Nhạc Cụ Cổ Truyền VN – Đàn Tỳ Bà | Đọt Chuối Non
Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.
Chào các bạn,
Tiếp theo “Đàn Tứ/Đoản”, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn “Đàn Tỳ Bà” của Việt Nam chúng ta.
Đàn Tỳ Bà là tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người phương Đông, qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa khác nhau tùy theo từng vùng hoặc từng quốc gia. Tỳ Bà đã xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa với tên gọi PiPa, ở Nhật Bản là Biwa, ở Triều Tiên là Bipa.
Tỳ Bà lần đầu tiên được nêu danh trong lịch sử Việt Nam, khi ông Lê Tắc ghi trong An Nam Chí Lược tên dàn tiểu nhạc dùng ngoài cung đình nhà Trần. Đàn Tỳ Bà của Việt Nam là dạng rất cổ xưa của đàn PiPa, vốn từ Ba Tư dưới dạng đàn Barbat theo con đường tơ lụa vào Trung Hoa.
Đàn Tỳ Bà có từ thời Trung Hoa cổ đại, theo một số ghi chép là khoảng hơn 2000 năm lịch sử. Tỳ Bà đã du nhập sang nước Việt từ rất sớm. Bằng chứng là hình chạm các nhạc công trên tảng đá vuông dùng làm chân cột chùa Phật Tích, Bắc Ninh, có chạm hình đàn Tỳ Bà giữa hai nhạc công dùng ống Sênh, và ống Tiêu thổi dọc. Trong khi đàn tranh có vóc dáng mà không thấy những con nhạn căng dây, đứng giữa hai nhạc công thổi ống Sênh và ống Sáo ngang.
Suốt thời nhà Trần, Tỳ Bà chỉ góp mặt trong dàn Tiểu nhạc dùng trong dân gian.
Đời nhà Lê, khi Lương Đăng quy định nhạc cung đình theo mẫu nhà Minh, Tỳ Bà có mặt trong dàn Đường Hạ Chi Nhạc. Nhưng quy định của Lương Đăng không được ai tán thành cả. Nguyễn Trãi đã dâng biểu để tâu với vua vì sao ông đã từ chức không ở trong Ban lo việc quy định Nhạc Triều Đình, nêu những cái sai của Lương Đăng. Những đại thần am hiểu âm nhạc như Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, đều không tán thành những qui chế do Lương Đăng bày ra. Vì vậy Tỳ Bà ở trong dàn Đường Hạ Chi Nhạc nhưng không được xuất hiện chính thức.
Nhưng đến đời Hồng Đức (1470-1497), ba vị đại thần nói trên chế ra hai đội Đồng Văn và Nhã Nhạc để đàn và hát trong cung đình. Đàn Tỳ Bà và đàn Tranh đều có trong hai đội ấy. Nhưng các Vị Đại thần không muốn giữ tên Tranh hay Tỳ Bà là tên Trung Hoa, nên đặt cho Tỳ Bà tên Tứ Huyền Cầm (đàn 4 dây) còn đàn Tranh lúc ấy có 15 dây mang tên là Thập Ngũ Huyền Cầm.
Sau đó, có một sự thay đổi rất lớn từ đời Quang Hưng (1578) hai đội Đồng Văn, Nhã Nhạc chỉ còn được dùng trong các lễ lớn như Tế Giao, Tế Miếu, Đại triều. Trong các dịp khác, lần lần Đồng Văn, Nhã Nhạc bị đội Giáo Phường trong dân gian thay thế. Tỳ Bà bị bỏ quên trong khi đàn Tranh được sung vào Đội Giáo Phường, góp mặt với đàn Đáy, đàn Trường Cùng (làm bằng cây tre dài 3, 4 thước ta, do một bà lão nghệ nhân gõ để giữ nhịp), có Trống Yêu Cổ, có loại địch quản mà tên gọi thông thường là Quyển Thúy. Có đào nương vừa ca vừa gõ Phách có cả Sênh Tiền. Khi đàn trong cung điện gọi là đi hát Cửa Quyền (tiền thân của Ca Trù) thì đội Giáo Phường có rất nhiều nhạc công đàn Cầm, tức là loại đàn dây, trong đó có đàn Tranh 15 dây. Và còn nhiều Trống to, Trống nhỏ, Ống Địch, Hải Loa…
Cuối đời nhà Lê, có một thay đổi lớn: đàn Tranh không còn có mặt trong dàn nhạc triều đình mà thay bằng Tỳ Bà góp mặt với đàn Nguyệt (lúc đó tên là đàn Song Vận), đàn Tam, đàn Nhị, có hai ống Sáo, một Trống Bản, một Tam Âm La và một Sênh Tiền.
Sau chiến thắng Kỷ Dậu, Vua Quang Trung gửi một phái đoàn sứ giả sang chầu Vua Càn Long. Vua nhà Thanh phong cho Vua Quang Trung tước An Nam Quốc Vương, người Trung Quốc gọi dàn nhạc đi theo là An Nam Quốc Nhạc. Khâm Định Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ ghi lại nhiều chi tiết về 9 loại nhạc nước ngoài có mặt tại triều đình nhà Thanh gọi là Cửu Tấu.
Nguyễn Ánh tức vị Hoàng Đế năm 1802 lấy niên hiệu là Gia Long, đặt quốc hiệu là Việt Nam, từ năm 1802 người Trung Hoa đổi tên An Nam Quốc Nhạc lại thành Việt Nam Quốc Nhạc.
Nhà Nguyễn chấn chỉnh nhạc cung đình. Lập Dàn Đại Nhạc gồm Kèn, Trống là chính. Và Dàn Nhã Nhạc cũng gọi là Tiểu Nhạc hay Ti Trúc Tế Nhạc, vì dàn nhạc gồm những nhạc khí mắc dây tơ và cây sáo trúc. Tỳ Bà có mặt trong dàn nhạc cung đình còn đàn Tranh lại được trọng dụng trong dân gian và trở thành một nhạc khí quan trọng của nhạc thính phòng. Đàn Tranh, đàn Nguyệt, đàn Nhị, đàn Tam và đàn Tỳ Bà trở thành ban Ngũ Tuyệt của ca nhạc thính phòng Huế (tiền thân của Ca Huế).
Đàn Tỳ Bà được chế tác bằng gỗ ngô đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.
Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 – 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, hoặc sử dụng gân bò, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon hoặc thép.
Đàn Tỳ Bà có bốn dây lên theo 2 quãng 4, mỗi quãng 4 cách nhau một quãng 2: Đô – Fa – Sol – Đô1 hoặc Sol -Đô1 – Rê1 – Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng nhựa.
