Nhà Máy Thủy điện Hòa Bình – Wikipedia Tiếng Việt

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 8/2024)
Nhà máy thủy điện Hòa Bình
Nhà máy thủy điện Hòa Bình trên bản đồ Việt NamNhà máy thủy điện Hòa BìnhVị trí của Nhà máy thủy điện Hòa Bình ở Việt Nam
Quốc giaViệt Nam
Vị tríHòa Bình
Tọa độ20°48′30″B 105°19′26″Đ / 20,80833°B 105,32389°Đ / 20.80833; 105.32389
Khởi côngtháng 11 năm 1979
Khánh thành1994
Chi phí xây dựng1,5 tỷ USD (1996)
Chủ sở hữuTập đoàn Điện lực Việt Nam
Đập và đập tràn
Loại đậpĐập kè
NgănSông Đà
Chiều cao128 m (420 ft)
Chiều dài734 m (2.408 ft)
Hồ chứa
Tổng dung tích9.740.000.000 m3 (7.900.000 acre⋅ft)
Diện tích bề mặt208 km2 (80 dặm vuông Anh)
Trạm năng lượng
LoạiThông thường
Tua bin8 × 240 MW
Công suất lắp đặt1.920 MW (Dự kiến 2023, bằng Thủy điện Sơn La)
Phát điện hàng năm8.160 GWh
Trang webhttp://www.thuydienhoabinh.vn/

Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại tỉnh Hòa Bình (từ năm 1979 đến năm 1991 là tỉnh Hà Sơn Bình), trên dòng sông Đà thuộc Bắc Bộ. Đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1994 đến 2012 (bị phá vỡ kỉ lục vào năm 2012 bởi Nhà máy thủy điện Sơn La). Nhà máy thủy điện Hòa Bình do Liên Xô (sau năm 1991 đến 1994 là Liên bang Nga) viện trợ kinh phí, hỗ trợ công tác xây dựng và hướng dẫn vận hành.

Công trình khởi công 6/11/1979, khánh thành 20/12/1994.

Bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà do nhà thơ Quang Huy sáng tác nói về tình cảm xúc động trước sự giúp đỡ của Liên Xô với Việt Nam trong công cuộc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình.

Quá trình xây dựng

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 6 tháng 11 năm 1979: Giải phóng mặt bằng bên sông

Ngày 12 tháng 1 năm 1983: Ngăn sông Đà đợt 1

Ngày 09 tháng 1 năm 1986: Ngăn sông Đà đợt 2

Ngày 30 tháng 12 năm 1988: Tổ máy số 1 hòa lưới điện quốc gia.

Ngày 04 tháng 4 năm 1994: Tổ máy số 8 hòa lưới điện quốc gia.

Ngày 20 tháng 12 năm 1994: Sau 15 năm xây dựng công trình, trong đó có 9 năm vừa quản lý vận hành vừa giám sát thi công các tổ máy, nhà máy thủy điện Hoà Bình đã được khánh thành.

Ngày 19 tháng 10 năm 2007: Ông Đào Văn Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị EVN đã ký Quyết định số 845/QĐ-EVN-HĐQT về việc phê duyệt Quyết toán vốn đầu tư công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình với giá trị là: 1,904,783,458,926 VND.

Ngày 10 tháng 1 năm 2021: Dự án Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng có tổng mức đầu tư hơn 9.200 tỷ đồng, quy mô công suất 480 MW được khởi công. Dự án do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) làm Chủ đầu tư, giao EVNPMB1 quản lý dự án. Dự kiến tổ máy 1 phát điện tháng 6/2025, tổ máy 2 phát điện tháng 7/2025, hoàn thành công trình vào tháng 8/2025.[1]

Thông số kĩ thuật chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Tua-bin quay trong thủy điện Hòa Bình

Thủy điện Hòa Bình có thiết kế (độ cao so với mực nước biển):

・Mực nước dâng bình thường cao 117 m;

・Mực nước gia cường: 120 m;

・Mực nước chết: 80m;

Diện tích hồ chứa: 208 km²;

Dung tích toàn bộ hồ chứa: 9,74 tỉ m³ nước;

Công suất lắp máy: 1.920 MW, gồm 8 tổ máy;

Điện lượng bình quân hằng năm: 8,6 tỉ KWh;

Cao độ phát điện cột nước là 70m theo chiều thẳng đứng;

Đập thủy điện Hòa Bình có 18 cửa xả và 8 tổ máy phát điện;

Mỗi tổ máy có công suất 240 MW;

Vốn đầu tư: 1.904.783.458.926 đồng (150 triệu Đô la Mỹ) - Tỉ giá năm 1994.

