Nguyễn Quang Sáng – Wikipedia Tiếng Việt

Nhà văn
Nguyễn Quang Sáng
Chủ tịch Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh
Nhiệm kỳ1981 – 2000
Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (khóa IV)
Nhiệm kỳ1989 – 1995
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh(1932-01-12)12 tháng 1, 1932
Nơi sinhLong Xuyên, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương
Mất
Ngày mất13 tháng 2, 2014(2014-02-13) (82 tuổi)
Nơi mấtQuận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Đảng chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
Nghề nghiệpnhà thơ
Gia đình
VợLương Thị Phương
Con cáiNguyễn Viết QuangNguyễn Quang Dũng
Lĩnh vựcvăn học
Sự nghiệp văn học
Giai đoạn sáng tác1954–2008
Thể loạitiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim
Tác phẩm
    • Cánh đồng hoang (kịch bản phim)
    • Mùa gió chướng (kịch bản phim)
    • Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn)
    • Đất lửa (tiểu thuyết)
Giải thưởngDanh sách
Binh nghiệp
Thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ1946-1955
Giải thưởng
Giải thưởng Hồ Chí Minh 2000Văn học Nghệ thuật
Website
Nguyễn Quang Sáng trên IMDb
[sửa trên Wikidata]x • t • s

Nguyễn Quang Sáng (bút danh là Nguyễn Sáng; 1932 – 2014) là nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật năm 2000. Ông được biết đến với vai trò là tác giả và biên kịch của hai tác phẩm nổi tiếng là truyện ngắn Chiếc lược ngà và phim điện ảnh Cánh đồng hoang. Ông là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV (1989-1995).

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Quang Sáng (bút danh là Nguyễn Sáng) sinh ngày 12 tháng 1 năm 1932 tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới (nay là xã Chợ Mới), tỉnh An Giang.

Từ tháng 4 năm 1946, ông xung phong vào bộ đội, làm liên lạc viên cho đơn vị Liên Chi 2. Đến năm 1948, được bộ đội cho đi học thêm văn hóa ở Trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 1950, về công tác tại Phòng Chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo (chủ yếu là Phật giáo và Hòa Hảo).

Năm 1955, ông theo đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với quân hàm Chuẩn úy, về làm cán bộ Phòng Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản Văn học, cán bộ sáng tác.

Năm 1966, ông vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972, trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn.

Sau ngày 30-4-1975, ông về Thành phố Hồ Chí Minh, giữ chức Tổng Thư ký (về sau đổi tên gọi thành Chủ tịch) Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh các khóa l, II, III (1981–2000).

Nguyễn Quang Sáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957; ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, III và là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khoá IV.[1]

Không lâu sau sinh nhật lần thứ 82, ông đột ngột qua đời tại nhà riêng nơi mà ông đang sống tại Quận 7 vào lúc 17 giờ ngày 13 tháng 2 năm 2014.[2]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Suốt cuộc đời cầm bút, Nguyễn Quang Sáng hầu như dồn mọi bút lực viết về mảnh đất, con người Nam Bộ. Từ tập truyện ngắn Con chim vàng lần đầu tiên được xuất hiện trên báo Văn nghệ năm 1957, cho đến lúc giã từ cõi tạm, ông đã để lại 16 tập truyện ngắn và tiểu thuyết cùng với hơn 10 kịch bản phim.[3]

Truyện ngắn Chiếc lược ngà (1966) được đưa vào giảng dạy chương trình Trung học cơ sở qua Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1 phần Văn bản từ năm học 2005 - 2006.

Ông đã giành được nhiều giải thưởng về văn học: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất năm 1959 với truyện ngắn Ông Năm Hạng; Giải thưởng Cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội (1959) với truyện ngắn Tư Quắn; Giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam (1985) với Dòng sông thơ ấu; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1994) với tập truyện ngắn Con mèo của Foujita; Giải Mai vàng cho Nhà văn xuất sắc năm 1997 với truyện ngắn Vểnh râu.[4][5]

Ngoài ra, bộ phim Cánh đồng hoang (do ông viết kịch bản) được tặng Huy chương vàng tại Liên hoan phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng Liên hoan phim quốc tế ở Moskva (1981); phim Mùa gió chướng (do ông viết kịch bản) đạt Huy chương bạc Liên hoan phim toàn quốc (Hà Nội 1980).

Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật với các tác phẩm: với các kịch bản phim Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng, tập truyện ngắn Chiếc lược ngà và tiểu thuyết Đất lửa.[6]

Tác phẩm chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Văn xuôi

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956)
  • Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968)
  • Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961)
  • Đất lửa (tiểu thuyết, 1963)
  • Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966)
  • Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966)
  • Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969)
  • Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975)
  • Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975)
  • Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977)
  • Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985)
  • Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985)
  • Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988)
  • 25 truyện ngắn (1990)
  • Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990)
  • Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991)
  • Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, 2008)

Kịch bản phim

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Mùa gió chướng (1977)
  • Cánh đồng hoang (1978)
  • Pho tượng (1981)
  • Cho đến bao giờ (1982)
  • Mùa nước nổi (1986)
  • Dòng sông hát (1988)
  • Câu nói dối đầu tiên (1988)
  • Thời thơ ấu (1995)
  • Giữa dòng (1995)
  • Như một huyền thoại (1995)
  • Con gà trống (2002)
  • Con khỉ mồ côi (2004)

Nguồn:[2]

Vinh danh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2000.

Giải thưởng văn học

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất năm 1959 với truyện ngắn Ông Năm Hạng;
  • Giải thưởng Cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội (1959) với truyện ngắn Tư Quắn;
  • Giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam (1985) với Dòng sông thơ ấu;
  • Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1994) với tập truyện ngắn Con mèo của Foujita;
  • Giải Mai vàng cho Nhà văn xuất sắc năm 1997 với truyện ngắn Vểnh râu

Nguồn:[7]

Gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Vợ ông là bà Lương Thị Phương, trước khi kết hôn với ông, bà đã có một đời chồng và một con riêng tên là Hoài Hương.[8] Ông là cha ruột của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng (sinh 1978)[9] (người đã thay mặt gia đình đọc lời cảm tạ trong lễ truy điệu) và kiến trúc sư Nguyễn Viết Quang (sinh 1972).

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Nhà văn NGUYỄN QUANG SÁNG (1932 – 2014)". Bảo tàng Văn học Việt Nam. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2025.
  2. ^ a b L.Điền, T.Nghĩa (ngày 13 tháng 2 năm 2014). "Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Quang Sáng!". Bảo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2025.
  3. ^ Ngọc Anh (ngày 27 tháng 12 năm 2024). "Nguyễn Quang Sáng - Nhà văn của phong vị và cốt cách văn chương Nam Bộ". Đại đoàn kết. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2025.
  4. ^ "Danh sách nghệ sĩ từng đoạt Giải Mai Vàng 19 năm qua". Người Lao Động. ngày 3 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2018.
  5. ^ "Nhà văn NGUYỄN QUANG SÁNG (1932 – 2014)". Bảo tàng Văn học Việt Nam. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2025.
  6. ^ "61 công trình, cụm công trình khoa học công nghệ, tác phẩm và cụm tác phẩm văn học nghệ thuật được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh". Thông tấn xã Việt Nam. ngày 7 tháng 9 năm 2000. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2025.
  7. ^ "Nhà văn NGUYỄN QUANG SÁNG (1932 – 2014)". Bảo tàng Văn học Việt Nam. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2025.
  8. ^ Dương Kỳ Anh (ngày 8 tháng 10 năm 2016). "Nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua câu chuyện của đạo diễn "Dũng khùng"". Công an nhân dân. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2025.
  9. ^ "Nguyễn Quang Sáng được tiễn biệt bằng câu thơ, trang văn". Vnexpress. ngày 16 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2014.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nguyễn Quang Sáng trên IMDb
  • Bé Thu trong "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng Lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2018 tại Wayback Machine

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II
  • x
  • t
  • s
Người được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
Đợt 1 (1996)
  • Nam Cao#
  • Huy Cận
  • Xuân Diệu#
  • Tố Hữu
  • Nguyên Hồng#
  • Nguyễn Công Hoan#
  • Nguyễn Tuân#
  • Nguyễn Đình Thi
  • Ngô Tất Tố#
  • Chế Lan Viên#
  • Hải Triều#
  • Nguyễn Huy Tưởng#
  • Tế Hanh
  • Tô Hoài
Đợt 2 (2000)
  • Anh Đức
  • Nguyễn Minh Châu#
  • Nguyễn Khải
  • Nguyễn Bính#
  • Nguyễn Văn Bổng
  • Lưu Trọng Lư#
  • Nguyễn Quang Sáng
  • Hoài Thanh#
  • Nguyễn Thi#
  • Phan Tứ#
  • Nông Quốc Chấn
  • Chính Hữu
  • Tú Mỡ#
  • Hà Xuân Trường
  • Nguyễn Từ Chi#
Đợt 3 (2007)
  • Anh Thơ#
Đợt 4 (2012)
  • Phạm Tiến Duật#
  • Hoàng Tích Chỉ
  • Ma Văn Kháng
  • Hữu Thỉnh
  • Hồ Phương
  • Đỗ Chu
  • Lê Văn Thảo
Đợt 5 (2017)
  • Xuân Thiều#
  • Hữu Mai#
  • Xuân Quỳnh#
  • Thu Bồn#
Đợt 6 (2022)
  • Hoàng Trung Thông#
  • Bùi Hiển#
#: Được truy tặng giải thưởng sau khi qua đời.

Từ khóa » Chiếc Lược Ngà Sáng Tác Năm Nào