu đ� đưa một yếu tố mới v�o trong gia đ�nh. B�n cạnh người mẹ đẻ, n� đ� đặt ra người cha đẻ x�c thực, c� lẽ c�n x�c thực hơn cả những người �cha� ng�y nay. Theo sự ph�n c�ng lao động trong gia đ�nh thời đ�, t�m kiếm thức ăn v� sử dụng c�c c�ng cụ lao động cần cho việc đ�, đều l� phần của đ�n �ng. V� thế anh ta cũng sở hữu c�c c�ng cụ ấy; v� khi li h�n th� người chồng mang ch�ng theo m�nh, cũng như người vợ giữ lại c�c dụng cụ gia đ�nh. Vậy theo phong tục x� hội bấy giờ, đ�n �ng cũng sở hữu một nguồn sinh sống mới: gia s�c, v� sau đ� l� một c�ng cụ lao động mới: n� lệ. Tuy vậy, cũng theo phong tục thời ấy, con c�i anh ta kh�ng được thừa kế t�i sản của cha. V� với việc thừa kế, t�nh h�nh l�c đ� l� như sau: theo chế độ mẫu quyền - tức l� huyết tộc chỉ được t�nh về b�n mẹ - v� theo tập tục ban đầu về việc kế thừa trong thị tộc, th� chỉ những người họ h�ng trong c�ng thị tộc mới được thừa kế t�i sản của một th�nh vi�n thị tộc đ� chết. T�i sản của người đ� phải ở lại trong thị tộc. V� t�i sản đ� cũng kh�ng nhiều cho lắm, n�n c� lẽ l� từ xưa, n� đ� lu�n được trao cho những người họ h�ng gần nhất về ph�a mẹ. Nhưng con c�i của người đ�n �ng đ� chết kh�ng thuộc thị tộc của anh ta, m� thuộc thị tộc của mẹ ch�ng; ch�ng kế thừa t�i sản của mẹ, trước hết l� c�ng với họ h�ng b�n mẹ, về sau th� được ưu ti�n nhận thừa kế trước; ch�ng kh�ng thể kế thừa t�i sản của cha, v� ch�ng kh�ng thuộc thị tộc của cha, m� t�i sản của cha phải ở lại trong thị tộc đ�. V� thế, khi chủ một đ�n gia s�c qua đời, th� đ�n gia s�c của anh ta trước hết sẽ thuộc về anh chị em ruột, v� con c�i họ; hoặc l� con ch�u của d� anh ta. C�n con c�i của ch�nh anh ta th� kh�ng được thừa kế. Vậy, tương ứng với sự tăng th�m của cải, một mặt th� của cải ấy khiến cho đ�n �ng c� địa vị quan trọng hơn đ�n b� trong gia đ�nh; mặt kh�c th� n� th�c đẩy đ�n �ng lợi dụng địa vị đ� để ph� bỏ trật tự kế thừa cổ xưa, nhằm l�m lợi cho con c�i m�nh. Nhưng chừng n�o huyết tộc vẫn được t�nh theo mẫu quyền th� điều đ� l� bất khả thi. Do đ�, chế độ mẫu quyền phải bị ph� bỏ; v� n� đ� bị ph� bỏ. Việc đ� kh�ng hề kh� khăn như ng�y nay ta vẫn tưởng. V� cuộc c�ch mạng đ�, một trong những cuộc c�ch mạng triệt để nhất m� nh�n loại từng trải qua, đ� diễn ra m� kh�ng cần động tới một th�nh vi�n c�n sống n�o của thị tộc. Mọi thứ vẫn c� thể giữ nguy�n; chỉ cần một quyết định đơn giản rằng: từ nay về sau, con c�i của th�nh vi�n nam sẽ ở lại trong thị tộc, c�n con c�i của th�nh vi�n nữ phải ra khỏi thị tộc v� chuyển sang thị tộc của cha ch�ng. Thế l� huyết tộc v� qui tắc thừa kế theo họ mẹ bị ph� bỏ, thay bằng huyết tộc v� qui tắc thừa kế theo họ cha. Cuộc c�ch mạng đ� đ� xảy ra, trong c�c d�n văn minh, v�o l�c n�o v� như thế n�o; ta kh�ng hề biết. N� ho�n to�n thuộc thời tiền sử. Nhưng việc n� đ�ng l� từng diễn ra, th� đ� được chứng minh qu� đầy đủ, bằng rất nhiều t�i liệu, nhất l� của Bachofen, về những di t�ch của chế độ mẫu quyền. N� đ� diễn ra dễ d�ng đến thế n�o, c� thể nh�n v�o h�ng loạt bộ lạc Indian ch�u Mĩ, nơi m� cuộc c�ch mạng mới chỉ vừa diễn ra, v� vẫn đang diễn ra; một phần v� sự tăng th�m của cải v� thay đổi c�ch sống (di cư từ rừng rậm ra thảo nguy�n), phần kh�c v� t�c động về đạo đức của đời sống văn minh v� c�c gi�o sĩ. Trong t�m bộ lạc Missouri, c� s�u bộ lạc x�c định huyết tộc v� thừa kế theo nam hệ, hai bộ lạc kia vẫn theo nữ hệ. Ở c�c bộ lạc Shawnee, Miami, Delaware th� c� tục lệ đặt cho con c�i một c�i t�n thuộc thị tộc của cha, để chuyển ch�ng sang thị tộc ấy, nhờ đ� ch�ng c� thể kế thừa t�i sản của cha. �C�i tr� ngụy biện vốn c� của con người! Thay đổi sự vật bằng c�ch đổi t�n ch�ng! V� t�m những kẽ hở để ph� vỡ truyền thống trong khu�n khổ của truyền thống, khi c� quyền lợi trực tiếp đủ để k�ch th�ch!� (Marx). Kết quả l� một sự hỗn loạn kh�ng cứu v�n nổi; chỉ c� thể được giải quyết, v� thật sự đ� phần n�o được giải quyết, nhờ chuyển sang chế độ phụ quyền. �N�i chung, đ� dường như l� bước chuyển tự nhi�n nhất� (Marx). [Về những l� thuyết của c�c nh� luật học so s�nh, n�i tới c�ch thực hiện bước chuyển đ� trong c�c d�n văn minh của thế giới cũ, d� ch�ng hầu như chỉ l� c�c giả thiết; th� xin xem M. Kovalevsky (�Kh�i luận về nguồn gốc v� sự ph�t triển của gia đ�nh�17a; Stockholm, 1890).] Việc chế độ mẫu quyền bị lật đổ l� thất bại có tính lịch sử toàn thế giới của nữ giới. Người đ�n �ng nắm quyền thống trị ngay cả ở trong nh�; c�n đ�n b� bị hạ xuống h�ng n� lệ, phục vụ cho dục vọng của đ�n �ng, v� l� c�ng cụ sinh đẻ đơn thuần. Địa vị thấp k�m ấy của phụ nữ - đặc biệt dễ thấy ở Hi Lạp trong thời đại anh h�ng, v� c�n r� hơn ở thời Trung cổ - đ� dần được bao biện, l�m nhẹ bớt, v� đ�i khi được phủ dưới một h�nh thức �n h�a hơn; nhưng n� vẫn kh�ng hề bị x�a bỏ. Sự thiết lập quyền thống trị tuyệt đối của đ�n �ng đ� thể hiện trước hết ở gia đ�nh gia trưởng, một h�nh thức trung gian, xuất hiện v�o thời đ�. Đặc trưng chủ yếu của h�nh thức đ� kh�ng phải l� chế độ nhiều vợ - c�i đ� sẽ được n�i tới sau; m� l�“sự tổ chức một số người, tự do và bị lệ thuộc, thành gia đình, dưới quyền lực gia trưởng của ông chủ gia đình, để chăm sóc các đàn gia súc, gia cầm... (Trong gia đình kiểu Semite), người chủ gia đình ít ra cũng sống theo chế độ nhiều vợ... Còn những nô lệ và người hầu thì đều có một vợ”1c
Những n�t ch�nh của h�nh thức gia đ�nh đ� l�: thu nhận n� lệ v� quyền lực gia trưởng, thế n�n điển h�nh ho�n thiện nhất của n� ch�nh l� gia đ�nh La M�. Nghĩa ban đầu của từ familia18 kh�ng phải l� sự kết hợp giữa t�nh cảm v� bất h�a trong gia đ�nh, như anh ch�ng philistine ng�y nay vẫn tưởng; người La M� l�c đầu thậm ch� kh�ng d�ng n� để chỉ một đ�i vợ chồng v� con c�i họ, m� d�ng để chỉ c�c n� lệ. Famulus nghĩa l� �n� lệ trong nh��, v� familia nghĩa l� to�n bộ c�c n� lệ của ai đ�. Ngay cả ở thời Gaius, familia, id est patrimonium (n� lệ, l� t�i sản được thừa kế) c�n được để lại theo di ch�c. Người La M� đặt ra danh từ đ� để chỉ một tổ chức x� hội mới, ở đ� chủ gia đ�nh thống trị vợ con v� n� lệ, nhờ quyền lực gia trưởng kiểu La M� m� c� được quyền sinh s�t đối với tất cả những người đ�.“Vậy danh từ đó không cổ hơn cái chế độ gia đình bọc sắt của các bộ lạc Latin; cái chế độ ra đời sau khi có nông nghiệp và chế độ nô lệ hợp pháp, cũng như việc người Hi Lạp và người Latin tách khỏi nhau”1d
Marx n�i th�m: �Gia đ�nh hiện đại kh�ng chỉ chứa đựng mầm mống của chế độ n� lệ (servitus), m� cả mầm mống của chế độ n�ng n� nữa, v� ngay từ đầu n� đ� gắn liền với lao dịch n�ng nghiệp. N� chứa đựng, dưới hình thức thu nhỏ, tất cả những m�u thuẫn về sau sẽ ph�t triển trong to�n x� hội v� Nh� nước của x� hội đ�. H�nh thức gia đ�nh đ� (gia đ�nh gia trưởng) đ� đ�nh dấu bước chuyển từ gia đ�nh đối ngẫu sang gia đ�nh c� thể. Để bảo đảm l�ng trung th�nh của người vợ, do đ� bảo đảm con c�i đ�ch thực l� của cha, c� ta phải phục t�ng v� điều kiện quyền lực của chồng; nếu chồng c� giết vợ đi nữa, th� anh ta cũng chỉ đang thực hiện quyền l�m chồng th�i. [Với gia đ�nh gia trưởng, ta bước v�o lĩnh vực lịch sử th�nh văn, ở đ� m�n luật học so s�nh c� thể gi�p ta rất nhiều; nhờ n� hiểu biết của ta thực sự đ� c� tiến bộ quan trọng. Nhờ c� Maksim Kovalevsky (s�ch đ� dẫn17b; tr. 60 - 100) m� ta c� được những bằng chứng về việc c�ng x� gia đ�nh gia trưởng - như ng�y nay ta vẫn thấy ở người Serbia v� người Bulgaria, c� t�n l� z�druga (tạm dịch l� �bạn b�) hay bratstvo (�anh em�); v� ở c�c d�n tộc phương Đ�ng, dưới một h�nh thức hơi kh�c - l� h�nh thức qu� độ từ gia đ�nh mẫu quyền, do chế độ quần h�n sinh ra, sang gia đ�nh c� thể trong thế giới hiện đại. Điều đ� c� vẻ đ� được chứng minh, �t ra l� đối với c�c d�n văn minh ở thế giới cũ; cũng như đối với người Arya v� Semite. Z�druga của người Slav phương Nam l� v� dụ tốt nhất vẫn c�n tồn tại về c�ng x� gia đ�nh kiểu đ�. N� bao gồm v�i thế hệ con ch�u của một người cha, c�ng với vợ con họ; tất cả sống chung trong một ng�i nh� lớn, canh t�c chung ruộng đất, ăn mặc th� lấy từ một kho chung, sản phẩm lao động thừa cũng l� của chung. C�ng x� nằm dưới quyền quản l� của chủ nh� (domačin). Anh ta đại diện cho c�ng x�, c� quyền b�n c�c đồ lặt vặt, quản l� t�i ch�nh, thế n�n cũng chịu tr�ch nhiệm tổ chức kinh doanh. Anh ta được bầu ra, v� kh�ng nhất thiết phải l� người cao tuổi nhất. Phụ nữ v� c�ng việc nội trợ nằm dưới quyền của b� chủ (domačica), thường l� vợ của domačin. Chị ta c� vai tr� quan trọng, thường l� quyết định, trong việc chọn chồng cho c�c thiếu nữ. Nhưng quyền lực tối cao lại thuộc về hội đồng gia đ�nh, tức l� hội nghị của to�n bộ c�c th�nh vi�n đ� trưởng th�nh, cả nam lẫn nữ. Chủ nh� phải b�o c�o trước hội nghị; hội nghị cũng đưa ra những quyết định quan trọng, x�t xử c�c th�nh vi�n, quyết định việc mua b�n những thứ quan trọng - đặc biệt l� nh� đất, v.v. Chỉ chừng mười năm trở lại