Nguyên Lý Siêu âm Doppler – GS. Phạm Minh Thông - ViRAD

Mục lục

  • 1. NGUYÊN LÝ CHUNG CỦA HIỆU ỨNG DOPPLER
  • 2. NGUYÊN LÝ CÁC KIỂU SIÊU ÂM DOPPLER
    • 2.1. Nguyên lý của siêu âm Doppler liên tục:
    • 2.2. Nguyên lý siêu âm Doppler xung:
    • 2.3. Nguyên lý siêu âm Doppler màu
    • 2.4. Siêu âm Doppler năng lượng hay siêu âm Angio
  • 3. PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER TRONG SIÊU ÂM CHẨN ĐOÁN
    • 3.1. NGUYÊN TẮC CỦA PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER
    • 3.2. PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER BẰNG ÂM THANH.
    • 3.3. CỬA SỔ THĂM KHÁM DOPPLER
    • 3.4. PHỔ DOPPLER BIỂU HIỆN BẰNG ĐƯỜNG VẼ
  • 4. MỘT SỐ ĐIỂM ĐẶC TRƯNG CỦA DÒNG CHẢY TRÊN PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER
    • 4.1. Chiều dòng chảy:
    • 4.2. Phân loại các thay đổi tần số:
    • 4.3. Sức đập:

Siêu âm Doppler, bao gồm siêu âm Doppler màu, Doppler năng lượng, Doppler xung, Doppler liên tục, … được ứng dụng rất phổ biến trong siêu âm và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong siêu âm chẩn đoán. Tuy nhiên, để phân tích hình ảnh chính xác và hiệu quả thì việc hiểu được nguyên lý đóng vai trò quyết định.

1. NGUYÊN LÝ CHUNG CỦA HIỆU ỨNG DOPPLER

Năm 1842, Johan Christian Doppler nhà vật lý học người Áo đã phát biểu hiệu ứng mang tên ông trong lĩnh vực ánh sáng. Sau này các nhà vật lý đã chứng minh rằng: hiệu ứng này còn xảy ra và đúng ở các môi trường vật chất dạng sóng khác như sóng Radio, sóng âm thanh. Trong lĩnh vực sóng âm, nguyên lý của hiệu ứng Doppler được hiểu như sau: khi một chùm siêu âm được phát đi gặp một vật thì sẽ có hiện tượng phản hồi âm, tần số của chùm siêu âm phản hồi về sẽ thay đổi so với tần số của chùm phát đi nếu khoảng cách tương đối giữa nguồn phát và vật thay đổi; tần số tăng nếu khoảng cách giảm và ngược lại.

2. NGUYÊN LÝ CÁC KIỂU SIÊU ÂM DOPPLER

Có 4 kiểu siêu âm Doppler: Doppler liên tục, Doppler xung, Doppler màu và Doppler năng lượng.

2.1. Nguyên lý của siêu âm Doppler liên tục:

– Đây là kiểu siêu âm Doppler đòi hỏi cấu trúc máy đơn giản nhất. Đầu dò của máy có chứa hai tinh thể gốm áp điện: một tinh thể có chức năng phát liên tục chùm sóng siêu âm; và tinh thể kia có nhiệm vụ thu sóng phản hồi về. – So sánh giữa tần số của chùm siêu âm phát và chùm siêu âm thu về là cơ sở để tính tốc độ di chuyển của vật. Trong cơ thể thì vật di chuyển để tạo nên tín hiệu Doppler chính là các tế bào máu di chuyển trong lòng mạch, trong đó chủ yếu là các hồng cầu. Tín hiệu Doppler có thể được biểu diễn dưới dạng âm thanh, đường ghi hoặc phổ. – Kiểu siêu âm Doppler liên tục có các ưu điểm như : cấu tạo của máy đơn giản, giá thành thấp, cho phép ghi được các dòng chảy có tốc độ cao, không có hiện tượng ” aliasing”( cắt cụt đỉnh). – Ngược lại, kiểu Doppler này có các nhược điểm như: không cho phép ghi chọn lọc ở một vùng, máy ghi lại tất cả các tín hiệu dòng chảy mà chùm siêu âm đi qua.