Theo cách tính và quan niệm của người Trung Hoa, đàn Tỳ Bà dài 36 thốn (đơn vị đo), số 3 tượng trưng cho Thiên-Địa-Nhân, số 5 tượng trưng cho Ngũ Hành, 4 dây tượng trưng cho 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Màu âm đàn Tỳ Bà trong sáng, vui tươi, thể hiện tính chất tươi sáng và trữ tình. Màu âm hơi giống đàn Nguyệt nhưng có phần hơi đanh và khô hơn, nhất là ở những khoảng âm cao.
Tầm âm của đàn Tỳ Bà là 3 quãng tám: từ Ðô lên Ðô3 (c lên c3).
Kỹ thuật diễn tấu của đàn Tỳ Bà có nhiều ngón giống như đàn Nguyệt: ngồi thấp, xếp chân trên chiếu. Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt gần như thẳng đứng.
Kỹ thuật tay phải: Tay phải gảy đàn, cách sử dụng móng tay để đàn có nhiều kỹ thuật phức tạp nhưng sinh động.
Kỹ thuật tay trái: Kỹ thuật tay trái của đàn Tỳ Bà có các ngón nhấn, ngón vuốt, ngón mổ, bấm hợp âm, đặc biệt đàn Tỳ Bà có lối đánh song thinh (song thanh): 2 đồng âm ở hai dây khác nhau.
Ngón phi: ngón phi của đàn Tỳ Bà có thể đánh trên cả 4 dây hoặc phi trên từng cặp dây (dây1+2; dây 2+3 và 3+4) hoặc phi trên từng dây 1 hoặc 4 dễ dàng hơn.
Ngón nhấn: các phím đàn gắn cách nhau không xa lắm, mỗi phím lại không cao như đàn Nguyệt nên các loại ngón nhấn (nhấn, nhấn luyến lên, nhấn láy…) đều có những hạn chế, thường chỉ nhấn từ nửa cung đến một cung liền bậc, hiệu quả ngón nhấn tốt nhất là khoảng âm trầm và một phần khoảng âm giữa.
Ngón vuốt: được sử dụng nhiều ở đàn Tỳ Bà, trong các tác phẩm cổ truyền ngón vuốt được sử dụng nhiều như ngón nhấn của đàn Nguyệt. Ký hiệu ngón vuốt không vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt. Vuốt có vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt đồng thời gạch hai gạch chéo ở nốt nhạc có đuôi, nếu nốt nhạc không có đuôi thì gạch hai gạch chéo ở trên hoặc ở dưới nốt.
a)- Vuốt xuống: là cách vuốt dây của tay trái trong khi tay phải không gảy, không vê, không phi, âm thanh các ngón vuốt xuống phát ra nhỏ, yếu nhưng không thể dùng trong hòa tấu. Do vậy các âm vuốt thường xen kẽ với các âm gảy, vê hay phi để có thể thừa hưởng dư âm của các âm ấy.
b)- Vuốt nhiều dây: có thể vuốt hai, ba dây một lúc trong khi tay phải gảy, vê hay phi, kỹ thuật nầy ít sử dụng trong diễn tấu nhạc cổ truyền.
Ngón chụp: tay trái ngón 1 bấm vào một cung phím, tay phải gảy dây, khi âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím khác (thường là liền bậc cao hoặc thấp) âm thanh từ cung phím nầy vang lên mà không phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn còn chấn động, một phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo thêm chấn động. Âm luyến nghe yếu nhưng mềm mại, ở những thế bấm cao âm luyến nghe kém vang nên ít được sử dụng. (Ký hiệu ngón chụp: dùng dấu luyến giữa các nốt nhạc).
Ngón mổ: gần giống như ngón luyến, nhưng tay phải không gảy dây mà ngón tay trái cứ mổ vào các cung phím để phát ra âm thanh, âm thanh ngón mổ nghe nhỏ, yếu và có màu âm riêng biệt. Không nên sử dụng ngón mổ trong bản nhạc có tốc độ nhanh và trong hòa tấu vì hiệu quả ngón mổ nghe rất nhỏ. Ký hiệu ngón mổ ghi như dấu hỏi đặt trên nốt nhạc.
Ngón vỗ: một ngón tay đang bấm trong khi ngón khác vỗ lên dây đàn.
Chồng âm, hợp âm: Đàn Tỳ Bà có thể cách đánh chồng âm dễ dàng và hiệu quả nhất là sử dụng bằng miếng gảy, khi đánh chồng âm, hợp âm có thể đánh bằng móng tay hoặc phím gảy trên 4 dây, hai hoặc ba dây không khó khăn và giữ tính chất đệm trong hòa tấu. Ðiểm độc đáo nhất của đàn Tỳ Bà là đánh hợp âm rãi, kỹ thuật đánh hợp âm rãi của đàn Tỳ Bà có hiệu quả đặc biệt và độc đáo như tiếng Á của đàn tranh.