đ�y, ở Nga, những c�ng x� gia đ�nh như thế cũng đ� được chứng minh l� vẫn c�; ng�y nay, n�i chung người ta đ� thừa nhận rằng những c�ng x� ấy đ� ăn s�u v�o phong tục của người Nga, chẳng k�m g� c�c c�ng x� n�ng th�n. Ch�ng đ� xuất hiện trong bộ luật cổ nhất nước Nga, bộ Pravda của vua Yaroslav, dưới c�i t�n vervj19, cũng như trong c�c đạo luật Dalmatia; v� trong c�c sử liệu của Ba Lan v� Czech cũng c� những dấu vết li�n quan đến ch�ng. Ở người Germania, theo Heusler (�Những nguy�n l� cơ bản của ph�p quyền Đức�20), th� đơn vị kinh tế l�c ban đầu của họ kh�ng phải l� gia đ�nh c� thể theo nghĩa hiện đại, m� cũng l� c�ng x� gia đ�nh; được hợp th�nh bởi v�i thế hệ hay v�i gia đ�nh c� thể, v� bao gồm c�c n� lệ nữa. Ng�y nay, gia đ�nh La M� cũng được xem l� bắt nguồn từ loại đ�; v� thế, quyền lực tuyệt đối của chủ nh�, cũng như việc những th�nh vi�n kh�c tuyệt đối kh�ng c� quyền g� với �ng ta, gần đ�y rất bị nghi ngờ. Những c�ng x� gia đ�nh tương tự h�nh như cũng tồn tại ở người Celt tại Ireland. Ở Ph�p, dưới c�i t�n par�onneries, c�c c�ng x� ấy vẫn được người Ni�vre duy tr� tới khi C�ch mạng Ph�p b�ng nổ; v� tới nay, ở Franche-Comte, ch�ng vẫn chưa mất hẳn. Ở v�ng Louhans (quận Sa�ne-et-Loire) cũng của Ph�p, c� cả những ng�i nh� lớn của n�ng d�n, với v�i thế hệ của một gia đ�nh sống b�n trong; gồm một sảnh lớn ở giữa, cao tới m�i nh�, xung quanh l� những ph�ng ngủ, phải leo từ s�u đến t�m bậc thang mới l�n tới. Ở Ấn Độ, kiểu c�ng x� gia đ�nh c�ng canh t�c chung ruộng đất đ� được Nearchus, ở thời Alexander Đại đế, n�i tới; ng�y nay, trong ch�nh v�ng đ� - tức l� Punjab v� cả miền T�y Bắc của Ấn Độ - ch�ng vẫn tồn tại. Kovalevsky cũng đ� chứng minh được sự tồn tại của c�c c�ng x� như thế ở Kavkaz. Ch�ng cũng c� ở người Kabyle tại Algeria. C� thể ch�ng cũng c� ở ch�u Mĩ: c�c calpulli ở Mexico thời cổ, m� Zurita từng m� tả, cũng giống như c�c c�ng x� n�i tr�n. Mặt kh�c, Cunow (tr�n tờ �Ausland�, 1890, số 42-44) cũng chứng minh kh� r�: ở Peru, v�o thời trước khi nước n�y bị x�m chiếm, đ� c� một chế độ gần giống chế độ mark (k� lạ ở chỗ n� được gọi l� marca), theo đ� người ta ph�n chia ruộng đất định k�, vậy l� đ� c� canh t�c c� thể. D� sao th� c�ng x� gia đ�nh gia trưởng, với chế độ sở hữu chung v� canh t�c chung ruộng đất, giờ đ�y đ� c� một � nghĩa kh�c hẳn so với trước kia. Ta kh�ng thể nghi ngờ vai tr� của n�, với tư c�ch một h�nh thức qu� độ, giữa gia đ�nh mẫu quyền v� gia đ�nh c� thể. Sau n�y, ta sẽ n�i tới một kết luận kh�c nữa của Kovalevsky, rằng c�ng x� gia đ�nh gia trưởng cũng l� h�nh thức qu� độ; m� từ đ� c�ng x� l�ng mạc - hay l� c�ng x� mark - đ� ph�t sinh, c�ng với đ� l� việc canh t�c c� thể v� ph�n chia ruộng đất cũng như đồng cỏ - l�c đầu l� định k�, về sau l� vĩnh viễn. Về sinh hoạt gia đ�nh trong c�c c�ng x� tr�n, th� phải ch� � rằng: �t nhất l� ở Nga, c�c chủ gia đ�nh đ� nổi tiếng về việc lạm dụng quyền lực của m�nh đối với c�c thiếu phụ, đặc biệt l� với con d�u m�nh, v� thường d�ng họ l�m hậu cung; về điểm n�y, c�c d�n ca Nga đ� n�i l�n kh�ng �t.] Trước khi n�i về chế độ h�n nh�n c� thể, c�i chế độ đ� ph�t triển mau ch�ng sau khi mẫu quyền bị lật đổ, ta sẽ n�i qua về chế độ nhiều vợ v� chế độ nhiều chồng. Ch�ng đều chỉ c� thể l� những ngoại lệ, những xa xỉ phẩm của lịch sử; trừ khi ch�ng c�ng tồn tại trong một xứ, m� điều n�y th� đương nhi�n kh�ng thể c�. V� những người đ�n �ng bị chế độ nhiều vợ loại ra kh�ng thể t�m thấy sự an ủi với những người đ�n b� bị loại ra do chế độ nhiều chồng, v� v� nếu x�t tới kết cấu x� hội, th� xưa nay số đ�n �ng v� số đ�n b� vẫn xấp xỉ nhau; n�n cố nhi�n l� trong hai h�nh thức ấy, kh�ng c� c�i n�o trở n�n phổ biến được. Sự thật th� chế độ nhiều vợ l� sản vật của chế độ n� lệ, v� n� chỉ c� ở một v�i người c� địa vị đặc biệt th�i. Trong gia đ�nh gia trưởng kiểu Semite, th� chỉ người chủ gia đ�nh, v� c�ng lắm l� một v�i đứa con trai của �ng ta, mới c� nhiều vợ; những người kh�c đ�nh phải bằng l�ng với chỉ một vợ. Ở khắp phương Đ�ng ng�y nay vẫn vậy, c� nhiều vợ l� đặc quyền của bọn gi�u c� v� qu� tộc, được thực hiện chủ yếu nhờ việc mua t� thiếp; c�n quần ch�ng th� sống một vợ một chồng. Một ngoại lệ tương tự l� chế độ nhiều chồng ở Ấn Độ v� T�y Tạng; vấn đề nguồn gốc của chế độ ấy, bắt đầu từ chế độ quần h�n10d, sẽ đ�i hỏi sự nghi�n cứu s�u hơn nữa, v� hẳn l� sẽ rất l� th�. Thực ra, n� c�n dễ lượng thứ hơn c�i chế độ hậu cung đầy rẫy ghen tu�ng của người Hồi gi�o. D� sao th� ở người Nair tại Ấn Độ, khi ba hay bốn người đ�n �ng c� chung một vợ, th� mỗi người trong bọn họ lại c� thể c� chung vợ thứ hai với một nh�m ba (hay nhiều hơn) người đ�n �ng kh�c; rồi vợ thứ ba, thứ tư, ... cũng vậy. Đ�ng ngạc nhi�n l� McLennan, trong khi mi�u tả những hội h�n nh�n ấy, m� một người c� thể thuộc v�i hội; lại kh�ng ph�t hiện được một phạm tr� mới, phạm tr� hôn nhân phường hội! Nhưng chế độ �h�n nh�n phường hội� ấy quyết kh�ng phải l� chế độ nhiều chồng thực sự; ngược lại, như Giraud-Teulon đ� chỉ ra, n� l� một h�nh thức đặc biệt của chế độ quần h�n: đ�n �ng sống theo chế độ nhiều vợ, c�n đ�n b� sống theo chế độ nhiều chồng. 4. Gia đình cá thể. Như đ� n�i ở tr�n, gia đ�nh c� thể (một vợ một chồng) nảy sinh từ gia đ�nh đối ngẫu, v�o khoảng giữa hai giai đoạn giữa v� cao của thời d� man; thắng lợi quyết định của n� l� một trong những dấu hiệu cho biết thời văn minh đ� bắt đầu. Gia đ�nh ấy dựa tr�n sự thống trị của đ�n �ng, với chủ đ�ch r� r�ng l� con c�i phải c� cha đẻ x�c thực; người ta đ�i hỏi điều đ�, v� những đứa con ấy sau n�y sẽ nhận được t�i sản của cha, với tư c�ch người thừa kế đương nhi�n. N� kh�c gia đ�nh đối ngẫu ở chỗ quan hệ vợ chồng đ� chặt chẽ hơn rất nhiều, hai b�n kh�ng thể t�y � bỏ nhau nữa. Hiện nay theo lệ thường, chỉ chồng mới c� thể chấm dứt h�n nh�n v� bỏ vợ. Vả lại, anh ta vẫn c� quyền ngoại t�nh, d� chỉ l� nhờ tập qu�n (Code Napol�on r� r�ng đ� cho ph�p đ�n �ng l�m việc đ�, miễn l� đừng mang t�nh nh�n về nh�21); x� hội c�ng ph�t triển th� anh ta lại c�ng thực hiện quyền đ�. C�n nếu người vợ lại nhớ tới h�nh thức sinh hoạt t�nh giao cổ xưa, v� muốn kh�i phục n�; th� c� ta sẽ bị trừng phạt t�n khốc hơn bất k� thời n�o trước kia. Ta c� thể thấy h�nh thức gia đ�nh mới đ�, với tất cả sự khắc nghiệt của n�, ở người Hi Lạp. Trong khi vị tr� của c�c nữ thần trong thần thoại Hi Lạp - như Marx chỉ ra - đ� biểu hiện một thời k� cổ hơn, khi người đ�n b� c�n c� địa vị tự do hơn v� được t�n trọng hơn; th� ở thời đại anh h�ng, ta thấy phụ nữ bị rẻ r�ng bởi sự thống trị của đ�n �ng v� bởi sự cạnh tranh của nữ n� lệ22. [Chỉ cần đọc �Odyssey� l� thấy Telemachus đ� ngắt lời mẹ v� bắt mẹ phải im tiếng như thế n�o. Trong t�c phẩm của Homer, những thiếu phụ bị bắt đều phải chịu đựng mọi tr� x�c thịt của kẻ chiến thắng; bọn tướng lĩnh t�y theo cấp bậc m� chọn lấy những người đẹp nhất; ai cũng biết to�n bộ cuốn �Iliad� chỉ xoay quanh cuộc tranh chấp một nữ n� lệ, giữa Agamemnon v� Achilles. Mỗi anh h�ng �t nhiều quan trọng của Homer đều c� một nữ t� binh trẻ chung trướng chung giường. Họ cũng mang những c� g�i ấy về Hi Lạp, cho sống trong nh� như một người vợ, v� dụ Agamemnon đem Cassandra về, trong t�c phẩm của Aeschylus23. Con trai của c�c nữ n� lệ ấy cũng được thừa kế một phần nhỏ t�i sản của cha, v� được coi l� người ho�n to�n tự do; như Teucer, con của Telamon, vẫn c� quyền lấy họ của cha. Người vợ ch�nh thức bị đ�i hỏi phải chịu đựng tất cả những việc ấy, nhưng bản th�n c� ta lại phải ho�n to�n chung thủy v� tiết hạnh. Thực ra, phụ nữ Hi Lạp ở thời đại anh h�ng vẫn được t�n trọng hơn ở thời văn minh; nhưng đối với chồng, th� x�t đến c�ng họ cũng chỉ l� mẹ của những đứa con (cũng l� những người thừa kế) hợp ph�p, l� quản gia ch�nh, l� người cai quản c�c nữ n� lệ - m� chồng m�nh, nếu th�ch, c� thể lấy v� thực sự đ� lấy l�m thiếp. Ch�nh sự tồn tại của chế độ n� lệ b�n cạnh chế độ một vợ một chồng, sự xuất hiện những nữ n� lệ trẻ đẹp, ho�n to�n thuộc về đàn ông; ngay từ đầu đ� khiến chế độ một vợ một chồng c� một t�nh chất đặc biệt: n� chỉ đ�ng với đàn bà th�i, chứ kh�ng đ�ng với đ�n �ng. T�nh chất ấy vẫn c�n đến tận ng�y nay. Đối với người Hi Lạp thời đại sau, ta phải ph�n biệt giữa người Doric v� người Ionia. Với người Doric, ti�u biểu l� Sparta, những quan hệ h�n nh�n - về nhiều mặt - c�n cổ hơn cả những quan hệ m� Homer m� tả. Ở người Sparta c� h�nh thức h�n nh�n đối ngẫu, đ� được sửa đổi theo quan điểm của họ về Nh� nước, v� vẫn c�n những vết t�ch của chế độ quần h�n. Những cuộc h�n nh�n kh�ng c� con c�i đều bị x�a bỏ: vua Anaxandridas II đ� lấy vợ thứ hai, khi người vợ đầu kh�ng c� con, v� vẫn giữ cả hai người; vua Ariston, v� hai vợ đầu đều kh�ng sinh đẻ, đ� lấy th�m vợ thứ ba, nhưng lại bỏ một trong hai người vợ trước. Mặt kh�c, mấy anh em trai c� thể chung một vợ, v� bạn b� cũng thế; người