2.2. Nguyên lý siêu âm Doppler xung:

2.2.1. Nguyên lý – Trong kiểu Doppler xung thì đầu dò chỉ có một tinh thể gốm áp điện, sóng âm được phát ra ngắt quãng được gọi là xung siêu âm, xen giữa các xung siêu âm là thời gian nghỉ để các tinh thể gốm áp điện thu tín hiệu của chùm siêu âm phản hồi về. – Siêu âm Doppler xung đã giúp giải quyết được vấn đề khó khăn thăm khám mạch liên quan đến chiều sâu và kích thước mạch do siêu âm Doppler xung luôn gắn cùng với siêu âm hai bình diện.

– Trong kiểu siêu âm Doppler xung thì chỉ có tín hiệu dòng chảy ở một vùng nhất định được ghi lại. – Vị trí và thể tích vùng ghi tín hiệu Doppler (còn gọi là cửa ghi Doppler) có thể thay đổi được. Vị trí cửa ghi Doppler được xác định bởi khoảng thời gian từ lúc phát đến lúc thu chùm siêu âm phản hồi về. Kích thước của cửa ghi Doppler phụ thuộc vào chiều rộng của chùm siêu âm và khoảng thời gian thu sóng phản hồi (t).

– Do vận tốc của của sóng âm trong cơ thể khá hằng định(1540cm/s) nên chiều sâu của vùng ghi tín hiệu Doppler – d( khoảng cách từ đầu dò tới vùng ghi tín hiệu) được xác định theo công thức:

– Chiều dài của cửa ghi Doppler được xác định bởi thời gian thu sóng phản hồi (t). – Chiều rộng của cửa ghi Doppler phụ thuộc vào kích thước của chùm siêu âm. – Tần số nhắc lại xung (pulse repetition frequency-PRF) là số lần trong một giây mà chùm siêu âm đi đến đích và quay về. PRF được tính bằng kHz và thường được ghi là K để không nhầm với tần số Doppler (Δf cũng được tính bằng kHz).

PRF có ý nghĩa quan trọng trong kỹ thuật ghi phổ Doppler vì theo phương trình Shannon:

Δf ≤ PRF/2

– Khi Δf > PRF/2 thì có hiện tượng (aliasing), có nghĩa là đỉnh phổ Doppler bị cắt cụt và được ghi sang phía đối diện của đường 0. – Để tránh hiện tượng này có 4 biện pháp:

• Chuyển đường 0 xuống thấp, bỏ các tần số (-) để làm tăng thêm các tần số (+) trên đường 0 • Giảm Δf bằng cách giảm tần số phát fo (chọn đầu dò có tần số thấp), hay tăng góc θ để giảm Cosθ tuy nhiên góc θ phải luôn < 600 để giảm sai số . • Giảm độ sâu (d) bằng cách ép bệnh nhân để tăng PRF • Sử dụng máy có tần số PRF cao. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật người ta đã chế tạo được các máy siêu âm Doppler có PRF cao bằng cách phát đi và thu về nhiều lần tín hiệu siêu âm trong thời gian chùm sóng âm đi tới vật và quay trở lại, nhưng không phải máy siêu âm Doppler nào cũng có khả năng này.

Sơ đồ nguyên tắc của PRF cao: a. PRF< 2 Δf: có phổ Doppler bị cắt cụt đỉnh ngay cả khi đã hạ đường 0 xuống thấp. b. PRF 4 lần nhanh hơn thì ngay cả khi nâng đường 0 lên cao cũng không bị cắt cụt đỉnh.