Ở Việt Nam đàn Tỳ Bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhã nhạc cung đình Huế, Lễ nhạc Phật giáo, Lễ nhạc Cao Đài, Đờn Ca Tài Tử, Phường Bát Âm, Cải Lương và Dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc. Ngày nay số người biết sử dụng Tỳ Bà theo phong cách truyền thống Việt Nam chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Dưới đây mình có các bài:
– Những loại Đàn Tì Bà – Tại sao gọi là đàn Tỳ Bà – Đàn Tỳ Bà
Cùng với 22 clips tổng hợp độc tấu, hòa tấu Đàn Tỳ Bà do các nghệ nhân ưu tú trên thế giới diễn tấu với các nhạc cụ độc đáo của dân tộc họ để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Những loại Đàn Tì Bà
(Vương Trung Hiếu)
Tì bà là nhạc cụ gảy dây phổ biến ở Trung Quốc, được chơi gần 2000 năm qua. Có một số nhạc cụ liên quan ở Đông Á và Đông Nam Á có nguồn gốc từ loại đàn này, cụ thể là tì bà Việt Nam, pipa Hàn Quốc và biwa Nhật Bản. Do đàn tì bà Việt Nam đã rất quen thuộc nên tôi không giới thiệu. Nếu quan tâm, các bạn có thể tìm đọc loại đàn này trên Internet hoặc sách báo. Ở đây, tôi xin phép giới thiệu đàn Tì bà Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Tì bà Trung Quốc – Thuật ngữ và nguồn gốc
Từ triều đại Tần – Hán cho đến Tùy – Đường, tất cả nhạc cụ gảy dây đều được gọi là Tì bà (琵, bính âm: pípá, Latin hóa: pipa), do đó có nhiều nhận định khác nhau về thuật ngữ này. Theo quyển Thích danh (釋名) thời Đông Hán, tì bà có thể là từ tượng thanh, có nguồn gốc từ âm thanh của nhạc cụ phát ra. Trong những văn bản cổ xưa nhất, cái từ “tì bà” dù được viết khác nhau (tì bà 枇杷 hay phê bà 批把) nhưng chúng vẫn có nguồn gốc từ người Hồ 胡 (có nghĩa là người ngoại quốc, người man di). Một tài liệu cuối thế kỷ thứ 3 (thời nhà Tấn) cho biết thuật ngữ “tì bà” đã xuất hiện trong triều đại nhà Tần (221–206 TCN). Ngày nay, một số nhà nghiên cứu cho rằng cho rằng tì bà có khả năng xuất phát từ chữ barbat trong ngôn ngữ Ba Tư. Tóm lại, dẫu thuật ngữ tì bà xuất hiện đầu tiên trong thời kỳ nào, nó là từ ngoại nhập hay do người Trung Quốc nghĩ ra thì có một điều chắc chắn rằng trong triều đại nhà Tần có một loại đàn gọi là Tần tì bà. Người ta tin rằng loại đàn này mô phỏng hình thức thô sơ của đàn Không hầu (箜篌) và Huyền đào (弦鼗) – loại nhạc cụ có những dây đàn căng trên cái trống nhỏ gắn tay cầm, được cho là do những người xây dựng Vạn Lý Trường Thành chế tạo vào cuối triều đại nhà Tần. Tần tì bà có cần đàn thẳng, hộp cộng hưởng tròn và 4 dây đàn theo chuẩn 12 nốt. Kiểu này về sau phát triển thành đàn Nguyễn (阮) – nhạc cụ được đặt tên từ họ của nhạc sĩ Nguyễn Hàm (阮咸) trong nhóm Trúc Lâm thất hiền (竹林七賢). Tuy nhiên, cần chú ý, Tần tì bà có thân đàn tròn, do đó nó có thể là loại đàn trùng tên chứ không phải là loại tì bà mà chúng ta biết ngày nay (loại có thân đàn hình quả lê).
Về tì bà hình quả lê, có hai loại mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chúng có khả năng du nhập từ Trung Đông, từ vương quốc cổ Gandhāra (tiếng Phạn: गन्धार) hay Ấn Độ vào miền bắc Trung Quốc trong thế kỷ thứ 4. Loại thứ nhất gọi là Quy từ tì bà (龜茲琵琶, Latin hóa: Kuche pipa), có cần đàn cong với 4 chốt chỉnh dây và 4 dây đàn. Loại thứ hai gọi là Ngũ huyền tì bà (五弦琵琶, Latin hóa: wuxian pipa), có cần đàn thẳng, 5 chốt chỉnh và 5 dây.
Trong triều đại nhà Hán có loại đàn gọi là Hán tì bà. Nhạc cụ này có 4 dây đàn tượng trưng cho 4 mùa, còn chiều dài của đàn tượng trưng cho Thiên – Địa – Nhân và Ngũ hành.
Đến triều đại nhà Tống thì những nhạc cụ gảy dây khác đã có tên riêng, thuật ngữ “tì bà” chỉ còn được sử dụng độc quyền cho nhạc cụ hình quả lê.
Nhìn chung, việc miêu tả những loại tì bà có hình quả lê xuất hiện khá nhiều từ giai đoạn Nam Bắc triều (南北朝, 420 – 589) cho tới đời nhà Đường (唐朝,618-907). Trong triều đại nhà Đường, tì bà phát triển rực rỡ, trở thành nhạc cụ chính trong hoàng cung. Triều đình triệu những nhạc sĩ Ba Tư, Quy Từ và các thầy dạy đàn đến kinh đô Trường An (長安) để giảng dạy, biểu diễn và chế tạo tì bà. Trong thời kỳ đó, nhiều nghệ nhân làm đàn tì bà rất công phu với những nét hoa văn chạm khắc tuyệt hảo. Mô típ chạm khắc thường có liên quan đến Phật giáo.
Loại tì bà 4 và 5 dây đặc biệt phổ biến trong triều đại nhà Đường, chúng “lan tỏa” sang Nhật Bản, Việt Nam và Hàn Quốc cũng trong triều đại này.
Bên cạnh loại tì bà thông thường còn có một loại khác gọi là Nam âm tì bà (南音琵琶; Latin hóa: nanyin pipa, viết gọn là nanpa) hay Nam quản tì bà (南管琵琶, La tin hóa: Nanguan pipa), gọi dân dã là “tì bà miền nam” hoặc “tì bà nằm ngang”. Nhạc cụ này có nguồn gốc ở khu vực trung tâm Trung Quốc, về sau được đưa tới tỉnh Phúc Kiến rồi được dùng chủ yếu ở tỉnh này. Nam âm có thân đàn khá giống loại tì bà thông thường, những khác biệt chính nằm ở chỗ phím đàn, trục đàn và mặt thân đàn sơn màu đen. Cần và thân đàn được làm từ một khối gỗ duy nhất (thường là gỗ thông, không nặng bằng tì bà thông thường); tuy nhiên có trường hợp mặt thân đàn lại làm từ tung wood. Phần đầu trục cong ngược ra phía sau, phần này và chốt chỉnh được làm riêng. Mỗi bên hông thân đàn có một lỗ thoát âm hình trăng lưỡi liềm. Dưới ngựa đàn có một lỗ nhỏ hình thoi. Nam âm tì bà chỉ có 4 phím đàn chính (thay vì 6 như tì bà thông thường, không có phím trên cùng và phím dưới cùng), làm từ những miếng gỗ hình tam giác, phù ngoài bằng vỏ rùa biển; ngoài ra còn 9-10 phím thấp và mỏng cũng làm từ một loại gỗ theo thang âm diatonic. Phần bàn phím ở hai bên hông những phím tam giác được khảm xà cừ. Nam âm tì bà có 4 dây nilon, chỉnh giọng giống tì bà thông thường, nhưng nhạc cụ này được chơi ở tư thế nằm ngang giống guitar chứ không dựng đứng tựa trên đùi như tì bà thông thường. Khi diễn tấu người ta thường dùng miếng gảy hơn là sử dụng ngón tay hoặc móng giả.