Công dụng

[sửa | sửa mã nguồn]
Mạng lưới điện ở nhà máy thủy điện Hòa Bình

Công trình phòng chống lũ lụt của tỉnh và vùng Đồng bằng sông Hồng

[sửa | sửa mã nguồn]

Sông Đà là một trong ba phụ lưu chính của hệ thống sông Hồng chiếm 55% lượng nước. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội.

Phát điện

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng Đường dây 500 kV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền Trung Việt Nam. Nhà máy cung cấp khoảng 27% (thời điểm trước năm 2010) nguồn điện của cả nước.

Cung cấp nước tưới tiêu

[sửa | sửa mã nguồn]

Đập thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô. Điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông.

Phục vụ giao thông - vận tải

[sửa | sửa mã nguồn]

Cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004, công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này.

Tặng thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh hiệu Anh hùng thời kỳ đổi mới (tháng 6 năm 1998)

Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba.

24 Huân chương Lao động hạng Nhì, Ba cho các đơn vị trực thuộc và cá nhân

5 cờ luân lưu của Chính phủ

2 cờ luân lưu của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam

2 cúp kim cương - chứng nhận chất lượng quốc tế.

Nhiều cờ, bằng khen của các Bộ, các cấp, các ngành và tỉnh Hòa Bình.

Tổn thất

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá trình xây dựng thủy điện Hòa Bình, 168 người đã hi sinh (do tai nạn lao động hoặc bệnh tật), trong đó có 11 chuyên gia Liên Xô. Đài tưởng niệm những người này được xây dựng cách nhà máy thủy điện về phía hạ lưu sông Đà khoảng 300 m.[2]

­­­­­­Thư gửi thế hệ năm 2100

[sửa | sửa mã nguồn]
Bia tưởng niệm nơi đặt bức ­­­­­­thư gửi thế hệ năm 2100 ở nhà máy thủy điện Hòa Bình

Tại sân truyền thống nhà máy Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình chóp cụt, trên đó có tấm biển thép khắc dòng chữ: "Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư được mở vào ngày ngày 1 tháng 1 năm 2100". "Kho lưu trữ" lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình chóp cụt tứ giác đều (4 mặt bên hình thang cân) có cạnh đáy 2 m, chiều cao 1,8 m, cạnh trên 0,8 m, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không nên "chôn" vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.[3]

Thơ ca và nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]
Đứng trên đập thủy điện Hòa Bình

Nhà thơ Quang Huy đã sáng tác bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà vào tháng 11 năm 1979, khi nhà máy mới được khởi công. Bài thơ lấy hình ảnh một cô gái Nga đang chơi một bản nhạc bằng chiếc đàn balalaika bên sông Đà để nói lên tình hữu nghị Việt-Xô và sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô trong việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình. Bài thơ đạt giải nhất trong cuộc thi thơ năm 1983 của Hội hữu nghị Việt Nam-Liên Xô

Có 14 nhạc sĩ đã phổ nhạc cho bài thơ này, trong đó phiên bản của nhạc sĩ An Thuyên đạt giải nhất của Hội Âm nhạc năm 1984.[4]

Một đoạn trích của bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà đã được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.[5]

(...)

Trên sông Đà Một đêm trăng chơi vơi Tôi đã nghe tiếng Balalaika Một cô gái Nga mái tóc màu hạt dẻ Ngón tay đan trên những sợi dây đồng. Lúc ấy Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ Chỉ còn tiếng đàn ngân nga Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà. Ngày mai Chiếc đập lớn nối liền hai khối núi Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả Từ công trình thủy điện lớn đầu tiên

(...)

Nguy cơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Các chuyên gia đã tính toán và đưa ra cảnh báo: "Nếu vỡ đập thủy điện Hòa Bình thì toàn bộ 6 tỉnh đồng bằng sông Hồng sẽ bị cuốn trôi ra biển chỉ trong một ngày và Hà Nội sẽ ngập dưới 30 m nước tính từ chỗ cao nhất của nhà ga Hà Nội." Do đó, cần phải chuẩn bị sẵn kịch bản đối phó nếu lũ lớn quá mức mà đập thủy điện chống chọi được[6]

Tháng 10 năm 2017, sau 21 năm, thủy điện Hòa Bình - dung tích 9,74 tỉ m³ - đã phải xả 8/12 cửa xả đáy sau nhiều đợt mưa lớn kéo dài làm nước dâng cao hơn giới hạn cho phép gần 5 m và đạt mức 117 m so với mức tối đa cho phép là 120 m.[6]

Ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đường đi trên đập Đường đi trên đập
  • Hầm xuống buồng phát điện Hầm xuống buồng phát điện
  • Nền tua-bin Nền tua-bin
  • Tua bin đang sửa Tua bin đang sửa
  • Tua-bin quay Tua-bin quay
  • Video tua bin chạy
  • Trong buồng phát điện Trong buồng phát điện
  • Máy đo Liên Xô Máy đo Liên Xô
  • Hầm buồng phát điện Hầm buồng phát điện