– Hiện nay các máy siêu âm xung có kỹ thuật nhắc lại tần số cao (gọi là HPRF- high pulse repetition frequency), tuy nhiên vẫn có giới hạn tối đa của HPRF, do vậy siêu âm Doppler xung chỉ cho phép đo được tốc độ cao nhất định. – So với kiểu siêu âm Doppler liên tục, kiểu Doppler xung có ưu điểm như: cho phép lựa chọn chính xác và thay đổi kích thước vùng cần ghi tín hiệu Doppler. – Ngược lại kiểu siêu âm này cũng có một số nhược điểm: hạn chế về tốc độ tối đa có thể đo được, hạn chế về độ sâu có thể thăm dò cũng như phụ thuộc nhiều vào góc θ.

2.2.2. Phân tích phổ. – Tín hiệu Doppler (Doppler liên tục hay Doppler xung ) được phân tích dưới dạng âm thanh, đường ghi hay dạng phổ. – Do tần số Doppler (Δf) nằm trong khoảng nghe thấy của tai người nên chỉ cần dùng loa thông thường có thể nghe thấy tín hiệu Doppler, và chẩn đoán có thể dựa trên sự thay đổi âm sắc và cường độ âm thanh. – Trong kiểu thể hiện tín hiệu Doppler bằng đường ghi, người ta dùng kỹ thuật đếm số lần tín hiệu vượt trên đường 0 (zero crossing detector). Tín hiệu Doppler được tính chung như một giao động, máy cho phép tính được số lần (tần số) dao động này vượt qua đường 0. Đường ghi tốc độ không thể hiện giá trị lớn nhất, cũng không phải giá trị trung bình của dòng chảy, nó được ước tính f. Vì vậy đường cong ghi được không biểu hiện tốc độ tức thì của dòng chảy mà chỉ thể hiện tốc độ chung của các dòng chảy mà chùm siêu âm gặp phải trên đường đi. – Phổ Doppler là kết quả của sự phân tích tín hiệu Doppler (Δf) bằng phép biến đổi nhanh của Fourier( Fast Fourier Transform-FFT)

– Tần số Doppler (Δf) thu được là sự kết hợp của nhiều tần số khác nhau( do trong một dòng chảy có nhiều tốc độ khác nhau). Phép biến đổi FFT cho phép phân tích nhanh( trong 5 micro giây) một tần số Doppler thành các tần số thành phần( hình trên) và thể hiện cường độ của mỗi tần số thành phần này bằng độ sáng trên đường ghi phổ Doppler( Doppler spectrum). Như vậy phổ Doppler được coi như đường ghi tín hiệu theo không gian ba chiều: trục thời gian, trục tần số( hay tốc độ) và trục thứ ba là trục cường độ( biểu hiện bằng độ sáng) của các tần số thành phần. – Đường cong biểu diễn phổ Doppler của động mạch đã được lọc bớt các tín hiệu tần số thấp để loại bỏ các các hiệu ứng Doppler của thành mạch có tần số thấp nhưng cũng loại bỏ bớt các tần số thấp của dòng chảy sát thành mạch. Trên động mạch bình thường thì các tần số Doppler cao nhiều hơn các tần số thấp cho nên tạo ra cửa sổ ít tín hiệu trong thì tâm thu.

2.2.3. Siêu âm Doppler xung kết hợp với siêu âm cắt lớp (hệ thống Duplex) – Thăm khám siêu âm Doppler dễ dàng nhờ gắn cùng hệ thống siêu âm cắt lớp và hiện nay tất cả các máy siêu âm Doppler xung đều được cấu tạo như vậy. Nhờ có hệ thống siêu âm cắt lớp mà mạch máu được dễ dàng nhận thấy để đặt cửa sổ ghi Doppler cũng như dộ rộng của nó nhính xác phù hợp với kích thước của mạch cần thăm khám. PRF cũng có thể được tự động điều chỉnh hay điều chỉnh tuỳ theo ý muốn phù hợp với từng mạch máu cần thăm khám cũng như góc thăm khám θ phù hợp. – Hình phổ Doppler được biểu hiện trên màn hình đồng thời với hình 2D hay riêng biệt để dễ dàng phân tích.