ta cho rằng trao vợ m�nh cho một �con ngựa đực� khỏe mạnh - như Bismarck hay n�i - l� cử chỉ lịch sự, d� người đ� kh�ng phải l� c�ng d�n cũng vậy. Một đoạn văn của Plutarch kể: một người phụ nữ Sparta đ� n�i với anh ch�ng t�n tỉnh m�nh l� h�y đến m� hỏi chồng c� ta; theo Schamann, đoạn ấy h�nh như c�n biểu lộ sự tự do lớn hơn nhiều. V� thế, chưa ai từng nghe n�i đến việc b� mật ngoại t�nh của người đ�n b�. Mặt kh�c, ở Sparta, �t ra v�o thời hưng thịnh nhất, kh�ng hề c� n� lệ trong nh�; c�c n� lệ (helot) đều ở trong những khu ri�ng, v� người Sparta �t bị c�m dỗ bởi việc lợi dụng vợ c�c n� lệ ấy. Hẳn l� v� những điều kiện tr�n, phụ nữ Sparta c� một địa vị đ�ng k�nh hơn bất cứ nơi n�o kh�c ở Hi Lạp. Phụ nữ Sparta, v� bộ phận ưu t� của c�c kĩ nữ th�nh Athens, l� những phụ nữ Hi Lạp duy nhất được người ta nhắc tới một c�ch k�nh cẩn; v� lời n�i của họ được cho l� đ�ng ghi nhớ. Ở người Ionia, m� Athens l� điển h�nh, th� lại kh�c hẳn. Con g�i chỉ học k�o sợi, dệt vải, may v�, c�ng lắm th� học đọc học viết ch�t �t. Họ hầu như bị cấm cung v� kh�ng giao tiếp với bất k� ai, trừ những người đ�n b� kh�c. Khu� ph�ng nằm ở g�c tr�n hoặc nh� trong, l� một phần ri�ng biệt, đ�n �ng - nhất l� người lạ - kh�ng dễ g� v�o được; đ� l� nơi phụ nữ l�nh mặt khi c� kh�ch đ�n �ng. Phụ nữ kh�ng bao giờ ra ngo�i m� kh�ng c� nữ t� đi theo, ở trong nh� th� họ được tr�ng nom chặt chẽ. Aristophanes (�Phụ nữ ở lễ hội Thesmophoria�24) c� n�i về lo�i ch� được nu�i để l�m những kẻ ngoại t�nh phải kinh sợ; �t nhiều ở c�c th�nh thị ch�u �, bọn người bị hoạn đ� được d�ng để gi�m s�t phụ nữ; việc sản xuất v� bu�n b�n bọn người đ� đ� trở th�nh một ng�nh c�ng nghiệp ở Chios, v� theo Wachsmuth th� kh�ng phải chỉ c� c�c d�n d� man mới mua thứ h�ng đ�. Trong t�c phẩm của Euripides25, vợ được gọi l� Oikurema, một vật (đ�y l� danh từ giống trung) chuy�n lo việc gia đ�nh; v� đối với đ�n �ng Athens th� họ, ngo�i việc đẻ con, chỉ l� con hầu ch�nh trong nh�. Đ�n �ng được tham gia c�c hoạt động thể chất v� x� hội, c�n phụ nữ th� bị cấm. Hơn nữa, đ�n �ng thường c� nhiều nữ n� lệ; v� ở Athens, v�o thời hưng thịnh nhất, chế độ mại d�m c�n rất thịnh h�nh v� �t ra cũng được Nh� nước bảo hộ. Ch�nh tr�n cơ sở chế độ mại d�m đ�, những phụ nữ Hi Lạp si�u quần xuất ch�ng đ� xuất hiện; họ vượt rất xa tr�nh độ chung của phụ nữ thời cổ về tr� tuệ v� t�i năng nghệ thuật, cũng như phụ nữ Sparta đ� vượt về mặt địa vị. Nhưng việc người phụ nữ phải trở th�nh kĩ nữ trước đ� - nếu muốn trở th�nh người phụ nữ thực sự - ch�nh l� bản �n nặng nhất d�nh cho gia đ�nh Athens. Qua thời gian, gia đ�nh Athens ấy đ� trở th�nh kiểu mẫu cho những quan hệ gia đ�nh; kh�ng chỉ với người Ionia m� c�n với tất cả những người Hi Lạp, ở trong nước hay ở c�c thuộc địa.] Mặc d� bị cấm cung v� gi�m s�t, phụ nữ Hi Lạp vẫn t�m được nhiều dịp để lừa dối chồng. C�n đ�n �ng, vốn thường xấu hổ khi b�y tỏ ch�t t�nh cảm với vợ, th� lại ti�u khiển bằng đủ tr� trăng hoa với c�c kĩ nữ. Nhưng sự sỉ nhục đối với phụ nữ đ� được b�o ứng, trở th�nh sự sỉ nhục đối với ch�nh đ�n �ng; n� khiến họ rơi v�o c�i tệ k� gian, v� l�m � danh ch�nh m�nh - c�ng với c�c vị thần của m�nh - bằng truyền thuyết về Ganymede. Đ� l� nguồn gốc của chế độ h�n nh�n c� thể; theo những g� m� ta truy nguy�n được từ một d�n tộc văn minh nhất, ph�t triển nhất ở thời cổ đại. N� quyết kh�ng phải l� kết quả của t�nh y�u nam nữ, tuyệt nhi�n kh�ng d�nh ch�t n�o đến c�i t�nh y�u đ�; hệt như trước, h�n nh�n vẫn mang t�nh vụ lợi. N� cũng l� h�nh thức gia đ�nh đầu ti�n dựa tr�n cơ sở c�c điều kiện kinh tế26 (chứ kh�ng phải c�c điều kiện tự nhi�n); [tức l� dựa tr�n thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ c�ng hữu tự nhi�n, nguy�n thủy]. Người Hi Lạp tự họ đ� đặt ra vấn đề một c�ch rất thẳng thắn: mục đ�ch duy nhất của chế độ h�n nh�n c� thể l� để đ�n �ng thống trị gia đ�nh; v� để những đứa con sinh ra chỉ c� thể l� của người chồng, v� sau n�y ch�ng sẽ kế thừa t�i sản của cha. C�n th� với họ, h�n nh�n chỉ l� g�nh nặng, l� nghĩa vụ m� họ phải thực hiện - d� muốn hay kh�ng - đối với c�c vị thần, Nh� nước, v� tổ ti�n. [Ở Athens, luật ph�p kh�ng chỉ bắt đ�n �ng lấy vợ, m� c�n bắt họ phải l�m phần tối thiểu của c�i gọi l� �nghĩa vụ vợ chồng�.] Vậy, chế độ h�n nh�n c� thể quyết kh�ng xuất hiện trong lịch sử với tư c�ch l� sự kết hợp giữa đ�n �ng v� đ�n b�, lại c�ng kh�ng phải l� h�nh thức cao nhất của sự kết hợp đ�. Ngược lại, n� xuất hiện như l� sự n� dịch của giới n�y với giới kia; n� tuy�n bố cuộc đấu tranh giữa hai giới, một cuộc đấu tranh chưa từng được biết tới trước kia. Trong một bản thảo cũ chưa in27 do t�i v� Marx viết năm 1846, c� c�u: �Sự ph�n c�ng lao động đầu ti�n l� giữa đ�n �ng v� đ�n b�, trong việc sinh con đẻ c�i�. V� giờ th� t�i c� thể th�m: đối kh�ng giai cấp đầu ti�n, xuất hiện trong lịch sử, ăn khớp với sự ph�t triển của đối kh�ng giữa hai giới trong chế độ h�n nh�n c� thể; v� sự �p bức giai cấp đầu ti�n cũng ăn khớp với sự �p bức của đ�n �ng với đ�n b�. Chế độ h�n nh�n c� thể l� một bước tiến lịch sử lớn lao, nhưng đồng thời với chế độ n� lệ v� tư hữu, n� cũng mở ra một thời k� k�o d�i tới tận ng�y nay; trong đ�, mỗi bước tiến đồng thời cũng l� một bước l�i, sự phồn vinh v� ph�t triển của kẻ n�y l� nhờ sự khốn c�ng v� diệt vong của kẻ kh�c m� c� được. Gia đ�nh c� thể l� tế b�o của x� hội văn minh, v� nhờ c� gia đ�nh c� thể m� bản chất của những m�u thuẫn v� đối lập của x� hội văn minh - hiện đang ph�t triển cao độ - đ� được nghi�n cứu. C�i tự do tương đối trước kia trong quan hệ t�nh giao - bất chấp thắng lợi của h�n nh�n đối ngẫu, v� cả h�n nh�n c� thể - vẫn kh�ng hề mất hẳn:“Chế độ hôn nhân cổ xưa, giờ đã bị thu lại trong một phạm vi nhỏ hẹp, do các nhóm punalua biến mất dần; nhưng nó vẫn kìm hãm sự phát triển của gia đình cho đến tận ngưỡng cửa của thời văn minh... Cuối cùng thì nó biến mất trong một hình thức tạp hôn mới; hình thức này đã đeo đuổi loài người trong thời văn minh, như một cái bóng của gia đình”1e
Morgan d�ng từ �tạp h�n� để chỉ quan hệ t�nh giao ngo�i h�n nh�n, v� tồn tại song song với h�n nh�n; ch�ng đ� thịnh h�nh dưới những h�nh thức hết sức kh�c nhau trong cả thời văn minh, ph�t triển hơn nữa th�nh chế độ mại d�m c�ng khai. [H�nh thức tạp h�n đ� bắt nguồn trực tiếp từ chế độ quần h�n; từ việc phụ nữ phải thực hiện nghi lễ hiến th�n để c� được quyền thủ tiết. L�c đầu, việc hiến th�n v� tiền l� một h�nh vi t�n gi�o, diễn ra trong đền thờ Nữ thần T�nh y�u, v� số tiền thu được th� đều sung v�o quĩ của đền. C�c nữ t� trong đền Anaitis ở Armenia, trong đền Aphrodites ở Corinth, cũng như c�c vũ nữ t�n gi�o (được gọi l� bayad�re; biến �m từ chữ bailadeira, nghĩa l� �vũ nữ�, của tiếng Bồ Đ�o Nha) trong c�c đền ở Ấn Độ; họ l� những người mại d�m đầu ti�n. Hiến th�n cho người lạ, l�c đầu l� nghĩa vụ của mọi phụ nữ, th� giờ đ�y c�c nữ tu đ� l�m thay họ. Ở nhiều d�n kh�c, chế độ tạp h�n xuất hiện từ việc tự do t�nh giao m� c�c c� g�i được ph�p thực hiện trước khi lấy chồng; đ� cũng l� t�n t�ch của chế độ quần h�n, nhưng được truyền lại theo c�ch kh�c. Từ khi c� sự ch�nh lệch về của cải - tức l� ngay từ giai đoạn cao của thời d� man - lao động l�m thu� đ� xuất hiện lẻ tẻ, b�n cạnh lao động của n� lệ; th� đồng thời v� tất yếu, nghề mại d�m của phụ nữ tự do cũng xuất hiện, b�n cạnh việc hiến th�n bắt buộc của nữ n� lệ. V� thế, di sản m� chế độ quần h�n để lại cho thời văn minh c� hai mặt; cũng như mọi c�i m� thời văn minh đẻ ra đều tự chia th�nh 2 mặt đối lập. Di sản ấy, một mặt l� chế độ h�n nh�n c� thể, mặt kh�c l� tục tạp h�n với h�nh thức cực đoan nhất: tệ m�i d�m.] Chế độ tạp h�n l� một thiết chế x� hội, cũng như mọi thiết chế x� hội kh�c; n� duy tr� c�i tự do t�nh giao cũ, c� lợi cho đ�n �ng. N� kh�ng chỉ được dung thứ, m� c�n được thực h�nh rộng r�i, nhất l� trong c�c giai cấp thống trị; v� chỉ bị l�n �n tr�n đầu lưỡi th�i. Nhưng sự l�n �n đ� thực ra kh�ng nhằm v�o người đ�n �ng, m� l� người đ�n b�; họ bị x� hội khinh miệt v� ruồng bỏ, để c�i đạo luật cơ bản của x� hội - sự thống trị v� điều kiện của đ�n �ng đối với đ�n b� - được tuy�n bố th�m một lần nữa. [Nhưng một m�u thuẫn thứ hai cũng ph�t triển trong l�ng chế độ h�n nh�n c� thể. B�n cạnh người chồng d�ng việc tạp h�n để t� điểm cho cuộc sống của m�nh, th� c� người vợ bị ruồng bỏ.] Kh�ng thể chỉ c� một mặt của m�u thuẫn, m� kh�ng c� mặt kia; cũng như kh�ng thể cầm một quả t�o nguy�n vẹn trong tay, khi đ� ăn hết một nửa. Nhưng c� vẻ người chồng kh�ng nghĩ thế, cho tới khi vợ họ mở mắt cho họ. Với h�n nh�n c� thể, hai loại người cố định trong x� hội, trước kia chưa từng được biết đến, giờ đ� xuất hiện: người t�nh của vợ v� người chồng bị cắm sừng. Người chồng đ� thắng người vợ, nhưng kẻ thua lại h�o hiệp ban thưởng cho kẻ thắng. C�ng với chế độ h�n nh�n c� thể v� tạp h�n, ngoại t�nh đ� trở th�nh một hiện tượng x� hội kh�ng thể tr�nh được: bị l�n �n, bị trừng trị khốc liệt, song kh�ng bị trừ tận gốc. Việc x�c định cha đẻ của những đứa con, vẫn như ng�y trước, c�ng lắm th� chỉ dựa v�o niềm tin đạo đức; v� để giải quyết c�i m�u thuẫn kh�ng thể giải quyết được ấy, điều 312 Code Napol�on đ� qui định:“L'enfant conçu pendant le mariage, a pour père le mari” (Đứa con thụ thai trong thời gian kết hôn thì cha nó là người chồng)