Một nhạc cụ khác có tên là Đồng tì bà (侗琵琶; Latin hóa: Dong pipa), trông không giống lắm loại tì bà thông thường, vì nó có thân đàn hình trái tim chứ không phải quả lê. Tuy nhiên, do nhạc cụ này trùng tên nên chúng tôi cũng giới thiệu ở đây. Đồng tì bà là nhạc cụ gảy dây của tộc người Đồng (侗族) nói tiếng Đồng Thủy (侗水語), cư trú rải rác ở tỉnh Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và khu tự trị Quảng Tây (廣西; Latin hóa: Guangxi Zhuang) thuộc miền nam Trung Quốc. Đồng tì bà được làm từ một khối gỗ khoét rỗng, có một lớp gỗ mỏng dán keo ở mặt trước thân đàn; cần và trục đàn làm từ một khối gỗ khác, thường thì trông khá giống cần đàn Tam huyền (三弦; Latin hóa: sanxien) hay cần đàn Tam vị tuyến (三味線; Latin hóa: shamisen) Nhật Bản. Đồng tì bà có 2 hoặc 3 phím đàn và 4 dây đàn chỉnh bằng 4 trục tròn dài. Các dây này chạy căng trên một ngựa đàn gỗ nhỏ tới một chốt dây nhỏ ở cuối thân đàn. Người ta thường sử dụng Đồng tì bà để đệm hát và khiêu vũ bằng cách đánh chập (strumming).
Nhìn chung, đến triều đại nhà Tống thì loại tì bà hình quả lê có 5 dây đã mai một, không còn được sử dụng nữa. Vào đầu thế kỷ 21 người Trung Quốc đã cố khôi phục lại loại đàn này, tạo ra loại tì bà 5 dây hiện đại mô phỏng từ loại đời nhà Đường, ngoài ra họ còn chế tạo tì bà điện. Trên thực tế, đây là loại tì bà thông thường, được gắn thêm những pickup nam châm kiểu guitar điện để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa). Trên thị trường còn có loại Tụ trân tì bà (袖珍琵琶) – nhạc cụ đồ chơi của Trung Quốc. Nó là phiên bản nhỏ xíu của đàn tì bà thông dụng, có kích cỡ khác nhau. Tùy theo kiểu, Tụ trân tì bà có từ 2 đến 5 dây, thân đàn hình quả lê; cần và trục đàn dài ngắn khác nhau. Kiểu nhỏ nhất nằm gọn trong lòng bàn tay, kiểu lớn nhất dài trên 40cm.
Cấu trúc cơ bản
Tì bà có nhiều loại, song hầu như tất cả đều có thân đàn hình quả lê, mặt đàn thường làm từ gỗ bào đồng hay gỗ phượng hoàng; phần lưng thân đàn làm từ gỗ hồng sắc, gỗ gụ hoặc gỗ đàn hương đỏ. Cần đàn cong hoặc thẳng tùy theo loại. Đầu cần chạm khắc những biểu tượng lạc quan theo quan điểm Trung Quốc, có thể gắn thêm những hạt đá chất lượng tốt. Loại ở đây dài 94,2 cm; thân đàn rộng 22,5 cm, dầy 4,7 cm.
Ban đầu, tì bà có cần đàn 4 phím (gọi là tương 相) nhưng đến đầu nhà Minh nhạc cụ này có thêm những phím bằng tre (gọi là phẩm 品) trên miếng gỗ tăng âm, giúp mở rộng âm vực. Số phím đàn tăng dần từ 10, 14 hay 16 trong thời nhà Thanh, sau đó tăng lên 19, 24, 29 và 30 trong thế kỷ 20. Những phím đàn hình nêm trên cần đàn ban đầu là 4, sau đó được nâng lên là 6 cũng trong thế kỷ 20. Loại tì bà 14 hoặc 26 phím đàn được bố trí gần như tương ứng với quãng một cung và nửa cung trong nhạc phương Tây. Tính từ chốt nâng dây (nut) trên cần đàn, cao độ sẽ là 1 cung -1/2 cung – 1/2 cung -1/2 cung -1/2 cung -1 cung – 1/2 cung -1/2 cung -1/2 cung -1 cung -1 cung – 3/4 cung- 3/4 cung -1 cung – 1 cung – 3/4 cung – 3/4 cung, (vài phím có giọng 3/4 cung hoặc “giọng không rõ ràng”).
Loại tì bà truyền thống có 16 phím trở nên kém phổ biến dần, mặc dù nó vẫn được dùng trong vài loại nhạc địa phương, thí dụ như thể loại Nam Quản (南管). Loại tì bà hiện đại dài khoảng 96 cm, có 4 dây, được gắn thêm 6 phím phụ, kết hợp với 18, 24, 25 hoặc 28 phím chuẩn, bố trí khoảng cách 12 âm nửa cung. Bốn dây đàn chỉnh giọng A, d, e, a, với âm vực rộng từ A đến g3. Ngày xưa dây đàn làm bằng tơ se. Trong triều đại nhà Đường, nghệ sĩ chơi đàn bằng các ngón của bàn tay phải, về sau mới thay bằng miếng gảy lớn. Trong thập niên 1950, dây thường được làm bằng thép bọc nilon hoặc dây kim loại, giúp giọng tì bà tươi sáng và sôi nổi hơn, có vẻ tương tự giọng mandolin. Tuy nhiên, dây kim loại gây trở ngại là khó gảy bằng móng tay hơn, vì thế người ta thường sử dụng móng giả để chơi đàn. Móng giả thường làm bằng làm bằng nhựa hoặc mai rùa. Tì bà có khả năng diễn tả đa dạng cung bậc cảm xúc khác nhau, thường được dùng trong dàn nhạc lớn của Trung Quốc hay đệm cho nhạc kịch. Ngày nay người ta còn sử dụng loại đàn này trong cả nhạc pop và rock.
Kỹ thuật diễn tấu
Khi chơi người ta thường ngồi, đặt đàn trên đùi theo tư thế dựng đứng (hơi nghiêng về bên trái của người đánh đàn); bàn tay trái giữ cần đàn, những ngón tay bấm dây, trong khi đó bàn tay phải gảy dây bằng những ngón tay hay miếng gảy. Có hai kỹ thuật rất phổ biến: thứ nhất là “pí” (琵), đẩy những ngón tay của bàn tay phải từ phải sang trái, có thể sử dụng một hoặc vài ngón tay theo cách đó để đánh cùng lúc, tạo đa âm (ngón bật); thứ hai là “pá” (琶), kéo ngón cái của bàn tay phải từ trái qua phải theo chiều ngược lại.