2.3. Nguyên lý siêu âm Doppler màu

– Người ta áp dụng nguyên lý siêu âm Doppler xung nhiều cửa (multigate pulse Doppler) để thu tín hiệu Doppler trên một vùng trong một mặt cắt. – Tín hiệu từ các cửa ghi Dopplerr này được mã hoá dưới dạng màu và thể hiện chồng lên hình ảnh siêu âm hai chiều tạo thành hình Doppler màu còn được gọi là bản đồ màu của dòng chảy( Color Flow Mapping- CFM)

– Sơ đồ nguyên lý siêu âm Doppler màu:

Việc mã hoá tốc độ dòng chảy trên siêu âm Doppler màu được thực hiện theo các nguyên tắc: • Các dòng chảy về phía đầu dò được thể hiện bằng màu đỏ, dòng chảy đi xa đầu dò được thể hiện bằng màu xanh. Có thể đảo ngược chiều qui ước này trên máy (dòng chảy về đầu dò chuyển thành màu xanh). • Dòng chảy có tốc độ càng lớn được thể hiện bằng màu càng sáng: ví dụ khi tốc độ dòng chảy càng tăng thì màu xanh thẵm chuyển thành màu xanh tươi, màu đỏ chuyển thành màu xanh lá cây và màu vàng thậm chí thành màu sáng (trắng). • Nếu tốc độ dòng chảy lớn sẽ có hiện tượng “aliasing” màu: chỗ tăng tốc biến thành màu đối lập nhưng phai nhạt; ví dụ như màu đỏ biến thành màu xanh nhạt. • Nếu có dòng rối (dòng chảy lộn xộn theo nhiều hướng với tốc độ khác nhau) thì có hình khảm màu: các ô đỏ, xanh, vàng nằm xen lẫn nhau không theo trật tự nào cả. – Ưu điểm của Siêu âm Doppler màu: • Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm: do có số ảnh/giây thấp, độ phân giải không gian kém, tốc độ thể hiện trên siêu âm Doppler màu không phải là tốc độ thực, nó chỉ có tính chất biểu thị chiều dòng chảy và thể hiện một cách tương đối tốc độ dòng chảy. • Cho nên siêu âm Doppler màu cần phải giải quyết một số khó khăn đó là: + Tín hiệu yếu nên cần có đầu dò có tần số Doppler thấp hơn tần số của siêu âm cắt lớp và chỉ một số máy có chức năng tự động thay đổi tần số Doppler này. + Vì chỉ có một đầu dò vừa cho các hình ảnh siêu âm cắt lớp (có hình ảnh rõ nét nhất khi giữa chùm sóng phát và vật là 900) và vừa cho hình ảnh Doppler màu (nó có hình ảnh rõ nét nhất khi góc giữa sóng âm và vật là 00), muốn giải quyết mâu thuẫn này một số máy có đầu dò dẹt có mặt ngoài vát để tạo góc tốt cho siêu âm Doppler, một số máy khác có thể thay đổi góc bằng phương pháp điện tử. + Phân tích trong thời gian thực rất nhiều các chỉ số, hình ảnh siêu âm Doppler màu được tạo nên do nhiều đường phát tín hiệu (L) và trên mỗi đường này lại cần có nhiều xung ( I) để có tín hiệu tốt, để đi hết chiều dài của đường phát cần có thời gian (T) và nó ngược lại với PRF (PRF cao thì T giảm và ngược lại), với PRF là 5kHz thì T khoảng 200 micro giây. Số lượng ảnh thu được cho phép phân tích trong thời gian thực và nó phụ thuộc vào Tx I xL. Nếu L là 20 đường và I là 10 xung trên 1 đường và 200 microgiây cho mỗi đường phát thì mỗi hình ảnh sẽ mất 40 miligiây và ta có 25 ảnh /giây. Ngược lại nếu PRF thấp hơn, số xung và số đường phát nhiều hơn thì số ảnh sẽ ít hơn. Chính vì vậy mà trên siêu âm màu muốn có nhiều hình/giây thì cần phải giảm kích thước ảnh (giảm chiều sâu để tăng PRF, giảm chiều rộng để giảm số lượng đường phát) – Do đó để có thể thực sự phân tích đầy đủ về hình thái và tính chất huyết động của mạch máu cần phải dựa trên sự kết hợp phân tích hình ảnh hai chiều, hình Doppler màu và phổ doppler. Máy siêu âm Doppler màu có cả 3 kiểu siêu âm này ( hệ thống Triplex) tạo điều kiện thuận lợi cho thăm dò mạch máu.