Kết quả cuối c�ng của chế độ h�n nh�n c� thể, sau ba ngh�n năm tồn tại, l� như thế đấy. Vậy, khi n�o gia đ�nh c� thể c�n giữ đ�ng nguồn gốc lịch sử của n�, v� c�n biểu hiện - th�ng qua sự thống trị tuyệt đối của đ�n �ng - m�u thuẫn giữa hai giới; th� khi đ� n� ch�nh l� h�nh ảnh thu nhỏ của những đối lập v� m�u thuẫn, m� x� hội c� giai cấp - từ đầu thời văn minh - đ� vận động trong đ�, v� kh�ng thể giải quyết hay khắc phục ch�ng. Tất nhi�n t�i chỉ n�i tới những trường hợp h�n nh�n c� thể đ� diễn ra theo đ�ng c�c đặc trưng ban đầu của n�, ở đ� chỉ c� người vợ đứng l�n chống lại sự thống trị của người chồng. Kh�ng phải cuộc h�n nh�n n�o cũng như vậy, v� kh�ng ai hiểu r� điều ấy hơn ch�ng philistine người Đức, l� kẻ kh�ng biết l�m chủ trong nh� cũng như trong nước; v� thế vợ anh ta ho�n to�n c� quyền nắm lấy c�i địa vị đ�n �ng m� anh ta kh�ng đ�ng c�. Nhưng để tự an ủi, anh ta cho l� m�nh c�n kh� hơn rất nhiều so với anh bạn Ph�p, người c�n thường gặp phải những điều tồi tệ hơn. Vả lại, h�n nh�n c� thể kh�ng phải l�c n�o v� ở đ�u cũng mang c�i h�nh thức cổ điển h� khắc như kiểu Hi Lạp. Với người La M� - sau n�y trở th�nh kẻ thống trị thế giới, n�n c� tầm nh�n rộng hơn (nhưng kh�ng s�u bằng) người Hi Lạp - th� phụ nữ tự do hơn v� được k�nh trọng hơn. Đ�n �ng La M� tin rằng quyền sinh s�t của m�nh đối với vợ l� đủ để đảm bảo sự chung thủy của họ. Hơn nữa, ở La M�, người vợ cũng b�nh đẳng với chồng khi muốn hủy bỏ h�n nh�n. Tuy thế, bước tiến lớn nhất trong sự ph�t triển của h�n nh�n c� thể chắc chắn đ� diễn ra khi người Germania bước v�o vũ đ�i lịch sử; ở họ, chắc l� v� t�nh trạng ngh�o n�n, n�n h�n nh�n c� thể c� vẻ chưa ho�n to�n ph�t triển từ h�n nh�n đối ngẫu. Ch�ng t�i suy ra c�i đ� từ ba sự kiện m� Tacitus từng n�i tới. Một l�, d� h�n nh�n rất được t�n s�ng, �đ�n �ng thỏa m�n với một vợ, đ�n b� bị tiết hạnh r�ng buộc�, nhưng chế độ nhiều vợ vẫn thịnh h�nh trong bọn qu� tộc v� thủ lĩnh bộ lạc; t�nh trạng n�y cũng giống với d�n bản xứ ch�u Mĩ, ở đ� h�n nh�n đối ngẫu vẫn phổ biến. Hai l�, ở người Germania l�c đ�, việc chuyển từ mẫu quyền sang phụ quyền chỉ vừa mới được thực hiện, v� anh em trai về b�n mẹ - người họ h�ng nam giới gần nhất theo mẫu hệ - hầu như được coi l� th�n th�ch hơn cả cha đẻ; việc n�y ph� hợp với quan điểm của người Indian ch�u Mĩ; như Marx thường n�i: nhờ họ m� �ng đ� t�m ra ch�a kh�a để hiểu được thời nguy�n thủy của ch�ng ta. Ba l�, phụ nữ rất được t�n trọng ở người Germania, v� cũng c� ảnh hưởng lớn tới c�ng việc chung; điều n�y tr�i hẳn với sự thống trị của đ�n �ng trong chế độ h�n nh�n c� thể. [Hầu như ở tất cả c�c điểm tr�n, người Germania cũng giống với người Sparta; ở họ chế độ h�n nh�n đối ngẫu cũng chưa mất hẳn, như ta đ� biết.] Vậy l� cả về mặt n�y, một t�c động ho�n to�n mới cũng đ� thống trị thế giới, c�ng với sự xuất hiện của người Germania. Chế độ h�n nh�n c� thể mới, ph�t triển từ sự h�a lẫn c�c d�n tộc trong đống t�n t�ch của thế giới La M�, đ� che đậy sự thống trị của đ�n �ng bằng những h�nh thức �m dịu hơn; v� đem lại cho phụ nữ một địa vị tự do hơn v� được t�n trọng hơn, �t ra l� ở bề ngo�i, so với thời cổ đại. Chỉ từ l�c n�y, mới c� những điều kiện cần thiết để từ chế độ h�n nh�n c� thể - trong l�ng n�, song song với n�, hay ngược với n�; c�i đ� c�n t�y từng trường hợp - một bước tiến đạo đức lớn nhất đ� đạt được, v� ta đ� nhờ cậy được nhiều từ n�: đ� ch�nh l� t�nh y�u hiện đại giữa nam v� nữ, c�i m� trước kia cả thế giới đều chưa biết tới. Nhưng bước tiến đ� nhất định đ� nảy sinh từ thực tế sau: người Germania vẫn ở thời k� gia đ�nh đối ngẫu; v� trong chừng mực c� thể, họ đ� gh�p c�i địa vị của người đ�n b� (ứng với gia đ�nh đối ngẫu) v�o gia đ�nh c� thể. N� dứt kho�t kh�ng nảy sinh từ c�i đức hạnh c� t�nh huyền thoại v� sự thuần khiết k� diệu về đạo đức trong đặc điểm của người Germania; đặc điểm ấy chẳng qua chỉ l� việc h�n nh�n đối ngẫu kh�ng bị vướng v�o những m�u thuẫn đạo đức gay gắt của h�n nh�n c� thể. Tr�i lại, trong qu� tr�nh di cư của m�nh, người Germania đ� bị sa đọa rất nhiều về đạo đức; đặc biệt khi họ đi theo hướng Đ�ng Nam, tới c�c thảo nguy�n gần biển Đen, v�ng của c�c d�n du mục; họ học được từ c�c d�n đ� kh�ng chỉ thuật cưỡi ngựa m� c�n nhiều tật xấu phản tự nhi�n, như Ammianus n�i về người Taifals, hay Procopius n�i về người Heruls. Nhưng nếu gia đ�nh c� thể l� h�nh thức duy nhất, trong mọi h�nh thức gia đ�nh m� ta biết, m� từ đ� t�nh y�u nam nữ hiện đại c� thể ph�t triển; th� điều đ� kh�ng c� nghĩa l� trong h�nh thức đ�, thứ t�nh y�u ấy đ� ph�t triển - ho�n to�n hay chủ yếu - dưới dạng t�nh vợ chồng. Điều đ� đ� bị ch�nh bản chất của chế độ h�n nh�n c� thể nghi�m ngặt, ấy l� sự thống trị của đ�n �ng, loại trừ rồi. Trong tất cả c�c giai cấp chủ động của lịch sử, tức l� c�c giai cấp thống trị, th� việc kết h�n vẫn hệt như thời h�n nh�n đối ngẫu: n� l� vấn đề lợi �ch v� do cha mẹ thu xếp. H�nh thức đầu ti�n của t�nh y�u nam nữ, xuất hiện trong lịch sử như l� sự say m�, hơn nữa lại l� sự say m� rất tự nhi�n của bất k� ai (�t ra l� thuộc giai cấp thống trị), v� l� h�nh thức cao nhất của ham muốn t�nh giao (đ�y ch�nh l� t�nh chất đặc biệt của t�nh y�u); h�nh thức đầu ti�n của t�nh y�u nam nữ ấy, tức l� t�nh y�u kiểu hiệp sĩ thời Trung cổ, lại ho�n to�n kh�ng phải l� t�nh vợ chồng. Tr�i lại, t�nh y�u ấy, dưới h�nh thức cổ điển ở người Provence, lại đi thẳng đến tệ ngoại t�nh; v� c�c nh� thơ t�nh lại ca ngợi điều đ�. Tinh hoa của thơ t�nh miền Provence ch�nh l� c�c alba (�kh�c ca b�nh minh�, tiếng Đức l� Tagelied). Với những m�u sắc rực rỡ, ch�ng m� tả ch�ng hiệp sĩ nằm b�n người đẹp của m�nh, tức l� vợ người kh�c; trong khi một người đứng canh ở ngo�i sẽ gọi khi b�nh minh l�n (alba), để anh ta lẻn ra ngo�i m� kh�ng ai nh�n thấy; tiếp đ� l� cảnh chia tay, cao tr�o của b�i thơ. Người Ph�p miền Bắc, v� cả người Đức đ�ng k�nh đều đ� kế tục kiểu thơ ấy, c�ng với thứ t�nh y�u kiểu hiệp sĩ đ�. L�o thi sĩ Wolfram von Eschenbach đ� để lại cho ta ba Tagelied tuyệt đẹp về c�i đề t�i sai tr�i đ�, v� t�i c�n th�ch ch�ng hơn cả ba thi�n anh h�ng ca d�i của �ng. Ng�y nay, c� hai c�ch để tiến h�nh một cuộc h�n nh�n tư sản. Ở c�c nước theo đạo Thi�n Ch�a, vẫn như trước, cha mẹ t�m cho cậu con tư sản của m�nh một c� vợ xứng đ�ng; v� dĩ nhi�n, kết quả l� c�c m�u thuẫn cố hữu của chế độ h�n nh�n c� thể đ� ph�t triển đầy đủ nhất: chồng tạp h�n bừa b�i, vợ ngoại t�nh lu b�. Nh� thờ Thi�n Ch�a gi�o cấm li h�n c� lẽ chỉ v� n� thấy rằng kh�ng c� c�ch g� trị được ngoại t�nh, hệt như kh�ng c� c�ch g� trị được c�i chết. Mặt kh�c, ở c�c nước theo đạo Tin L�nh, thường th� cậu con tư sản được �t nhiều tự do để chọn vợ từ những người c�ng giai cấp; n�n c� thể c� một mức độ y�u đương n�o đ� trong việc h�n nh�n, v� thực ra n� lu�n được giả định - một c�ch ph� hợp với tinh thần đạo đức giả của đạo Tin L�nh - để giữ thể diện. Ở đ�y, việc tạp h�n của chồng th� lặng lẽ hơn, v� sự ngoại t�nh của vợ cũng �t phổ biến hơn. Nhưng trong mọi h�nh thức h�n nh�n, con người vẫn như trước khi lấy nhau, v� v� đ�m tư sản ở c�c nước Tin L�nh hầu hết đều l� philistine; n�n c�i h�n nh�n c� thể kiểu Tin L�nh đ�, x�t cả những trường hợp tốt nhất, n�i chung đều chỉ dẫn tới một cuộc sống buồn tẻ ch�n ngắt giữa hai vợ chồng, được coi l� �hạnh ph�c gia đ�nh�. Tấm gương phản �nh r� nhất hai h�nh thức kết h�n đ�, l� tiểu thuyết: tiểu thuyết Ph�p với kiểu Thi�n Ch�a, tiểu thuyết Đức28 với kiểu Tin L�nh. Ở cả hai loại, nh�n vật nam ch�nh đều c� được �n�ng�: theo kiểu Đức, th� ch�ng thanh ni�n được c� thiếu nữ; theo kiểu Ph�p, th� anh chồng được cắm sừng. Cũng kh� m� n�i được l� ai thiệt hơn ai. Thế n�n ch�ng tư sản Ph�p cũng khiếp sợ c�i tẻ ngắt trong tiểu thuyết Đức, kh�ng k�m g� ch�ng philistine Đức khiếp sợ c�i �v� đạo đức� trong tiểu thuyết Ph�p. Nhưng giờ đ�y, khi �Berlin l� một đ� thị thế giới�, th� tiểu thuyết Đức đ� bớt rụt r� hơn với tạp h�n v� ngoại t�nh, l� những c�i người ta đ� quen thuộc. Nhưng trong cả hai trường hợp, h�n nh�n đều bị qui định bởi địa vị giai cấp của mỗi b�n; thế n�n n� vẫn lu�n l� v� lợi �ch. [Cũng ở cả hai trường hợp, c�i h�n nh�n vụ lợi đ� thường biến th�nh tệ mại d�m th� bỉ nhất, c� thể l� của cả hai b�n, nhưng chủ yếu l� của người đ�n b�; người ấy chỉ kh�c với g�i điếm ở chỗ l� kh�ng b�n m�nh từng lần một, như người nữ c�ng nh�n b�n sức lao động, m� b�n m�nh m�i m�i, như một n� lệ. V� với mọi cuộc h�n nh�n vụ lợi, c�u của Fourier đều đ�ng:“Hệt như trong ngữ pháp, hai phủ định tạo nên một khẳng định; với đạo đức vợ chồng, hai tệ mại dâm tạo nên một đức hạnh”29]