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Quan hệ Nga – Việt Nam

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Dự án Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng: Tập trung tháo gỡ một số "điểm nghẽn"”. Báo Đấu thầu. 21/02/2024. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  2. ^ “Những cái chết hóa thành bất tử”. Báo Hòa Bình.
  3. ^ Bí mật lá thư gửi thế hệ năm 2100 ở thủy điện Hòa Bình-nld.com.vn, Chủ Nhật, 29/01/2006 12:52
  4. ^ Lay động"Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông Đà"
  5. ^ “Nhà thơ Quang Huy và "Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà" - Bài 2”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2015.
  6. ^ a b Lời cảnh báo gửi từ Xepian-Xe Nam Noy

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Http://www.thuydienhoabinh.vn
  • Thủy điện Hoà Bình công trình chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Lưu trữ 2007-09-27 tại Wayback Machine
  • http://www.evn.com.vn/hoabinhpp/thanhtich.htm Lưu trữ 2008-04-05 tại Wayback Machine
Hình tượng sơ khai Bài viết về những kiến trúc tiêu biểu tại Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s
  • x
  • t
  • s
Các đập thủy điện trên sông Đà
  • Nhai Dương Sơn
  • Shimenkan
  • Long Mã
  • Cư Phủ Độ
  • Gelantan
  • Thổ Tạp Hà
  • Lai Châu
  • Sơn La
  • Hòa Bình
  • x
  • t
  • s
Thủy điện trong lưu vực sông Hồng
Lưu vực sông Đà
  • Hòa Bình
  • Sơn La
  • Lai Châu
  • Pắc Ma
  • Bản Chát
  • Huội Quảng
  • Khao Mang (KM Thượng • KM Hạ)
  • Long Tạo
  • Mường Kim(1,2)
  • Mường Mươn
  • Nậm Chiến(1,2)
  • Nậm Củm
  • Suối Lừm
  • Nậm Ban
  • Nậm Chim
  • Nậm Giôn
  • Nậm He
  • Nậm Khốt
  • Nậm La
  • Nậm Ma(1,2,3)
  • Nậm Mức
  • Nậm Mở
  • Nậm Na (NN1 • NN2 • NN3)
  • Nậm Hồng
  • Nậm Pạc
  • Nậm Pàn
  • Nậm Pia
  • Nậm Sì Lường(1,3,4)
  • Nậm Trai
  • Nậm Xá
  • Suối Sập(1,2,3)
  • Sập Việt
  • Pá Chiến
  • Tô Buông
  • Trung Thu
  • Chiềng Ngàm Thượng
  • Tà Páo Hồ
Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà
Lưu vựcsông Lô
  • Sông Lô (SL2 • SL3 • SL4 • SL5 • SL6 • SL7 • SL8)
  • Nậm Mu
  • Nậm Ngần
  • Sông Bạc
  • Sông Chừng
  • Sông Miện (SM1 • Thái An • Thuận Hòa • SM5 • SM5A • SM6)
Lưu vực sông Gâm
  • Tuyên Quang
  • Yên Sơn
  • Chiêm Hóa
  • Bắc Mê
  • Mông Ân
  • Bảo Lâm(1,3,3A)
  • Bảo Lạc(A,B)
  • Nho Quế(1,2,3)
  • Sông Nhiệm
  • Nậm Mạ
  • Nậm Lang
Lưu vực sông Chảy
  • Sông Chảy (SC3 • SC4 • SC5 • SC6 • Pa Ke • Bắc Hà • Vĩnh Hà • Phúc Long • Thác Bà)
  • Bắc Nà
  • Cốc Đàm
  • Nậm Phàng
  • Nậm Khánh
  • Nậm Lúc
Lưu vực Ngòi Phát
  • Ngòi Phát
  • Mường Hum
  • Nậm Pung
  • Tà Lơi(1,2,3)
Lưu vực Ngòi Bo
  • Nậm Củn
  • Nậm Toóng
  • Séo Chong Hô
  • Sử Pán(1,2)
  • Tà Thàng
Lưu vực Ngòi Nhù
  • Nậm Khóa
  • Nậm Xây (NX Luông • NX Nọi)
  • Minh Lương
  • Nậm Khắt
  • Suối Chăn(1,2)
Các phụ lưu khác
  • Đồng Sung
  • Nậm Đông
  • Ngòi Hút
  • Ngòi Xan
  • Thác Cá (1&2)
  • Trạm Tấu
  • Văn Chấn

Thủy điện Việt Nam: Mê Kông, Sg Hồng, Đông Bắc, Sg Mã, Sg Lam, Thạch Hãn, Sg Hương, Thu Bồn, Sg Ba, Trà Khúc, Đồng Nai · Điện mặt trời Việt Nam · Điện gió Việt Nam

Từ khóa » Diện Tích đập Lớn Nhất Việt Nam