2.4. Siêu âm Doppler năng lượng hay siêu âm Angio

– Đo tín hiệu Doppler thấp nên tín hiệu Doppler (Δf) được biến đổi mã hoá năng lượng. Hình ảnh này được gọi là siêu âm năng lượng hay siêu âm màu mã hoá năng lượng. – Hình ảnh mới này không còn là hình siêu âm Doppler màu nữa và có nhiều điểm khác so với siêu âm Doppler màu: + Không nhận biết được chiều của dòng chảy về phía đầu dò hay đi xa đầu dò. + Toàn bộ lòng mạch được lấp đầy các pixel màu vì Doppler năng lượng có độ nhạy gấp 3 lần Doppler màu và có hình ảnh chụp mạch trên siêu âm Doppler (Angio Doppler). Các mạch máu nhỏ cũng được nhìn thấy (các động mạch liên thuỳ thận). + Hình ảnh chụp nhu mô có thể được thấy + Bằng siêu âm Doppler năng lượng có thể phát hiện tưới máu trong u, các mạch tân tạo tăng mạch trong viêm cũng có thể được phát hiện. + Không có hiện tượng “aliasing” màu, cũng như không còn phải phụ thuộc vào góc θ. + Siêu âm Doppler năng lượng được ứng dụng chủ yếu trong thăm khám các mạch máu nhỏ và nhất là có tốc độ dòng chảy thấp mà siêu âm Doppler màu thông thường không đủ độ nhạy để phát hiện.

3. PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER TRONG SIÊU ÂM CHẨN ĐOÁN

Phổ Doppler là tất cả các tín hiệu Doppler phản xạ về có nhiều tần số khác nhau Phân tích phổ Doppler là sắp xếp các tín hiệu có tần số khác nhau này theo trật tự nhất định. Các máy siêu âm Doppler hiện đại ngày nay có phân tích phổ Doppler thời gian thực, tức là các tần số Doppler được phân tích tức thời khi thăm khám đang tiến hành. Hệ thống máy tính điện tử trong máy siêu âm tính toán, phân tích phổ Doppler theo phép biến đổi nhanh Fourier.

3.1. NGUYÊN TẮC CỦA PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER

– Nếu như máu chảy trong lòng mạch liên tục; nếu như mạch máu thẳng và có đường kính không thay đổi; nếu như tốc độ dòng chảy giống nhau trên cả mặt cắt của mạch máu thì phổ Doppler sẽ là đường thẳng và không cẩn phải phân tích phổ Doppler. – Nhưng trên thực tế thì dòng chảy trong lòng mạch có tốc độ rất khác nhau, kích thước lòng mạch thay đổi và có hướng đi thay đổi tuỳ từng vị trí nên dòng máu cho phổ Doppler có tác tần số khác nhau ở từng vị trí và từng thời điểm khác nhau. – Chính vì vậy mà cần phải biết phổ Doppler bình thường và khi nào thì không bình thường và cần phải phân tích phổ Doppler.

3.2. PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER BẰNG ÂM THANH.

– Phân tích phổ Doppler được ứng dụng đầu tiên bằng tín hiệu âm thanh, do dựa trên thực tế là tai người có thể phân tích được tiếng nói của người này khác với người kia mà người ta có thể ứng dụng để phân biệt tín hiệu Doppler trên âm thanh có các tần số khác nhau để chẩn đoán bệnh. – Ngay cả các máy Doppler hiện đại nhất cũng đều có bộ phận để phân tích tín hiệu Doppler bằng nghe. Nhưng ta không thể định lượng được bằng nghe để chẩn đoán mức độ hẹp hay tắc của mạch. Chính vì vậy mà cần thiết phải biểu hiện phổ Doppler bằng đường vẽ.