Kỹ thuật búng dây gọi là “đàn-khiêu” (彈挑), sử dụng ngón trỏ và ngón cái. Đàn 彈 là búng dây bằng ngón trỏ, còn khiêu 挑 là búng dây bằng ngón cái. Thông thường, cách búng dây trên đàn tì bà ngược lại với cách gảy đàn guitar. Người ta búng những ngón tay (kể cả ngón cái) hướng ra ngoài, trong khi đó, khi chơi guitar thì những ngón tay lại gảy vào trong, hướng về lòng bàn tay. Đối với tì bà, cách gảy ngược vị trí so với “đàn” và “khiêu” gọi theo thứ tự là “mạt (抹) và “câu” (勾). Khi gảy hai dây cùng lúc bằng ngón trỏ và cái (hai ngón hoạt động riêng lẻ) gọi là “phân” (分), chuyển động ngược lại gọi là “chích” (摭). Đánh chập nhanh bằng bốn ngón tay gọi là “tảo” (掃), đánh chập nhanh ở vị trí ngược lại gọi là “phất” (拂). Tạo âm thanh đặc biệt bằng kỹ thuật vê (tremolo) thì gọi là “luân chỉ” (輪指). Kỹ thuật này thường được sử dụng cả năm ngón của bàn tay phải, tuy nhiên, có thể sử dụng chỉ bằng một hoặc vài ngón tay.
Kỹ thuật tay trái rất quan trọng đối với sự biểu cảm của nhạc tì bà, giúp tạo ra âm rung, luyến ngắt, vuốt, bật, âm bội và những hòa âm giả (artificial harmonics) giống như kỹ thuật sử dụng trên đàn violin và guitar. Kỹ thuật nhấn dây (string-bending) cũng có thể được dùng để tạo ra âm vuốt và luyến ngắt. Xin lưu ý, phím của tất cả các loại đàn lute Trung Quốc đều cao, do đó những ngón tay thường không chạm vào bàn phím. Đây là điểm khác biệt so với những nhạc cụ có phím của phương Tây. Điều này giúp xử lý tốt hơn trong việc tạo ra giọng và âm sắc. Thêm vào đó, có một số kỹ thuật tạo âm thanh đặc biệt, thí dụ như gõ vào bề mặt thân đàn để tạo âm gõ hoặc xoắn những sợi dây vào nhau trong khi chơi để tạo hiệu ứng tiếng chũm chọe.
Bipa Hàn Quốc
Bipa (tiếng Hàn:비파, Hán Việt: tì bà) là nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc. Nó là loại đàn lute có hình quả lê, liên quan với loại tì bà Trung Quốc, Việt Nam và biwa Nhật Bản. Trong quá khứ có hai loại bipa: hyang-bipa (향비파, Hương tì bà) và Dang-bipa (당비파, Đường tì bà).
Hyang-bipa là loại đàn 5 dây, chơi bằng một miếng gảy – loại chuẩn từ triều đại Cao Câu Ly (고구려, 37-668) đến triều Tân La (신라, – 935). Nó là một trong ba loại đàn dây trong triều Tân La (bên cạnh đàn geomun-go (거문고) và gayageum (가야금). Loại này có cần đàn thẳng; 5 dây đàn; bên trái trục đàn có 3 chốt chỉnh dây, bên phải hai chốt; mặt trước làm từ gỗ bào đồng, mặt sau làm từ gỗ cây hạt dẻ. Ban đầu nhạc cụ này có 5 phím đàn nhưng đến thời nhà nước Triều Tiên (조선, 1392-1897) thì tăng lên 10 phím, riêng những phiên bản hiện đại có thể lên tới 12 phím đàn (âm vực gần 3 quãng tám). Theo ký tự Trung Quốc thì hyang (鄕, bính âm: xiāng; Hán Việt: Hương) có nghĩa là “quê quán, quê nhà”, nhằm nói rằng loại đàn này có nguồn gốc ở Hàn Quốc. Khi diễn tấu người ta thường ngồi, đặt đàn trên đùi theo tư thế dựng đứng (hơi nghiêng về bên trái), bàn tay trái giữ cần hoặc thân đàn và bấm dây, bàn tay phải sử dụng những móng gảy (tròng vào ngón tay) để gảy dây đàn. Trước đây người ta gảy đàn bằng que, nhưng ngày nay hiếm khi sử dụng cách này.
Dang-bipa là loại đàn 4 dây, có đầu cần cong ngược ra phía sau với 12 phím đàn trên cần đàn, phiên bản hiện đại có âm vực rộng hơn 3 quãng tám. Theo ký tự Trung Quốc Dang (唐; bính âm: táng; Hán Việt: Đường) là từ nói về triều đại nhà Đường, ý nói loại đàn này có nguồn gốc từ Trung Quốc, du nhập vào Hàn Quốc từ thời nhà Đường. Trong thời kỳ Cao Ly (tiếng Hàn: 고려; 918–1392), nó được sử dụng trong nhạc Dangak (nhã nhạc Hàn Quốc). Cái tên Dangak có nghĩa là “Đường nhạc”, một loại nhạc mô phỏng từ nhã nhạc nhà Đường, Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ thời Triều Tiên, nó còn được dùng trong nhạc hyangak. Cái tên hyangak có nghĩa là “nhạc làng” (village music), một hình thức nhạc cung đình truyền thống của Hàn Quốc có nguồn gốc trong thời kỳ Tam quốc (삼국시대). Trước đây người ta đã cố phục hồi lại Dang-bipa nhưng thất bại vì không còn nhạc sĩ chuyên nghiệp về loại đàn này.
Biwa Nhật Bản
Biwa (琵琶, Tì bà) là loại đàn lute của Nhật Bản. Chúng có nguồn gốc từ đàn tì bà Trung Quốc, du nhập vào Nhật Bản trong thời Nại Lương (奈良時代, 710-794). Vào thời đó có hai loại biwa: thứ nhất là gaku biwa (hay bagaku biwa), sử dụng trong nhạc cung đình Gagaku (Nhã nhạc) và đệm múa Bugaku, phổ biến trên quần đảo Ryukyu; loại thứ hai là loại kojin biwa (hay moso biwa), do những thầy tu mù (moso) thuộc dòng Phật giáo Tendai sử dụng. Về sau, kojin biwa phát triển thành hai dòng riêng: loại của thầy tu mù ở Chikuzen và loại của thầy tu mù ở Satsuma (Chikuzen và Satsuma là hai tỉnh cũ thuộc đảo Kyushu). Loại của thầy tu mù ở Chikuzen có 4 dây và 5 phím, còn loại của thầy tu mù ở Satsuma có 3 dây và 6 phím. Đến thế kỷ 14, những người hát rong (biwa-hoshi) thường xuyên chơi biwa. Họ vừa đàn vừa hát những bài anh hùng ca thời chiến (gunki-monoratari), đặc biệt là Heike monogatari. Từ đó xuất hiện loại đàn Heike biwa 5 dây, dần dần phổ biến trong tầng lớp samuarai vào thời Thất Đinh (室町時代,1337-1573) và thời An Thổ Đào Sơn (安土桃山時代, khoảng 1573 đến 1603), đặc biệt là trong thị tộc Shimazu ở đảo Kyushu.
