Nguyễn Duy (nhà Thơ) – Wikipedia Tiếng Việt

Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách cập nhật cho bài viết này. (tháng 5/2024)
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 4/2022) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Đối với các định nghĩa khác, xem Nguyễn Duy (định hướng).
Nguyễn Duy
Bút danhNguyễn Duy
Quốc tịchViệt Nam
Dân tộcNgười Việt
Tư cách công dânViệt Nam
Thể loạiThơ tự do
Giải thưởng nổi bậtGiải nhất thơ tuần báo Văn nghệ năm 1973, tặng thưởng loại A về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007

Nguyễn Duy (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948), là một nhà thơ hiện đại Việt Nam.

Tiểu sử tóm tắt

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Trong giai đoạn này, ông đã trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện của báo này tại phía Nam.

Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, "Giọt nước mắt và nụ cười", Tre Việt Nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Ông đã biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) khổ 81 cm x 111 cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.

Nguyễn Duy được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

Tác phẩm chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cát trắng (1973), 50 bài thơ
  • Ánh trăng (1978), 33 bài thơ
  • Đãi cát tìm vàng (1987), 38 bài thơ
  • Mẹ và em (1987)
  • Đường xa (1989), 19 bài thơ
  • Quà tặng (1990)
  • Về (1994), 49 bài thơ
  • Sáu và Tám (tuyển thơ lục bát, 1994)
  • Tình tang (1995)
  • Vợ ơi (tuyển thơ tặng vợ, 1995)
  • Bụi (1997), 49 bài thơ
  • Thơ Nguyễn Duy (2010, tuyển tập những bài thơ tiêu biểu nhất của ông)
  • Quê nhà ở phía ngôi sao (2017)
  • Tuyển thơ lục bát (2017)

Thể loại khác

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Em-Sóng (kịch thơ, (1983)
  • Khoảng cách (tiểu thuyết, 1986)
  • Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký, 1986)
  • Tôi thích làm vua (ký, 1988)
  • Ghi và Nhớ (ký, 2017)

Thành tựu nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì thế cứ ngấm vào người đọc. Trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải giật mình suy nghĩ, nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao,.... Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt chẽ. Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt Nam.

Nguyễn Duy còn có bộ 3 bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công chúng biết tới viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh. Bài thơ đầu mang tên Đánh thức tiểm lực viết từ năm 1980 đến 1982 với những suy tư về tiềm lực và tương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông đến thăm Liên Xô và đến năm 1988 mới hoàn thành mang tên "Nhìn từ xa...Tổ quốc". Bài thơ viết về những trì trệ, bất cập mà ông mắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với những câu thơ rất mạnh mẽ, "như những nhát dao cứa vào lòng người đọc" (Lê Xuân Quang). Bài thơ thứ 3 viết sau đó chục năm, mang tên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với 2 bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng hơn: những suy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.[1]

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói như sau: "Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang ấy."[2] Ông giành giải Mai Vàng năm 1997 cho tuyển tập thơ Bụi.[3]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Loading...”. vannghesongcuulong.org. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  2. ^ cand.com.vn. “Nhạc sĩ họ Trịnh vẽ chân dung bạn văn”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2024.
  3. ^ “Danh sách nghệ sĩ từng đoạt Giải Mai Vàng 19 năm qua”. Người Lao Động. ngày 3 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nguyễn Duy và "Triển lãm thơ, ảnh trên giấy dó"
  • Nguyễn Duy mang thơ Việt Nam sang Mỹ
  • Nguyễn Duy và triển lãm "Hồn giấy dó"
  • Nguyễn Duy: "Tiềm lực còn đang ngái ngủ"
  • Triển lãm thơ Thiền Lý - Trần in trên giấy dó
  • NGUYỄN DUY: Đánh Thức Tiềm Lực - Nhìn từ xa... ’’Phấp Phới Ngũ Hành Kỳ’

Từ khóa » Cuộc đời Và Sự Nghiệp Của Nguyễn Duy