3.3. CỬA SỔ THĂM KHÁM DOPPLER

– Cần phải hiểu khái niệm cửa sổ thăm khám Doppler: đó là hình một thể tích không gian ba chiều tuy nhiên chỉ biểu hiện không gian hai chiều trên màn hình. – Kích thước và hình dạng của cửa sổ không biểu hiện hoàn toàn tương ứng trên phổ Doppler. Điều cần phải lưu ý là phân tích phổ Doppler chỉ thực hiện trong vùng cửa sổ Doppler này, nếu như cửa sổ Doppler được điều chỉnh thích hợp thì mạch máu được thăm khám thực hiện chính xác.

Hình cửa sổ Doppler Hai đường song song (mũi tên đen): chỉ chiều dài cuả cửa sổ Doppler Đường A: là đường thu tín hiệu Doppler Đường B: chỉ trục của dòng chảy Góc θ tạo bởi đường A và B là góc Doppler.

3.4. PHỔ DOPPLER BIỂU HIỆN BẰNG ĐƯỜNG VẼ

– Phân tích phổ Doppler là bóc tách các tần số khác nhau của tín hiệu doppler thu được thành các tần số (tốc độ khác nhau) tạo nên phổ Doppler và biểu diễn nó thành đường ghi trên màn hình. – Phổ doppler ghi được biểu thị cả tốc độ (cm/s) và tần số (kHz), nhờ có góc θ được biết trước mà máy tính có thể tính toán chuyển đổi tần số thành tốc độ, và hầu hết các máy ngày nay đều có biểu thị tốc độ của dòng chảy khi phân tích phổ Doppler.

Hình phổ doppler biểu hiện trên màn hình – Hình cắt lớp (góc trên trái) cho biết mạch máu, cửa sổ Doppler, và góc Doppler – Thời gian biểu thị bằng trục ngang và được tính bằng giây – Tần số hay tốc độ được biểu thị bằng trục dọc – Chiều của dòng chảy: về đầu dò thì phổ Doppler nằm trên đường 0 và ngược lại.

4. MỘT SỐ ĐIỂM ĐẶC TRƯNG CỦA DÒNG CHẢY TRÊN PHÂN TÍCH PHỔ DOPPLER

4.1. Chiều dòng chảy:

– Chiều dòng chảy được tính một cách tương đối so với đầu dò và được biểu hiện bằng phổ Doppler ở trên đường 0 và phổ Doppler nằm dưới đường 0. – Tuy nhiên chiều dòng chảy này không phải là tuyệt đối vì có thể thay đổi chiều dòng chảy bằng cách xoay đầu dò 1800 hay bấm vào nút đảo chiều trên máy, chính vì vậy mà chiều dòng chảy phải dựa vào các mạch máu có chiều dòng chảy cố định như động mạch chủ hay động mạch cảnh để so sánh.

4.2. Phân loại các thay đổi tần số:

– Biểu hiện của phổ Doppler trên màn hình là sự phân loại hay sắp xếp các thay đổi tần số theo trật tự ở bên trong cửa sổ thu tín hiệu Doppler. – Sự sắp xếp này tuỳ thuộc vào mức độ dòng chảy có trật tự hay không có trật tự, khi có trật tự thì gọi là dòng chảy thành lớp, khi không có trật tự gọi là dòng chảy rối. 4.2.1. Dòng chảy thành lớp: – Được đặc trưng bằng chuyển động có trật tự của các tế bào máu theo các đường thẳng song song với thành mạch. Dòng chảy này là đặc trưng của dòng chảy bình thường của hầu hết các động mạch và một số tĩnh mạch lớn. – Trong dòng chảy lớp thì đa số các tế bào máu di chuyển cùng một tốc độ cho nên phổ Doppler biểu hiện là đường mảnh và có khoảng trống phía dưới gọi là cửa sổ phổ Doppler. – Trên siêu âm Doppler màu biểu hiện có đường đỏ đậm sát thành mạch tương ứng với tốc độ thấp và đỏ nhạt hơn ở giữa lòng mạch tương ứng với tốc độ cao hơn. Trên âm thanh thì dòng chảy lớp có tiếng thanh trong như tiếng sáo.