Chỉ trong c�c giai cấp bị �p bức, m� ng�y nay l� giai cấp v� sản, th� t�nh y�u nam nữ mới c� thể l� (v� thực tế đang l�) một qui tắc thật sự trong c�c quan hệ với người phụ nữ; bất kể c�c quan hệ ấy c� được ch�nh thức thừa nhận hay kh�ng. Nhưng ở đ�y, mọi cơ sở của chế độ h�n nh�n c� thể điển h�nh đều bị x�a sạch. Ở đ�y kh�ng c� t�i sản n�o hết, m� h�n nh�n c� thể v� sự thống trị của đ�n �ng được lập ra để duy tr� v� thừa kế t�i sản; v� thế kh�ng c� động cơ g� để lập ra sự thống trị ấy. Hơn nữa, ở đ�y cũng kh�ng c� phương tiện để l�m điều đ�. Ph�p luật tư sản, bảo vệ sự thống trị đ�, chỉ tồn tại với kẻ c� của v� chỉ phục vụ quan hệ giữa họ v� người v� sản th�i. C�i ph�p luật n�y rất tốn k�m, thế n�n n� chẳng c� hiệu lực g� với quan hệ giữa người c�ng nh�n ngh�o khổ v� vợ anh ta. Ở đ�y, những điều kiện c� nh�n v� x� hội kh�c lại l� quyết định. V� giờ đ�y, khi đại c�ng nghiệp đưa phụ nữ ra khỏi nh� - để v�o thị trường lao động v� c�ng xưởng - do đ� khiến họ trở th�nh người thường xuy�n nu�i sống gia đ�nh, th� kh�ng c� cơ sở n�o cho quyền thống trị của đ�n �ng trong gia đ�nh v� sản nữa; c� lẽ chỉ trừ c�i th�i th� bạo với vợ, c� từ khi h�n nh�n c� thể xuất hiện. V� thế, gia đ�nh v� sản kh�ng c�n l� �c� thể� theo nghĩa chặt chẽ của từ đ�; kể cả khi đôi bên c� t�nh y�u thắm thiết v� sự chung thủy bền vững nhất với nhau, hay l� c� mọi lời ch�c ph�c của mục sư hay c�ng ch�ng. Vậy n�n ở đ�y, những bạn đường vĩnh cửu của chế độ h�n nh�n c� thể, l� tạp h�n v� ngoại t�nh, hầu như kh�ng c� vai tr� g�; người vợ đ� thực sự gi�nh lại quyền li h�n, v� khi hai người kh�ng thể sống chung với nhau nữa, th� họ xa l�a nhau. T�m lại, h�n nh�n v� sản l� �c� thể� theo nghĩa từ nguy�n - chứ kh�ng phải theo nghĩa lịch sử - của từ đ�. [Tất nhi�n, c�c nh� luật học của ch�ng ta th� cho rằng sự tiến bộ của ph�p chế đ� khiến phụ nữ ng�y c�ng kh�ng c� cơ sở để ph�n n�n. Luật ph�p ở c�c nước văn minh hiện đại ng�y c�ng c�ng nhận: thứ nhất, h�n nh�n chỉ hợp ph�p nếu c� một khế ước do hai b�n tự nguyện k� với nhau; thứ hai, hai b�n phải b�nh đẳng về quyền v� nghĩa vụ trong thời gian kết h�n. Nếu hai y�u cầu đ� được thực hiện triệt để, phụ nữ sẽ c� tất cả những g� họ c� thể mong muốn. C�i l� lẽ thuần t�y ph�p l� đ� ho�n to�n giống với c�i l� lẽ m� anh tư sản cộng h�a cấp tiến hay d�ng, để bắt anh v� sản phải ở đ�ng chỗ của m�nh. Hợp đồng lao động l� do hai b�n tự nguyện k� với nhau. Nhưng người ta coi như n� được k� một c�ch tự nguyện; l� v� luật ph�p, trên giấy tờ, đ� đặt hai b�n b�nh đẳng với nhau. C�n quyền lực của b�n n�y, do kh�c biệt về địa vị giai cấp m� c�, v� cũng l� �p lực m� b�n kia phải chịu - tức l� địa vị kinh tế thực tế của hai bên - đ� kh�ng phải việc của ph�p luật. V� trong thời gian hợp đồng lao động c� hiệu lực, th� hai b�n đều b�nh đẳng về quyền lợi, miễn l� kh�ng b�n n�o từ bỏ quyền đ� một c�ch r� r�ng. Nếu những quan hệ kinh tế buộc người c�ng nh�n phải từ bỏ c�i quyền b�nh đẳng bề ngo�i cuối c�ng của m�nh, th� đ� cũng kh�ng phải việc của ph�p luật. Về h�n nh�n, ngay cả ph�p chế tiến bộ nhất cũng ho�n to�n thỏa m�n khi hai b�n đ� ch�nh thức ghi nhận rằng họ tự nguyện đồng � kết h�n. C�n c�i g� xảy ra trong cuộc sống thực, đằng sau c�i s�n khấu ph�p l�, v� c�i sự tự nguyện đồng � đ� l�m sao m� c�; đ� kh�ng phải việc của ph�p luật v� c�c luật gia. Nhưng, một ph�p so s�nh sơ đẳng nhất giữa luật ph�p c�c nước với nhau cũng c� thể cho c�c luật gia đ� thấy, sự đồng � tự nguyện n�y thực ra l� g�. Ở c�c nước m� luật ph�p buộc cha mẹ để một phần t�i sản lại cho con, tức l� kh�ng thể truất quyền thừa kế - Đức, c�c nước theo luật của Ph�p, v� một số nước kh�c - con c�i lại buộc phải được cha mẹ đồng � nếu muốn kết h�n. Ở c�c nước theo luật của Anh, nơi m� luật ph�p kh�ng y�u cầu việc kết h�n phải được cha mẹ đồng �, th� cha mẹ lại ho�n to�n tự do khi lập di ch�c, v� c� thể truất quyền thừa kế của con c�i. Mặc d� như thế, v� ch�nh v� như thế, m� r� r�ng l� sự tự do kết h�n ở Anh v� Mĩ thực ra cũng kh�ng nhiều hơn t� n�o so với ở Ph�p v� Đức. Sự b�nh đẳng về ph�p l� giữa vợ chồng cũng kh�ng kh� hơn. T�nh trạng bất b�nh quyền giữa họ - do c�c quan hệ x� hội trước kia để lại cho ta - kh�ng phải l� nguy�n nh�n, m� l� hệ quả của việc �p bức đ�n b� về mặt kinh tế. Trong nền kinh tế gia đ�nh cộng sản cổ xưa, gồm nhiều cặp vợ chồng v� con c�i họ, việc tề gia nội trợ của phụ nữ l� một c�ng việc x� hội thực sự cần thiết, ngang với việc t�m kiếm thức ăn của nam giới. Với gia đ�nh gia trưởng, v� hơn nữa l� gia đ�nh c� thể, th� đ� c� thay đổi. Việc quản l� gia đ�nh mất đi t�nh chất x� hội của n�. N� kh�ng li�n quan g� đến x� hội nữa. N� trở th�nh việc riêng; người vợ trở th�nh đầy tớ ch�nh trong nh�, bị loại khỏi mọi hoạt động sản xuất x� hội. Chỉ c� đại c�ng nghiệp hiện đại mới mở lại con đường tham gia sản xuất x� hội cho họ, nhưng chỉ với phụ nữ v� sản th�i. Tuy thế, n� lại được mở ra theo kiểu n�y: nếu l�m tr�n nghĩa vụ của m�nh - l� những c�ng việc ri�ng của gia đ�nh - th� c� ta vẫn bị loại khỏi nền sản xuất x� hội, v� kh�ng thể kiếm ra tiền; c�n nếu muốn tham gia nền sản xuất x� hội v� c� thu nhập độc lập, th� c� ta lại kh�ng thể l�m tr�n nghĩa vụ gia đ�nh. T�nh h�nh của những phụ nữ l�m việc ở nh� m�y cũng l� t�nh h�nh của những phụ nữ l�m việc ở mọi ng�nh kh�c, kể cả ng�nh dược v� ng�nh luật. Gia đ�nh c� thể hiện đại dựa tr�n chế độ n� lệ gia đ�nh - c�ng khai hay che giấu - đối với phụ nữ; v� x� hội hiện đại l� một khối bao gồm những ph�n tử l� c�c gia đ�nh c� thể. Trong đại đa số c�c trường hợp ng�y nay, �t nhất l� ở c�c giai cấp c� của, người chồng phải l� kẻ kiếm tiền nu�i sống gia đ�nh; điều n�y tự n� đ� khiến anh ta c� được địa vị thống trị, m� kh�ng cần bất k� đặc quyền ph�p l� n�o cả. Trong gia đ�nh, anh ta l� nh� tư sản, c�n người vợ đại diện cho giai cấp v� sản. T�nh chất đặc biệt của sự �p bức về kinh tế trong c�ng nghiệp - đang đ� nặng l�n giai cấp v� sản - chỉ hiển hiện với tất cả sự gay gắt của n�, khi m� mọi đặc quyền ph�p l� của giai cấp c�c nh� tư bản đ� bị x�a bỏ, v� sự b�nh đẳng về ph�p l� của hai giai cấp đ� được x�c lập. Nền cộng h�a d�n chủ kh�ng x�a bỏ đối lập giai cấp; ngược lại, n� chỉ dọn đường để cuộc đấu tranh giai cấp c� thể diễn ra. Cũng như vậy, t�nh chất đặc biệt của sự thống trị của chồng với vợ, việc tất yếu phải x�c lập sự b�nh đẳng x� hội thực sự giữa họ, v� c�ch thức để đạt được n�; ch�ng chỉ hiện l�n một c�ch ho�n to�n r� rệt, khi vợ v� chồng đều c� quyền b�nh đẳng về ph�p luật. R� r�ng, điều kiện đầu ti�n để giải ph�ng người vợ ch�nh l� đưa to�n bộ nữ giới quay lại với nền sản xuất x� hội, điều đ� lại đ�i hỏi việc x�a bỏ vai tr� đơn vị kinh tế trong x� hội của gia đ�nh c� thể. Vậy, ta c� ba h�nh thức h�n nh�n ch�nh, nh�n chung l� tương ứng với ba giai đoạn ph�t triển ch�nh của lo�i người. Thời m�ng muội l� chế độ quần h�n; thời d� man l� chế độ h�n nh�n đối ngẫu; thời văn minh l� chế độ h�n nh�n c� thể, th�m v�o đ� l� tệ ngoại t�nh v� nạn m�i d�m. Xen giữa h�n nh�n đối ngẫu v� h�n nh�n c� thể, l� một thời k� c� chế độ nhiều vợ v� việc đ�n �ng sở hữu nữ n� lệ, nằm ở giai đoạn cao của thời d� man. Như ch�ng t�i đ� chứng minh trong suốt bản tr�nh b�y vừa qua, sự tiến bộ, vốn đ� tự biểu hiện qua nhiều h�nh th�i nối tiếp nhau, ch�nh l� ở chỗ người đ�n b� - chứ kh�ng phải người đ�n �ng - ng�y c�ng bị tước đi c�i tự do quan hệ t�nh giao của chế độ quần h�n. Thật thế, chế độ quần h�n vẫn tồn tại tới tận ng�y nay, đối với nam giới. C�i đối với phụ nữ l� một tội lỗi, đem tới những hậu quả gh� gớm về ph�p l� v� x� hội; th� với đ�n �ng lại được coi l� vinh dự, hay tệ lắm cũng chỉ l� một vết nhơ đạo đức cỏn con m� người ta vui vẻ nhận lấy. Nhưng ở thời đại ch�ng ta, khi m� chế độ tạp h�n cổ xưa ng�y c�ng thay đổi, nhờ t�c động của nền sản xuất h�ng h�a tư bản chủ nghĩa, v� ng�y c�ng trở n�n ph� hợp với nền sản xuất đ�; th� cũng c� thể n�i l� chế độ ấy đang ng�y c�ng biến th�nh nạn m�i d�m c�ng khai, v� ng�y c�ng c� t�c dụng ph� hoại đạo đức. V� n� l�m đồi bại đ�n �ng nhiều hơn hẳn so với đ�n b�. Với phụ nữ, mại d�m chỉ l�m trụy lạc những ai đ� kh�ng may sa v�o n�, v� ngay cả họ cũng kh�ng trụy lạc tới mức như người ta vẫn tưởng. Thế nhưng, n� lại l�m đồi bại to�n bộ nh�n c�ch của giới đ�n �ng. Đặc biệt l�, trong ch�n phần mười c�c trường hợp, việc k�o d�i thời k� đ�nh h�n lại l� một trường học dự bị về việc ngoại t�nh. Giờ đ�y, ta đang tiến tới một cuộc c�ch mạng x� hội; trong đ� những cơ sở kinh tế, đ� tồn tại tới ng�y nay, của chế độ h�n nh�n c� thể - v� vật đi k�m với n�: nạn m�i d�m - nhất định sẽ biến