Khoảng đầu thời Đức Xuyên (徳川時代, 1603-1868), một dòng biwa khác tiến hóa, tách khỏi loại biwa của thầy tu mù ở Satsuma, dòng đó gọi là Satsuma biwa. Khoảng giữa thời Minh Trị (明治時代, 1868-1912), thêm một dòng biwa nữa phát triển, tách khỏi loại biwa của thầy tu mù ở Chikuzen, dòng đó gọi là Chikuzen biwa. Theo thời gian, nhiều dòng biwa khác ra đời. Cho đến ngày nay, căn cứ vào số dây, âm thanh, loại miếng gảy và cách sử dụng, người ta chia biwa thành 8 loại trở lên, đó là: Gagaku biwa, Gogen biwa, Moso Biwa, Heike biwa, Satsuma biwa, Chikuzen biwa, Nishiki biwa và Tsuruta biwa…
Nhìn chung, biwa có thân đàn hình quả lê, được làm từ một khối gỗ cứng hoặc từ vài miếng gỗ ghép lại; mặt đàn là một lớp gỗ mềm mỏng, thường có hai lỗ thoát âm hình bán nguyệt; cần đàn ngắn, có 3 đến 6 ngăn phím cao; trục đàn vuông, cong về phía sau một góc 90 độ với phần đầu trục uốn ngược lên. Biwa có từ 3 đến 5 dây đàn làm bằng tơ (hiện nay chỉ còn loại 4 và 5 dây, chỉnh giọng bằng những chốt gỗ tròn và dài nằm ở hai bên trục đàn). Miếng gảy (bachi) sử dụng cho biwa có hình tam giác, khá lớn, không chỉ dùng để gảy dây mà còn gõ vào mặt đàn. Thông thường, có một mảnh da thuộc hay giấy dán hồ nằm vắt ngang nửa phần dưới mặt đàn. Loại ở đây làm bằng gỗ và da thuộc, dài 105cm, rộng 40,3cm, dày 7cm, có 4 dây đàn.
Cách chơi và âm thanh của biwa không giống như đàn Tì bà Trung Quốc. Khi diễn tấu, nghệ sĩ ngồi gập chân kiểu Nhật. Đối với loại 4 dây họ đặt thân đàn trên hai đùi, theo tư thế ngang giống như guitar, riêng loại 5 dây thì họ thường giữ đàn thẳng đứng; tay trái giữ cần đàn, những ngón trái bấm phím, trong khi đó, bàn tay phải cầm miếng gảy khá to, gảy dây bằng cạnh dưới phía trước của miếng gảy. Họ nhấn dây xuống giữa hai ngăn phím để tạo ra âm thanh có cao độ theo ý muốn. Do phần đầu của ngăn phím tròn nên âm thanh của biwa phát ra có nét đặc trưng riêng.
Biwa là loại đàn dùng để độc tấu, hòa tấu, chủ yếu là đệm hát, làm nền cho những câu chuyện kể bằng những giai điệu chậm. Đến thời Minh Trị, do nhạc phương Tây và nhiều nhạc cụ khác phổ biến hơn nên việc chơi đàn biwa đã trở nên mai một dần. Tuy nhiên, đến nửa cuối thế kỷ 20, biwa hồi sinh qua tài năng của nữ nghệ sĩ Nhật Tsuruta Kinshi. Tuy ít được sử dụng trong nhạc pop, song biwa đã từng xuất hiện trong ban nhạc progressive rock của Nhật (nhóm Paikappu) trong thập niên 1980 và từ năm 2003, nhóm Rin’, một ban nhạc pop Mỹ-Nhật đã chơi nhạc cụ này.
Chikuzen biwa
Chikuzen biwa (筑前琵琶, Trúc tiền tì bà) là loại biwa hiện đại, dài 70cm, có 4 – 5 dây đàn với 4 – 5 ngăn phím. Phần lớn nghệ sĩ chơi nhạc đương đại đều sử dụng loại 5 dây. Miếng gảy của Chikuzen biwa rộng khoảng 13cm (nhỏ hơn nhiều so với loại Satsuma biwa), thường làm bằng gỗ hồng sắc với phần đầu là gỗ hoàng dương hoặc ngà. Kích cỡ, hình dáng và trọng lượng của loại đàn này còn tùy thuộc vào giới tính và tuổi tác của người chơi. Loại do nam giới sử dụng rộng hơn và/hoặc dài hơn một chút so với loại dành cho phụ nữ và trẻ em. Loại 4 dây được chỉnh giọng B, e, f#, b; còn loại 5 dây chỉnh C, G, C, d, g hoặc E, B, e, f#, b. Xét về lịch sử, Chikuzen biwa xuất hiện khoảng cuối thời Nại Lương (奈良時代), khởi đầu thời Bình An (平安, 794-1185). Vào thời đó, thầy tu mù Gensei sáng lập ngôi đền Seishukuin, nơi tu hành của những thầy tu mù vùng Chikuzen. Gensei và những thầy tu mù đã chế tạo nhiều loại đàn biwa khác nhau. Dần dần loại biwa có 4 dây và 5 phím trở thành chuẩn mực, được sử dụng rộng khắp ở miền bắc đảo Kyushu, được đặt tên là Chikuzen biwa. Đến giữa thời Minh Trị (Meiji), Tachibana Satosada đã phổ biến loại đàn này khắp nước Nhật. Chikuzen biwa thường được dùng để chơi nhạc không lời. Trong lúc diễn tấu, người ta không bao giờ gõ miếng gảy vào thân đàn. Đối với loại 5 dây, họ giữ đàn thẳng đứng, còn loại 4 dây thì cầm ngang.
Gagaku biwa
Gagaku biwa (雅楽琵琶, Nhã nhạc tì bà) là loại biwa cổ điển; phần bụng của thân đàn làm từ gỗ hồng sắc, dâu tằm hay gỗ mộc qua Trung Quốc, đôi khi còn sử dụng gỗ anh đào và gỗ sồi Trung Quốc; phần mặt của thân đàn làm từ gỗ hạt dẻ. Nếu phần bụng của thân đàn làm từ một miếng gỗ thì gọi là “hita ko”, còn làm từ hai đến ba miếng gỗ gọi là “hagi ko”. Hita ko được công nhận là loại giá trị nhất. Phần dưới mặt đàn lót một miếng da thuộc đi ngang qua, miếng này rộng khoảng 10-12cm. Đây là chỗ người ta gõ miếng gảy vào khi đánh đàn. Trên miếng da thuộc thường vẽ những bức tranh đẹp, ngoài ra, những cây biwa nổi tiếng còn có tên riêng, cái tên này liên quan với việc thiết kế những bức tranh. Phần trên của thân đàn gọi là “shishi kubi” (cổ gầy), nó được làm từ gỗ cứng nhập khẩu hoặc gỗ dâu tằm. Đỉnh của phần trên gọi là “kairobi” (đuôi tôm), được làm từ gỗ hoàng dương hoặc gỗ đàn hương. Những chốt chỉnh dây ngắn và nhỏ, dễ phân biệt với loại biwa hiện đại hơn như Satsuma biwa và Chikuaen biwa. Miếng gảy của Gagaku biwa mỏng và nhỏ dài khoảng 20cm), làm từ vật liệu cứng như ngà hay gỗ hoàng dương.