Hình dòng chảy thành các lớp A: Sơ đồ các lớp của dòng chảy B: Phổ Doppler của dòng chảy lớp. Do phần lớn các thành phần máu chảy với tốc độ giống nhau nên phổ Doppler vẽ lên hình dường viền trắng khá rõ nét bao bọc bên ngoài vùng đen ” gọi là cửa sổ tín hiệu Doppler”. Hình đường vẽ bên trên phải tương ứng với thời điểm đánh dấu bằng mũi tên phía dưới của phổ Doppler

Hình dòng chảy lớp trên siêu âm Doppler màu.

Dòng chảy có tốc độ chậm nằm gần thành mạch và có màu đổ thẫm, dòng chảy có tốc độ cao nằm ở trung tâm và có màu đỏ nhạt hơn.

4.2.2. Dòng chảy rối – Chuyển động của các thành phần máu không còn cùng một tốc độ nữa mà có các tốc độ khác nhau. Mức độ của dòng chảy không có trật tự biểu hiện bằng độ dày của viền phổ Doppler ( bờ của phổ Doppler không còn tập trung thành đường mảnh nữa). – Dòng chảy rối ít biểu hiện bằng hình bờ viền phổ Doppler dày ra chỉ ở cuối thì tâm thu và đầu tâm trương, chiều dày phổ Doppler càng rộng thì mức độ dòng chảy rối càng nhiều. – Dòng chảy rối trung bình thì cửa sổ tín hiệu Doppler bị lấp đầy, và dòng chảy rối nặng thì bờ phổ Doppler không rõ nữa và có cả dòng chảy đi và tới đầu dò. Bình thường thì không có dòng chảy rối nặng ở các mạch máu bình thường. Dòng chảy rối nặng thường gặp trong các trường hợp hẹp khít của lòng mạch và càng có dòng chảy rối nhiều thì mức độ hẹp càng nặng. – Dòng chảy rối đôi khi là biểu hiện của mạch bệnh lý nhưng cũng cần biết rằng dòng rối gặp cả ở mạch bệnh lý và mạch bình thường. Các mạch ngoằn ngoèo, xoắn vặn thì có dòng rối, một ví dụ điển hình là hầu như luôn thấy dòng chảy rối ở vùng hành cảnh. Vùng có dòng chảy đảo chiều thường thấy ở đoạn to nhất của động mạch cảnh trong vùng hành cảnh, và được thấy dòng rối cả trên siêu âm Doppler xung hay Doppler màu. Nói chung dòng rối ở mạch bình thường thì không bao giờ rối loạn nhiều, dòng rối nhiều thường luôn có trong hẹp mạch nhất là hẹp khít.

Hình C: Dòng rối trung bình Làm lấp đầy cửa sổ trống trên phổ Doppler, tốc độ khoảng 75cm/giây .

Hình D. Dòng rối nặng Biểu hiện bằng mất cửa sổ trống tín hiệu, bờ phổ Doppler không rõ, tốc độ khoảng 125cm/giây

– Ảnh hưởng của kích thước cửa sổ ghi Doppler: Kích thước của cửa sổ ghi Doppler cũng ảnh hưởng đến phổ Doppler. Thường thì trên các máy siêu âm Doppler khi để cửa sổ ghi Doppler rộng thì viền phổ Doppler cũng dày lên. Tuy nhiên chiều dày phổ Doppler rộng ra là một dấu hiệu chung của mạch bệnh lý.