mất. H�n nh�n c� thể sinh ra từ việc tập trung một số lớn t�i sản v�o tay một người đ�n �ng; v� từ nhu cầu chuyển lại t�i sản ấy cho con c�i của �ng ta, chứ kh�ng phải ai kh�c. V� mục đ�ch đ�, cần c� chế độ h�n nh�n c� thể về ph�a người đ�n b�; nhưng điều đ� kh�ng hề cản trở chế độ nhiều vợ, c�ng khai hay b� mật, về ph�a người đ�n �ng. Nhưng với việc chuyển, �t ra l� phần lớn, c�c của cải cố định v� c� thể thừa kế được - tức l� tư liệu sản xuất - th�nh t�i sản của x� hội; th� cuộc c�ch mạng x� hội sắp tới sẽ giảm tới mức tối thiểu, mọi mối lo về cho v� nhận thừa kế. Liệu chế độ h�n nh�n c� thể, sinh ra từ c�c l� do kinh tế, c� bị mất đi hay kh�ng; khi những l� do ấy đ� mất đi? Kh�ng phải v� cớ m� ta c� thể trả lời: kh�ng những kh�ng mất đi, m� ngược lại, khi đ� th� chế độ ấy sẽ được thực hiện trọn vẹn. V� với việc chuyển tư liệu sản xuất th�nh t�i sản x� hội; th� lao động l�m thu�, giai cấp v� sản sẽ mất đi, v� việc một số phụ nữ phải b�n m�nh v� tiền - con số n�y c� thể thống k� được - cũng theo đ� m� mất đi. Tệ m�i d�m biến mất; v� h�n nh�n c� thể kh�ng những kh�ng sụp đổ, m� c�n trở th�nh hiện thực, kể cả với đ�n �ng. Vậy, d� sao th� địa vị của đ�n �ng cũng sẽ thay đổi s�u sắc. Nhưng địa vị của đ�n b�, của tất cả đ�n b�, cũng sẽ c� chuyển biến quan trọng. Một khi tư liệu sản xuất được chuyển th�nh t�i sản x� hội, th� gia đ�nh c� thể kh�ng c�n l� đơn vị kinh tế của x� hội nữa. Việc quản l� gia đ�nh ri�ng trở th�nh một ng�nh lao động x� hội. Chăm s�c, gi�o dục trẻ em trở th�nh một c�ng việc x� hội; ch�ng đều được nu�i dạy như nhau, bất kể l� con hợp ph�p hay kh�ng. Điều n�y loại bỏ mọi mối lo về �những hậu quả�, m� c�i đ� ng�y nay lại l� yếu tố x� hội chủ yếu nhất - cả về đạo đức v� kinh tế - khiến một c� g�i kh�ng d�m hiến th�n cho người y�u. Lẽ n�o điều đ� chưa đủ để quan hệ t�nh giao tự do c� thể dần ph�t triển hay sao; v� lẽ n�o c�ng với đ�, một dư luận khoan dung hơn về tiết hạnh của phụ nữ, lại kh�ng thể h�nh th�nh hay sao? Sau c�ng, lẽ n�o ta kh�ng thấy: chế độ h�n nh�n c� thể v� tệ m�i d�m thực sự l� hai mặt đối lập, m� c�n l� hai mặt đối lập kh�ng thể t�ch rời nhau, l� hai cực của c�ng một h�nh th�i x� hội? Tệ m�i d�m liệu c� thể mất đi, m� kh�ng k�o theo chế độ h�n nh�n c� thể c�ng rơi xuống vực thẳm, hay kh�ng? Ở đ�y, một yếu tố mới lại ph�t huy t�c dụng; m� ở thời k� chế độ h�n nh�n c� thể c�n đang ph�t triển, th� yếu tố ấy nhiều lắm cũng mới ở dạng ph�i thai: ấy l� t�nh y�u nam nữ. Trước thời Trung cổ th� ta kh�ng thể n�i tới t�nh y�u nam nữ được. Cố nhi�n l� vẻ đẹp c� nh�n, sự gần gũi th�n thiết, những sở th�ch giống nhau, v.v. đ� tạo ra trong l�ng người ta sự ham muốn quan hệ t�nh giao với ai đ�; v� cố nhi�n l� cả đ�n �ng lẫn đ�n b� đều kh�ng ho�n to�n thờ ơ, về việc họ c� quan hệ th�n thiết nhất với ai. Nhưng từ đ� đến t�nh y�u nam nữ như ta hiểu ng�y nay, th� vẫn c�n rất xa. Trong cả thời cổ đại, h�n nh�n đều do cha mẹ sắp xếp, c�n con c�i th� y�n ch� nghe theo. Ch�t t�nh y�u n�o đ� giữa vợ chồng trong thời cổ, kh�ng phải l� � th�ch chủ quan, m� l� nghĩa vụ kh�ch quan th� đ�ng hơn; n� kh�ng phải l� nguy�n nh�n, m� l� hệ quả của h�n nh�n. Ở thời cổ, những quan hệ y�u đương - theo nghĩa hiện đại - chỉ c� ở b�n ngo�i c�i x� hội ch�nh thống. Những người chăn cừu - với những vui buồn trong t�nh y�u của họ - m� Moschus v� Theocratus từng ca ngợi, hay Daphnis v� Chloe trong truyện của Longus; họ đều l� n� lệ, kh�ng c� quyền tham gia v�o c�ng việc Nh� nước cũng như sinh hoạt của c�ng d�n tự do. Ngo�i n� lệ, th� ta chỉ thấy chuyện y�u đương như một sản vật, do sự tan r� của thế giới cổ m� c�; v� việc đ� cũng chỉ c� đối với những phụ nữ sống b�n ngo�i x� hội ch�nh thống, với c�c kĩ nữ - tức l� c�c phụ nữ ngoại quốc, hay l� c�c n� lệ đ� được giải ph�ng - m� th�i: ở Athens, thời k� gần suy t�n, hay ở La M� thời c�c Caesar đều như vậy. Nếu chuyện y�u đương thực sự c� giữa những người tự do, th� đ� chỉ l� việc ngoại t�nh. Với l�o thi sĩ Anacreon, t�c giả những b�i thơ t�nh thời cổ, th� t�nh y�u nam nữ - theo như ch�ng ta hiểu - gần như chẳng c� � nghĩa g�; đến nỗi, với �ng, ngay cả việc người y�u l� nam hay nữ cũng kh�ng quan trọng lắm. T�nh y�u nam nữ thời ch�ng ta kh�c về bản chất so với ham muốn t�nh dục đơn thuần (Eros) thời cổ. Một l�, n� cho rằng cần c� sự đ�p lại từ ph�a người m�nh y�u, về mặt n�y đ�n b� b�nh đẳng với đ�n �ng; trong khi với c�i Eros của thời xưa, kh�ng phải l�c n�o người ta cũng hỏi � kiến người đ�n b�. Hai l�, t�nh y�u đ� thường m�nh liệt v� bền bỉ đến mức khiến hai b�n cảm thấy việc kh�ng c� được nhau - v� phải xa nhau - l� một nỗi đau lớn, nếu kh�ng phải l� nỗi đau lớn nhất; để c� được nhau, họ c� thể liều cả mạng sống; trong thế giới cổ đại, điều n�y chỉ c� ở trường hợp ngoại t�nh. Cuối c�ng, đ� c� một ti�u chuẩn đạo đức mới để ph�n x�t một quan hệ t�nh giao: người ta kh�ng chỉ hỏi �n� ở trong hay ngo�i h�n nh�n?�, m� c�n hỏi �n� c� dựa tr�n t�nh y�u của đ�i b�n hay kh�ng?� Dĩ nhi�n, với thực tế x� hội phong kiến v� tư sản, n� cũng kh�ng được t�n trọng g� hơn c�c ti�u chuẩn đạo đức kh�c, tức l� cũng bị lờ đi. Nhưng n� cũng kh�ng bị rẻ r�ng hơn c�c ti�u chuẩn đ�; người ta vẫn thừa nhận n�, cũng như c�c ti�u chuẩn kia, tr�n giấy tờ v� l� luận. V� khi đ� th� kh�ng thể đ�i hơn thế. Thời Trung cổ bắt đầu từ ch�nh nơi m� thời cổ đại đ� dừng lại, tr�n con đường ph�t triển của t�nh y�u nam nữ: ấy l� tệ ngoại t�nh. Tr�n kia, ta đ� m� tả thứ t�nh y�u kiểu hiệp sĩ, m� những kh�c ca b�nh minh (alba & Tagelied) từ đ� đ� xuất hiện. Nhưng từ c�i t�nh y�u ph� hoại h�n nh�n ấy, cho đến c�i t�nh y�u l�m cơ sở cho h�n nh�n, vẫn l� một đoạn đường d�i, m� ch�nh c�c kị sĩ cũng chưa từng đi hết được. Ngay cả khi chuyển từ người Latin ph� phiếm qua người Germania đức hạnh, ta cũng thấy trong �B�i ca người Nibelung�; d� Kriemhild rất y�u Siegfried, nhưng khi Gunther b�o l� đ� hứa gả c� cho một hiệp sĩ m� kh�ng n�i t�n anh ta, th� c� trả lời đơn giản l�:“Anh đâu cần phải hỏi em; anh bảo sao, em xin làm vậy; anh định gả em cho ai, em xin vui lòng kết hôn với người đó”
Kriemhild kh�ng hề nghĩ rằng t�nh y�u của m�nh c� thể được t�nh đến. Gunther cầu h�n Brunhild m� kh�ng biết mặt n�ng, cũng như Etzel cầu h�n Kriemhild. Trong �B�i ca Gudrun� cũng thế: Sigebant xứ Ireland cầu h�n Ute người Na Uy, c� g�i m� anh ta chưa từng gặp mặt; cũng như Hetel người Hegeling cầu h�n Hilde xứ Ireland; v� Siegfried xứ Moorland, Harmut xứ Ormany, Herwig xứ Seeland c�ng cầu h�n Gudrun. Chỉ ở trường hợp cuối, ta mới thấy người con g�i được tự do lựa chọn, cụ thể l� Gudrun chọn lấy Herwig. Thường th� vợ của một ho�ng tử l� do cha mẹ anh ta chọn, nếu họ c�n sống; kh�ng th� anh ta được tự chọn, nhưng phải theo lời khuy�n của c�c l�nh ch�a phong kiến lớn - l� c�c đại thần - những người lu�n c� tiếng n�i quan trọng về việc n�y. Kh�ng thể l�m kh�c thế. Với hiệp sĩ, nam tước, hay với bản th�n ho�ng tử; h�n nh�n l� một h�nh động ch�nh trị, l� cơ hội để tăng cường thế lực bằng những li�n minh mới; lợi �ch của vương triều mới l� quyết định, chứ kh�ng phải � muốn c� nh�n. Vậy th� t�nh y�u l�m sao m� c� vai tr� quyết định tới h�n nh�n được? Đối với th�nh vi�n phường hội, trong c�c th�nh thị thời Trung cổ, th� cũng thế. Ch�nh những đặc quyền bảo hộ anh ta, những qui tắc phường hội - với đủ c�c điều khoản v� đề mục; những sự ph�n biệt rắc rối đ� t�ch anh ta - về mặt ph�p l� - ra khỏi c�c phường hội kh�c, hay l� những bạn c�ng phường hội, hay l� c�c thợ phụ v� thợ học việc; tất cả ch�ng đ� khiến c�i phạm vi, m� trong đ� anh ta c� thể chọn một người vợ ph� hợp, nhỏ đi kh� nhiều. Trong c�i hệ thống phức tạp đ�, ch�nh quyền lợi gia đ�nh - chứ kh�ng phải � th�ch c� nh�n - sẽ quyết định người đ�n b� n�o ph� hợp nhất với anh ta. Vậy l� trong đại đa số trường hợp, đến cuối thời Trung cổ, h�n nh�n vẫn giữ c�i t�nh chất ban đầu; tức l� n� kh�ng phải do bản th�n người kết h�n quyết định. L�c đầu, người ta sinh ra l� đ� kết h�n rồi - ấy l� kết h�n với một nh�m người thuộc giới kh�c. Trong c�c h�nh thức quần h�n c� sau, những quan hệ như thế chắc l� vẫn c�, c� điều nh�m n�i tr�n ng�y c�ng thu hẹp lại. Với h�n nh�n đối ngẫu, thường th� c�c b� mẹ sắp xếp h�n sự của con c�i; ở đ�y, c� vai tr� quyết định vẫn l� những t�nh to�n về c�c quan hệ th�n tộc mới, ch�ng phải l�m cho địa vị của đ�i vợ chồng trẻ - trong bộ lạc v� thị tộc - được n�ng l�n. V� từ khi chế độ tư hữu chiến thắng chế độ c�ng hữu, c�ng với đ� l� sự quan t�m đến việc cho thừa kế t�i sản, rồi th� chế độ phụ quyền v� h�n nh�n c� thể c� được địa vị thống trị; l�c đ�, h�n nh�n đ� ho�n to�n lệ thuộc v�o những t�nh to�n kinh tế. H�n nh�n mua b�n, về h�nh thức, đ� mất đi; nhưng sự tiến h�nh n� tr�n thực tế lại li�n tục mở rộng, đến khi ch�nh ngay đ�n �ng - chứ kh�ng chỉ đ�n b� - cũng c� gi� cả; gi� ấy được