Nhìn chung, loại đàn này lớn và nặng, có 4 dây tơ và 4 phím đàn, chuyên dùng cho thể loại nhạc cung đình gagaku (Nhã nhạc Nhật Bản). Gagaku biwa không được dùng để đệm hát. Giống như cách chơi Heike biwa, khi diễn tấu người ta thường ngồi gập chân, giữ loại đàn này nằm ngang như guitar. Trong Nhã nhạc Nhật Bản, Gagaku biwa được gọi là Gakubiwa (Nhạc tì bà).
Gogen biwa
Gogen biwa (五絃琵琶, Ngũ huyền tì bà) là loại biwa cổ điển, biến thể của tì bà Trung Quốc trong thời nhà Đường. Nó được làm bằng gỗ, nhiều chỗ khắc hoa văn và cẩn xà cừ. Gogen biwa có 5 dây đàn, không nên nhầm lẫn chúng với loại biến thể hiện đại cũng có 5 dây, đó là Chikuzen biwa. Gogen biwa thường được dùng trong Nhã nhạc Nhật Bản.
Heike biwa
Heike biwa (平家琵琶, Bình gia tì bà) là loại biwa xuất hiện trong thời Edo (1603-1868). Nó có 4 dây và 5 ngăn phím, chỉnh giọng A, c, e, a hoặc A, c#, e, a, thường dùng để chơi trong chuyện kể Bình gia vật ngữ (Heike Monogatari), một bản sử thi về cuộc chiến giành quyền kiểm soát Nhật Bản giữa dòng dõi samurai Taira với gia tộc quyền quý Minamoto trong cuối thế kỷ 12. Miếng gảy của loại đàn này lớn hơn một chút so với loại gagaku biwa, nhưng ngoại hình thì nhỏ hơn nhiều (có thể so sánh với kích cỡ của chikuzen biwa). Ngày xưa, loại đàn này do những người hát rong sử dụng. Ngoài ra, do có kích cỡ nhỏ nên người ta có thể chơi chúng trong nhà.
Moso biwa
Moso biwa (盲僧琵琶, Manh tăng tì bà) là loại biwa cổ điển, có 4 dây, được dùng trong ca khúc và câu chú Phật giáo. Ngày xưa, loại đàn này do các thầy tu (moso) thuộc dòng Phật giáo Tendai sử dụng. Nó có ngoại hình tương tự chikuzen biwa nhưng thân đàn hẹp hơn nhiều. Miếng gảy của nó khác nhau về kích cỡ và chất liệu. Loại có 4 ngăn phím chỉnh dây E, B, E, A; loại có 5 ngăn phím chỉnh B, e, f # và f #; còn loại 6 ngăn phím chỉnh Bb, Eb, Bb và bb.
Nishiki biwa
Nishiki biwa (錦琵琶, Cẩm tì bà) là loại biwa hiện đại. Nó có 5 dây và 5 ngăn phím, do Suitō Kinjō phổ biến. Miếng gảy của nó giống như loại dùng cho Satsuma biwa. Cách dây đàn được chỉnh giọng C, G, c, g, g.
Satsuma biwa
Satsuma biwa (薩摩琵琶, Tát ma tì bà) là loại biwa chế tạo ở miền nam Nhật Bản vào thế kỷ 16, rất phổ biến ở đảo Kyushu. Vào thời ấy, ông hoàng Shimazu Tadayoshi ngự trị Tát ma quốc (vùng Satsuma, thành phố Kagoshima ngày nay). Ông muốn có một nhạc cụ đệm các ca khúc do ông sáng tác, nhằm khích lệ tinh thần dũng sĩ samurai và thần dân. Shimazu Tadayoshi ra lệnh cho Fuchiwaki Ryoko cải tiến loại nhạc cụ do những thầy tu mù sử dụng ở Satsuma thành loại Satsuma biwa ngày nay.
Theo truyền thống, Satsuma biwa được làm từ gỗ dâu tằm, mặc dù những loại gỗ cứng khác như gỗ sồi Nhật đôi khi cũng được dùng trong cấu trúc của chúng. Người ta thường chọn cây dâu tằm có ít nhất 120 tuổi, phơi khô 10 năm trước khi làm loại đàn Satsuma biwa. Chúng dài khoảng 90cm. Loại truyền thống có 4 ngăn phím và 4 dây tơ thường chỉnh giọng A, E, A, B (theo giọng của người chơi); trong khi đó loại hiện đại có 5 ngăn phím trở lên, ngoài ra nó có 5 dây (dây 4 và 5 cùng cao độ), được chỉnh theo âm vực giọng của người chơi. Vài cây lại có 4 nguồn dây đôi, chỉnh giọng G, G, c, g, hay G, G, d, g và thường được dùng trong nhạc đương đại. Nhìn chung, còn nhiều cách chỉnh dây khác cho cả loại truyền thống lẫn hiện đại. Ngăn phím của Satsuma biwa truyền thống có thể nâng cao 4cm, cho phép nốt lượn lên những bậc cao hơn. Miếng gảy của chúng làm từ gỗ hoàng dương, rộng hơn nhiều so với miếng gảy của những loại biwa khác, thường rộng từ 25cm trở lên. Satsuma biwa là loại đàn dùng trong hát nói, người kể chuyện chỉ đàn khi họ nghỉ hát để lấy hơi. Kỹ thuật chơi loại đàn này kết hợp giữa cách chơi Moso biwa và Heike biwa. Khi diễn tấu, những ngón tay trái của người chơi bấm mở các dây đàn trong khi đó bàn tay trái gảy dây bằng một miếng gảy lớn.
Tsuruta biwa
Trong thế kỷ 20, Tsuruta Kinshi, một nữ nghệ sĩ Nhật đã chế tác phiên bản Satsuma biwa đời mới để biểu diễn, bà gọi cây đàn này là Tsuruta biwa. Loại biwa này có cấu trúc đầu cần khác Satsuma biwa một chút. Nó có 5 dây (đôi khi dây thứ tư lại là dây đôi) và 5 phím đàn, cho phép có nhiều nốt hơn để biểu diễn những tác phẩm phương Tây và hiệu đại. Khi chơi loại đàn này bà Tsuruta Kinshi ngồi xếp chân theo kiểu Nhật, đặt thân đàn tựa lên hai đùi, bàn tay trái giữ cần đàn, còn những ngón trái bấm phím, trong lúc bàn tay phải cầm một miếng gảy khá lớn, gảy một cạnh vào dây đàn.