4.3. Sức đập:

Phổ Doppler biểu diễn thay đổi tốc độ trong lòng mạch ở mỗi kỳ tâm thu. Hình ảnh phổ Doppler bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: yếu tố huyết động, chức năng tim, yếu tố thành mạch, lưu lượng máu đến và đi ở vùng thăm dò…

4.3.1. Cản trở dòng đến: – Ở mạch máu bình thường không có cản trở dòng đến thì trong thì tâm thu có tốc độ dòng chảy tăng lên đột ngột và nhanh chóng tới đỉnh. – Nếu dòng đến bị cản trở nhiều do tổn thương gây tắc ở đầu gần so với vùng thăm khám thì tâm thu tốc độ tăng lên từ từ (thời gian tăng tốc tâm thu kéo dài) và đỉnh tâm thu và tâm trương đều thấp hơn bình thường. – Hậu quả là phổ Doppler có dạng sóng dẹt và thấp, và ta có thể đo được ảnh hưởng của dòng đến tới thời gian tăng tốc tâm thu. – Tăng tốc tâm thu chịu ảnh hưởng của cả chức năng tim và cản trở dòng đến. Phổ Doppler có thể dẹt và thời gian tăng tốc kéo dài nếu như tống máu ra từ thất trái chậm do rối loạn chức năng cơ tim hay do hẹp van động mạch chủ. Khi ta thấy có phổ Doppler tròn thấp và thời gian tăng tốc tâm thu kéo dài thì cần kiểm tra ở mạch khác để xác định đó là do cản trở dòng đến hay do tim.

4.3.2. Cản trở dòng đi: – Tốc độ của dòng đi phụ thuộc vào sức cản (trở kháng) của tuần hoàn do động mạch. Sức cản tuần hoàn thay đổi ở từng vùng khác nhau của cơ thể và thể hiện trên phổ Doppler của mạch máu nuôi dưỡng vùng đó, ví dụ như động mạch cảnh trong có phổ điển hình của mạch máu có sức cản thấp với hình đỉnh tâm thu rộng và dòng đến xuất hiện cả trong thì tâm trương do máu lên não có dòng đến không bị ngừng trong thì tâm trương. – Sức cản bình thường và cao nhất là ở các mạch máu các chi, chúng có phổ Doppler với đỉnh tâm thu nét và hẹp, có sóng ngược chiều sớm trong thì tâm trương do có dòng đến muộn trong kỳ tâm trương. – Sóng đảo chiều là sóng phản xạ, là đặc trưng của động mạch có sức cẩn lớn. Phổ Doppler của các mạch ngoại vi có sức cản lớn có sóng 3 pha do có 3 thành phần sóng: hai pha đến và một ngược chiều.

– Thay đổi phổ Doppler giúp cho chẩn đoán tắc mạch, ví dụ như khi có tổn thương tắc của động mạch cảnh trong thì phổ Doppler thay đổi từ 1 pha bình thường ở động mạch cảnh gốc tới 2 thậm chí 3 pha. – Để định lượng được sức cản dòng đi thì người ta sử dụng nhiều chỉ số khác nhau nhưng chỉ số sức đập của Gosling và chỉ số sức cản của Pourcelot và tỷ số tâm thu / tâm trương là hay được dùng nhất. Các chỉ số này thay đổi ở các vùng khác nhau của cơ thể. – Cả sinh lý và bệnh lý đều có thể làm thay đổi phổ Doppler ví dụ như có thể thấy phổ Doppler của mạch có sức cản thấp có sóng 1 pha ở mạch ngoại biên sau khi tập thể dục nặng làm giãn các mạch và làm giảm sức cản. – Cũng vẫn thấy hình phổ Doppler như vậy ở mạch ngoại biên nhưng là bệnh lý khi có giãn mạch đầu xa do tắc mạch đầu gần.

Chỉ số sức đập của Gosling (Pulsatility Index) PI= ( A: tốc độ tâm thu; B: tốc độ tâm trương; M : tốc độ trung bình)

Chỉ số sức cản của Pourcelot( Resistivity Index) ( A: tốc độ tâm thu, B: tốc độ tâm trương )

Từ khóa » Các Loại Siêu âm Doppler