t�nh theo t�i sản, chứ kh�ng phải phẩm chất c� nh�n, của họ. T�nh cảm đối với nhau phải l� nguy�n do tối cao của h�n nh�n - c�i đ� xưa nay vẫn ho�n to�n kh�ng thấy trong thực tiễn của c�c giai cấp thống trị. N� chỉ c� trong văn học, hoặc trong c�c giai cấp bị �p bức - m� ta th� kh�ng kể đến họ l�m g�. T�nh h�nh l� vậy, đến khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bước v�o việc chuẩn bị thống trị thế giới, nhờ thương mại to�n cầu v� c�ng trường thủ c�ng, sau thời k� của c�c ph�t kiến địa l�. C� thể cho rằng c�ch kết h�n n�i tr�n l� đặc biệt ph� hợp với nền sản xuất ấy, v� đ�ng l� thế thật. Thế nhưng - c�i tr� o�i oăm của lịch sử đ�ng l� kh�n lường - ch�nh n� lại g�y một vết nứt quyết định cho kiểu h�n nh�n ấy. Với việc biến mọi thứ th�nh h�ng h�a, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đ� hủy bỏ mọi quan hệ truyền thống do thời xưa để lại; thay cho tập qu�n l�u đời v� ph�p quyền lịch sử, n� đ� dựng l�n việc mua b�n v� c�i khế ước �tự do�. Nh� luật học người Anh H.S. Maine cho rằng m�nh đ� c� một ph�t hiện to lớn khi khẳng định: tất cả sự tiến bộ của ch�ng ta, so với thời trước, ch�nh l� ở chỗ ta đ� đi �from status to contract�30; từ trạng th�i do thừa kế m� c�, tới trạng th�i do khế ước tự do m� c�. Nhưng trong chừng mực điều đ� l� đ�ng đắn, th� n� đ� được nhắc đến trong �Tuy�n ng�n của Đảng Cộng sản� rồi. Nhưng việc k� một khế ước đ�i hỏi người ta phải tự do về th�n thể, h�nh vi, t�i sản của m�nh; v� phải b�nh đẳng về quyền lợi với nhau. Một trong c�c c�ng việc chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ch�nh l� tạo ra những con người �tự do� v� �b�nh đẳng� đ�. D� l�c đầu n� chỉ được thực hiện một c�ch nửa tự gi�c v� lại n�p b�ng t�n gi�o, nhưng từ sau cuộc cải c�ch của Luther v� Calvin, th� nguy�n tắc đ� được x�c lập: người ta chỉ ho�n to�n chịu tr�ch nhiệm về h�nh động của m�nh, khi họ thực hiện n� với � ch� ho�n to�n tự do; v� việc chống lại mọi sự �p buộc thực hiện c�c h�nh vi v� đạo, ch�nh l� một nghĩa vụ đạo đức. Nhưng nguy�n tắc đ� l�m thế n�o để ph� hợp được với c�i thực tiễn, đ� tồn tại xưa nay, về việc sắp xếp h�n nh�n? Theo quan điểm tư sản th� h�n nh�n l� một khế ước, một giao dịch ph�p l�; hơn nữa l� giao dịch ph�p l� quan trọng nhất, v� n� quyết định thể x�c v� tinh thần của hai con người, trong suốt đời họ. Về h�nh thức th� đ�ng thế, khế ước được k� một c�ch tự nguyện, n� kh�ng thể ho�n th�nh m� kh�ng c� sự đồng � của hai b�n. Nhưng người ta đ� biết qu� r� về việc l�m thế n�o để c� được sự đồng � đ�, v� ai mới l� người thực sự k� kết c�i khế ước tr�n. Nhưng nếu quyền tự do quyết định thực sự l� cần thiết đối với mọi khế ước kh�c, tại sao đối với khế ước kết h�n lại kh�ng? Cặp thanh ni�n s�nh bước b�n nhau đ�, chẳng phải cũng c� quyền tự do định đoạt bản th�n, thể x�c, v� c�c kh� quan của m�nh hay sao? Chẳng phải giới hiệp sĩ đ� đưa t�nh y�u l�n th�nh c�i mốt hay sao; v� ngược lại với thứ �i t�nh theo kiểu tư th�ng của hiệp sĩ, t�nh vợ chồng chẳng phải l� h�nh thức tư sản đ�ch thực của t�nh y�u hay sao? V� nếu nghĩa vụ của vợ chồng l� y�u thương nhau; th� cũng như vậy, nghĩa vụ của hai người y�u nhau chẳng phải ch�nh l� kết h�n với nhau, chứ kh�ng phải với ai kh�c, hay sao? Quyền đ� của hai người y�u nhau lẽ n�o kh�ng cao hơn quyền của cha mẹ, của họ h�ng, của những người mối l�i truyền thống, hay sao? Nếu quyền tự do suy x�t của mỗi c� nh�n đ� t�o tợn x�m nhập v�o nh� thờ v� Gi�o hội, th� sao n� phải dừng lại trước c�i đ�i hỏi kh�ng thể dung thứ của thế hệ gi�; l� muốn quyết định thể x�c, t�m hồn, t�i sản, hạnh ph�c, v� bất hạnh của thế hệ trẻ? Những vấn đề đ� tất yếu phải xuất hiện trong một thời k� m� mọi mối r�ng buộc cũ kĩ trong x� hội đều bị d�n ra, v� mọi quan niệm truyền thống đều bị lung lay. Thế giới đột nhi�n đ� lớn l�n gần mười lần; thay v� 1/4 b�n cầu, giờ đ�y cả Tr�i Đất đ� hiện ra trước mắt người T�y �u, v� họ vội v�ng đi chiếm nốt bảy c�i 1/4 c�n lại. V�, cũng như những giới hạn cổ xưa của qu� hương họ, những r�o cản của lối tư duy c� từ thời Trung cổ, cũng đ� sụp đổ. Một ch�n trời v� c�ng rộng lớn hơn đ� mở ra cho con người, với cả tầm nh�n b�n ngo�i v� tầm nh�n b�n trong. Một ch�ng trai trẻ c� kể g� đến c�i danh thơm l� nề nếp, hay c�c đặc quyền phường hội danh gi� được truyền qua từng thế hệ; khi đ� bị l�i cuốn bởi sự gi�u c� của Ấn Độ, hay những mỏ v�ng bạc ở Mexico v� Potosi? Với giai cấp tư sản, đ� l� c�i thời hiệp sĩ giang hồ; n� cũng c� những mộng tưởng v� t�nh y�u của m�nh, nhưng theo kiểu tư sản v� - x�t đến c�ng - l� v� c�c mục đ�ch tư sản. Vậy l� giai cấp tư sản đang l�n đ� ng�y c�ng thừa nhận quyền tự do k� kết trong cả h�n nh�n, v� ng�y c�ng thực thi điều đ�, như đ� n�i ở tr�n; đặc biệt ở c�c nước Tin l�nh, nơi m� c�i trạng th�i hiện tồn bị lung lay mạnh nhất. H�n nh�n vẫn c� t�nh giai cấp; nhưng trong phạm vi giai cấp, c�c b�n được ph�p tự do lựa chọn tới một mức độ n�o đ�. Trong giấy tờ, l� luận đạo đức v� cả thơ ca, kh�ng g� được x�c lập vững chắc hơn c�i quan điểm n�y: một cuộc h�n nh�n l� v� đạo đức, nếu n� kh�ng dựa tr�n t�nh y�u v� sự đồng � thực sự tự do của vợ v� chồng. T�m lại, h�n nh�n v� t�nh y�u đ� được tuy�n bố l� một quyền của con người; v� kh�ng những l� droit de l�homme, n� c�n l� droit de la femme31 nữa. Nhưng quyền đ� của con người lại kh�c với những c�i gọi l� �quyền con người� kh�c, về một điểm. Thực tế, trong khi c�c quyền kh�c chỉ được �p dụng cho giai cấp thống trị (tư sản), c�n giai cấp bị trị (v� sản) lại bị tước đi quyền đ� - một c�ch trực tiếp hoặc gi�n tiếp; th� ở đ�y, điều trớ tr�u của lịch sử lại diễn ra. Giai cấp thống trị vẫn bị ch�nh c�c ảnh hưởng kinh tế quen thuộc chi phối, v� thế c�c trường hợp h�n nh�n ho�n to�n tự do chỉ l� ngoại lệ; c�n với giai cấp bị trị, th� c�i h�n nh�n ho�n to�n tự do ấy lại l� th�ng lệ. V� thế, n�i chung, sự tự do ho�n to�n trong h�n nh�n chỉ c� thể được thiết lập; khi việc x�a bỏ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, v� c�c quan hệ sở hữu do n� tạo ra, đ� thủ ti�u mọi toan t�nh kinh tế k�m theo n�; c�c toan t�nh đ� hiện vẫn tạo ra ảnh hưởng lớn tới việc chọn bạn đời. Khi đ�, ngo�i t�nh cảm đối với nhau ra, th� kh�ng c� động lực n�o kh�c dẫn đến h�n nh�n cả. V� v� bản chất của t�nh y�u l� đơn nhất, d� hiện nay th� t�nh đơn nhất ấy chỉ được thừa nhận triệt để về ph�a người đ�n b� th�i; n�n h�n nh�n v� t�nh y�u, về bản chất, ch�nh l� h�n nh�n c� thể rồi. Ta đ� thấy Bachofen đ�ng đắn đến thế n�o, khi �ng coi bước tiến từ chế độ quần h�n l�n h�n nh�n đối ngẫu do phụ nữ thực hiện l� ch�nh. Chỉ c� bước tiến từ h�n nh�n đối ngẫu l�n h�n nh�n c� thể l� nhờ c�ng của đ�n �ng; v� cốt l�i của n�, về mặt lịch sử, l� hạ thấp địa vị của đ�n b� v� gi�p đ�n �ng dễ ngoại t�nh hơn. Nếu c�c t�nh to�n kinh tế, vốn vẫn buộc phụ nữ - v� lo cho đời sống của m�nh, hơn nữa l� của con c�i m�nh - phải chịu đựng th�i quen ngoại t�nh của chồng, m� cũng biến mất; th� theo kinh nghiệm trước đ�y, sự b�nh đẳng của phụ nữ - do t�nh h�nh tr�n m� c� - sẽ th�c đẩy chế độ h�n nh�n c� thể thực sự đối với đ�n �ng, ở mức độ v� c�ng lớn hơn so với việc th�c đẩy chế độ nhiều chồng. Nhưng c�i chắc chắn sẽ biến mất khỏi chế độ h�n nh�n c� thể, ch�nh l� những đặc trưng, do c�c quan hệ sở hữu đ� in l�n n� từ khi n� ra đời; một l� sự thống trị của đ�n �ng, hai l� sự bất khả li dị. Sự thống trị của đ�n �ng trong h�n nh�n l� kết quả của sự thống trị về kinh tế của họ, v� sẽ ti�u tan c�ng với sự thống trị về kinh tế ấy. Sự bất khả li dị của h�n nh�n một phần v� c�i điều kiện kinh tế, m� chế độ h�n nh�n c� thể đ� ph�t sinh từ đ�; phần kh�c v� truyền thống, c� từ thời m� người ta chưa hiểu hết mối li�n hệ giữa điều kiện kinh tế n�i tr�n với chế độ h�n nh�n c� thể, rồi cường điệu h�a mối li�n hệ ấy dưới h�nh thức t�n gi�o. Giờ đ�y, ch�nh sự bất khả li dị đ� cũng đ� bị chọc thủng ở h�ng ngh�n chỗ. Nếu chỉ c� h�n nh�n dựa tr�n cơ sở t�nh y�u l� hợp đạo đức; th� cũng chỉ c� h�n nh�n, m� trong đ� t�nh y�u c�n được duy tr�, mới l� hợp đạo đức. Nhưng t�nh y�u nam nữ lại t�y từng người, đặc biệt với đ�n �ng, m� giữ được l�u hay ch�ng; v� nếu t�nh y�u ấy đ� kh�ng c�n, hay đ� bị thay thế bởi một h�nh y�u mới; th� chia tay sẽ c� lợi cho cả hai b�n, cũng như cho x� hội. Chỉ cần tr�nh việc phải sa lầy v� �ch v�o c�c vụ kiện c�o li dị th�i. Giờ đ�y, những g� ta c� thể đo�n được về việc c�c quan hệ t�nh giao sẽ diễn ra như thế n�o, khi m� nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sắp bị x�a bỏ, vẫn mang t�nh phủ định l� chủ yếu; tức l� hầu như chỉ n�i về những c�i sẽ mất đi. Vậy những c�i mới n�o sẽ thế v�o đ�? C�u hỏi đ� sẽ được trả lời, khi một thế hệ mới đ� ph�t triển: một thế hệ đ�n �ng, trong suốt đời m�nh, kh�ng bao giờ biết tới việc d�ng tiền - hay bất k� một c�ng cụ quyền lực x� hội n�o kh�c - để mua người đ�n b�; v� một thế hệ đ�n b� kh�ng bao giờ biết tới việc hiến th�n cho người đ�n �ng v� bất k� l� do n�o ngo�i t�nh y�u thực sự, cũng như việc từ chối l�m điều đ� với người y�u v� lo sợ những hậu quả về kinh tế của n�. Khi những con người đ� xuất hiện, họ sẽ hầu như chẳng để � tới những điều, m� con người hiện nay cho l� họ phải l�m; họ sẽ tạo n�n th�ng lệ v� thực tiễn của ri�ng m�nh, tương ứng với đ� l� c�ng luận của ri�ng m�nh, để ph�n x�t h�nh vi của mỗi c� nh�n. Chỉ c� thể trả lời đến thế th�i.] Nhưng h�y quay lại với Morgan, ta đ� rời kh� xa khỏi �ng rồi. Việc nghi�n cứu về mặt lịch sử, đối với những thiết chế x� hội ph�t sinh trong thời văn minh, l� vượt qu� khu�n khổ cuốn s�ch của �ng. V� thế, �ng chỉ n�i rất ngắn về việc chế độ h�n nh�n c� thể sẽ trở n�n thế n�o, trong thời văn minh. Morgan cũng coi sự ph�t triển hơn nữa của gia đ�nh c� thể l� một bước tiến, để đi tới sự ho�n to�n b�nh đẳng giữa hai giới; d� �ng kh�ng coi l� mục ti�u đ� đ� đạt được. Nhưng �ng cũng n�i:“Một khi thừa nhận sự thật là gia đình đã trải qua bốn hình thức nối tiếp nhau, và hiện đang ở hình thức thứ năm, thì một vấn đề sẽ xuất hiện: hình thức hiện nay đó có tồn tại lâu dài trong tương lai không? Câu trả lời duy nhất có thể được đưa ra là: nó phải phát triển và thay đổi, cùng với sự phát triển và thay đổi của xã hội, hệt như trong quá khứ. Là sản vật của một chế độ xã hội, nó sẽ phản ánh sự văn minh của chế độ xã hội đó. Vì gia đình cá thể đã tiến bộ rất nhiều ngay từ buổi đầu của thời văn minh, và cũng tiến bộ rất rõ rệt ở thời hiện đại; nên ít nhất có thể cho là nó còn tiếp tục tiến bộ, tới khi đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ. Nếu trong tương lai xa xôi về sau, gia đình cá thể không đap ứng được những đòi hỏi của xã hội, thì cũng không thể đoán được hình thức gia đình tiếp sau nó sẽ có tính chất như thế nào”1f
Chú thích của Engels
1* Bachofen đã chứng minh là ông ít hiểu phát hiện (đúng ra là dự đoán) của mình đến thế nào, khi dùng từ “tạp hôn” (hetaerism) để gọi trạng thái nguyên thủy ấy. Người Hi Lạp dùng từ đó để chỉ quan hệ (tính giao) giữa đàn ông - đã hoặc chưa có vợ (trong chế độ hôn nhân cá thể) - với đàn bà chưa chồng. Nó luôn giả định là có một hình thức hôn nhân xác định, còn sự “tạp hôn” diễn ra bên ngoài khuôn khổ của hình thức đó; nó bao hàm cả việc mãi dâm, hay ít nhất là khả năng mãi dâm. Từ đó chưa bao giờ được dùng theo nghĩa nào khác, tôi và Morgan cũng chỉ dùng nó với nghĩa đó. Bachofen luôn đưa những điều thần bí khác thường nhất vào trong các phát kiến hết sức quan trọng của mình, chính vì cái quan điểm kì dị của ông rằng: sự phát triển lịch sử của quan hệ giữa đàn ông và đàn bà có nguồn gốc từ các quan niệm tôn giáo, chứ không phải từ điều kiện sinh hoạt thực tế của con người thời đó.
2* Trong một lá thư viết vào mùa xuân 1882, bằng những lời kịch liệt nhất, Marx đã phản ứng về việc xuyên tạc thời nguyên thủy trong vở nhạc kịch “Chiếc nhẫn của người Nibelung” của Richard Wagner: “Có bao giờ người ta nghe nói anh trai ôm em gái như ôm vợ mình không?”. Đối với Wagner và những “thần dâm đãng” của ông ta, những kẻ muốn lấy một chút loạn luân (theo nghĩa hiện nay) để “thêm mắm thêm muối” cho chuyện tình ái của mình, Marx đã trả lời: “Ở các thời nguyên thủy, chị em gái là vợ, và khi đó như vậy là hợp với đạo đức.” [Một người bạn Pháp của tôi, vốn rất hâm mộ Wagner, đã không đồng ý với chú thích trên. Ông nhận xét: trong tập “Edda cổ”7, được Wagner lấy làm cơ sở, Loki đã mắng Freya: “Mày đã ôm hôn anh ruột mày trước các vị thần” (phần “Ægisdrekka”8). Ông ta cho là hôn nhân giữa anh chị em với nhau đã bị cấm ngay từ khi đó. Nhưng “Ægisdrekka” biểu hiện một thời kì mà lòng tin vào các thần thoại cổ đã mất hẳn rồi; do đó câu ấy chỉ là sự châm biếm nhằm vào các thần, theo kiểu Lucian xứ Samosata mà thôi. Vì thế, nếu Loki, cũng như Mephisto, đã mắng Freya như thế; thì điều đó đúng ra phải là chống lại Wagner. Loki, sau đó vài câu thơ, cũng nói với Njörd: “Với em gái của mình, mày đã sinh ra đứa con trai”. Thực ra Njörd là người Vanir chứ không phải Æsir9, y từng nói trong “Ynglinga Saga” rằng hôn nhân giữa anh chị em rất thường thấy ở người Vanir, nhưng lại không có ở người Æsir. Điều này có lẽ cho thấy người Vanir là các thần cổ hơn người Æsir. Ít ra thì việc Njörd có mặt trong “Ægisdrekka” vẫn chứng tỏ là ở thời kì thần thoại Bắc Âu ra đời, thì hôn nhân giữa anh chị em, ít ra là ở các thần, vẫn chưa gây ra bất kì sự ghê tởm nào. Nếu muốn bảo vệ Wagner, thì nên trích dẫn Goethe hơn là Edda, vì Goethe (trong khúc ca “Vị thần và Vũ nữ”) cũng mắc sai lầm tương tự, khi coi nghĩa vụ hiến thân có tính tôn giáo của phụ nữ là giống với nạn mãi dâm hiện đại.]
3* Không nghi ngờ gì nữa, các vết tích của quan hệ tính giao không hạn chế - mà Bachofen cho là mình đã tìm ra, ông ta gọi nó là “thụ thai tội lỗi” (Sumpfzeugung) - dẫn ta trở về chế độ quần hôn. “Nếu Bachofen coi các cuộc hôn nhân punalua đó là “phi pháp”; thì người thời đó sẽ coi hầu hết các cuộc hôn nhân ngày nay giữa anh chị em họ - gần hay xa, bên nội hay bên ngoại - đều là loạn luân, vì người ấy coi nó cũng giống như các cuộc hôn nhân giữa anh chị em cùng huyết tộc” (Marx).
Chú thích của người dịch
1 a b c d e f "Xã hội Cổ đại".
2 Ch.J.M. Letourneau: "L'evolution du marriage et de la famille"; Paris, 1888.
3 Đây là một nhóm thuộc bộ Linh trưởng, theo cách phân chia trước kia.
4 a b E.A. Westermarck: "The history of human marriage"; London, 1891.
5 A.V. Espinas: "Des sociétés animales"; Paris, 1877.
6 a b * H.H. Bancroft: "The Native Races of the Pacific States of North America", t. I-V; New York, 1875.
7 Có tên gọi khác là "Poetic Edda".
8 Có tên gọi khác là "Lokasenna".
9 Vanir và Æsir là hai bộ lạc thần trong thần thoại Bắc Âu.
10 a b c d * Ở bản in năm 1884, đoạn "chế độ quần hôn" được ghi là "gia đình punalua".
11 J.F. Watson & J.W. Kaye: "The People of India"; 1868.
12 Ở bản in năm 1884, đoạn "họ chỉ có một hình thức quần hôn thô sơ hơn" được ghi là "tổ chức của họ là rất cá biệt, đến nỗi ta chẳng cần chú ý đến làm gì".
13 "quyền hưởng đêm đầu tiên".
14 S. Sugenheim: "Geschichte der Aufhebung der Leibeigenschaft und Hörigkeit in Europa bis um die Mitte des neunzehnten Jahrhunderts".
15 Ở bản in năm 1884, đoạn "sở hữu riêng rẽ" được ghi là "sở hữu tư nhân".
16 Ở bản in năm 1884, đoạn "sở hữu của gia đình" được ghi là "sở hữu riêng".
17 a b M.M. Kovalevsky: "Tableau des origines et de l’evolution de la famille et de la propriete"; Stockholm, 1890.
18 Từ này tương ứng với từ "family" trong tiếng Anh.
19 Tiếng Nga là "вервь".
20 A. Heusler: "Institutionen des Deutschen Privatrechts"; Leipzig: Duncker & Humblot, 1885–1886.
21 Điều 230 Code Civil (Luật Dân sự), Napoleon I ban hành năm 1804.
22 Ở bản in năm 1884, đoạn "ta thấy phụ nữ bị rẻ rúng bởi sự thống trị của đàn ông và bởi sự cạnh tranh của nữ nô lệ" được ghi là "ta thấy phụ nữ ở trong tình trạng hầu như cấm cung, để đảm bảo tính xác thực về cha của những đứa trẻ". Đoạn sau đó hầu như được Engels viết mới cho bản in năm 1891, trừ vài câu có sẵn ở bản in năm 1884.
23 Aeschylus: "Oresteia".
24 Aristophanes: "Thesmophoriazusae".
25 Euripides: "Orestes".
26 Ở bản in năm 1884, đoạn "các điều kiện kinh tế" được ghi là "các điều kiện xã hội".
27 Bản thảo đó sau này được in, đó chính là cuốn "Hệ tư tưởng Đức".
28 Ở bản in năm 1884, sau đoạn "tiểu thuyết Đức" có ghi thêm "và Thụy Điển".
29 Ch. Fourier: "Théorie de l’Unité Universelle"; Paris, 1841-45, t. III, tr. 120.
30 Tiếng Anh theo đúng nguyên bản, có nghĩa là "từ pháp luật đến khế ước".
31 Tiếng Pháp theo đúng nguyên bản. Ở đây Engels chơi chữ: "droit de l’homme" là "quyền của con người", cũng có nghĩa là "quyền của đàn ông"; còn "droit de la femme" là "quyền của đàn bà".
[Chương trước] [Mục lục] [Chương sau]Thư viện | K. Marx - F. Engels
Từ khóa » Trong Gia đình Nọ Người Chồng Cho Rằng
-
Trong Gia đình Nọ, Người Chồng Cho Rằng Mình Là Người Trụ Cột Trong ...
-
Trong Gia đình Anh T, Anh Cho Rằng Mình Là Người Trụ Cột ... - Khóa Học
-
Trong Gia đình Anh T, Anh Cho Rằng Mình Là Người Trụ ...
-
Trong Gia đình Nọ, Người Chồng Cho Rằng Mình Là ...
-
Trong Gia đình Anh T, Anh Cho Rằng Mình Là Người ... - Vietjack.online
-
Câu 30: Gia đình A Tổ Chức Sản Xuất đồ Gia Dụng Bằng Gỗ Bán Rộng ...
-
Hạnh Phúc Bất ổn Vì Sự “đổi Ngôi“ | Hôn Nhân - Báo Phụ Nữ Thủ Đô
-
Anh D Cho Rằng Mình Là Người Trụ Cột Trong Gia đình Và Có Quyền Gia ...
-
Hạnh Phúc Gia đình Là Gì
-
Trong Gia đình, Vợ Hoặc Chồng Có Nên Có Quỹ đen? - Báo Lao Động
-
Vợ Hay Chồng Nên Làm Chủ Tài Chính Gia đình?
-
Chém Chết Vợ Vì Cho Rằng Không được Coi Là Trụ Cột Gia đình
-
Con Cháu Lễ Phép Hiếu Thảo, Kính Trọng Tận Tụy Với ông Bà Cha Mẹ
-
Đằng Sau Sự Thành Công Của Phụ Nữ Là đàn ông - Tuổi Trẻ Online