(Tổng hợp từ ATLAS [về nhạc cụ], Wikipedia [Anh, Trung Quốc] và những tài liệu khác)
Tại sao gọi là đàn Tỳ Bà
(Nguyễn Đức Mai)
Trong tập bản thảo viết tay về nhạc Huế, Cụ Ưng Dự, mà tôi tin rằng bây giờ người cháu nội là nhạc sĩ Vĩnh Tuấn còn lưu giữ, Cụ viết rằng:
Tiến thủ viết Tỳ, thoái thủ viết Bà. (Tay đánh tới gọi là Tỳ, tay đánh lui gọi là Bà).
Ðây là một cây đàn có nhiều nét đẹp. Nó được đề cập đến nhiếu trong thi ca thời xưa.
Từ:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi Dục ẩm Tỳ Bà mã thượng thôi Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
Rồi đến Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị và Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du.
Nhưng trong tất cả các mô tả này, đàn Tỳ Bà đàn theo lối Trung Quốc, có cả hai thế tay đánh xuống, đánh lên; và gảy những ngón tay trên bốn dây:
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Trong khi đó, đàn Tỳ Bà Việt Nam có lối đàn hoàn toàn khác hẳn.
Nhạc sĩ đánh đàn Tỳ Bà cũng như đàn Nguyệt, thường chỉ đánh xuống, mà không có khảy ngược lên, và thay vì đàn cả năm ngón theo kiểu Trung Quốc, nhạc công chỉ dùng một ngón trỏ, một cây tăm tre, hoặc một mảnh ngà voi chuốt mỏng để gảy đàn, và nhất là không bao giờ khảy rung (tremolo) như lối chúng ta khảy đàn măng-đô-lin.
Trong các loại đàn dây cổ nhạc, đàn Tỳ Bà có hình dáng đẹp nhất.
Thân đàn có hình quả lê, đầu cán đàn là một con dơi xòe cánh nhìn thẳng xuống cần đàn trang trí bắng ba đợt sóng gọi là Thủy Ba, và các phiếm chỉ được gắn bắt đầu từ phần trên của bụng đàn, dùng làm hộp cọng hưởng khuyếch âm (resonant chamber).
Cũng như nàng Kiều của Cụ Nguyễn Du, hồng nhan đa truân, cây đàn Tỳ Bà vì là cây đàn đẹp nên chịu nhiều tai họa nhất trong số các cây đàn cổ nhạc Huế.
Trước hết, các cô gái đẹp thường thích mặc áo thụng đội khăn vành theo kiểu Công Chúa, ôm đàn Tỳ Bà để chụp hình.
Người đạo diễn do không hiểu biết cây đàn này nên bảo cô người mẫu để tay lên cần đàn trong tư thế đánh đàn.
Cô người mẫu vung vít lướt tay trên phần Thủy Ba là phần không có phiếm!
Tai họa thứ hai:
Phiếm đàn bị tự tiện cải tạo!
Thời xưa, trong ba cây đàn của Ban AVT nổi tiếng, chỉ có cây Nhị của Lữ Liên là thứ thiệt, và Lữ Liên là tay đàn Nhị thứ thiệt.
Còn cây đàn Tỳ và cây đàn Ðoản đều bị cải tạo, gắn phiếm tuốt từ trên xuống dưới!
Nhưng điều này cũng vui thôi, chỉ tội cho cây đàn bị cải tạo thật oan ức.
Còn ngày nay thì tai họa trầm trọng hơn nhiều, vì trong ban cổ nhạc Huế cách mạng hiện đại (!?) có những cây đàn Tỳ Bà y hệt đàn của Vân Sơn dùng ngày xưa trong Ban AVT.
Người ta đưa đoàn nhạc Huế ra ngoại quốc biểu diễn và được thính giả ngoại quốc nhiệt liệt hoàn nghênh những cây đàn Tỳ Bà cải tạo thành măng-đô-lin này!
Tai họa chót:
Bản đàn.
Ðàn Tỳ Bà có bài bản, có biến tấu riêng của nó.
Các nhạc công bây giờ đàn Tỳ Bà hệt như đàn Nguyệt là cả một chuyện tai họa. Xin đưa ra đây một thí dụ để minh chứng, lấy hai câu trong bản Lưu Thủy:
Lời ca bài Thiên Thai, điệu Lưu Thủy:
Giòng lác giòng Ðào Nguyên Ðây Lâm Tuyền hợp quần bạn Tiên
Lòng bản (đàn Nguyệt lên dây Họ 5, Họ = G) là:
Họ Xự-Xang Họ Xự Xang Xê-Cống-Xê-Xang Họ Xê-Xang Họ Xư Xang
Nhìn vào biểu sau đây, ta sẽ thấy bản đàn Tỳ Bà có nhiều nốt hơn so với bản đàn Nguyệt và thấp hơn một bát độ.
Bản đàn Tỳ Bà Lưu Thủy này thực chất là biến tấu bè Trầm (Alto) để đệm cho đàn Nguyệt chứ không phải là bản đàn độc tấu, cho nên khi chơi chung với đàn Nguyệt thì hay tuyệt vời.
Nhưng nếu có ai không biết mà cho cây đàn Tỳ Bà đàn một mình thì sẽ là một thất bại lớn, chẳng khác nào ta để cho một ca sĩ một mình ca bè 2 (bè phụ) của một bài ca soạn cho hai giọng!
1 2 3 4 5 6 7 Lời Ca Giòng lạc giòng Ðào Nguyên Nguyệt G2 A2-C2 G2 A2 C2 Tỳ Bà G1-F1 E1-G1 A1 C1 C2 Lời Ca Ðây Lâm Tuyền hợp quần bạn Tiên Nguyệt D2-E2 D2-C2 G2 D2-C2 G2 A2 C2 Tỳ Bà B1-A1-A1 A1-A1-C1 G1 E1 G1-A1 C1 C2
Ðàn Tỳ Bà
(Võ Thanh Tùng)
I. Giới thiệu sơ lược:
Đàn Tỳ Bà là nhạc khí dây gảy được sử dụng khắp ba miền của đất nước. Ðàn Tỳ Bà thường để độc tấu các tác phẩm nhạc cổ truyền, khả năng độc tấu của Ðàn Tỳ Bà rất phong phú. Ðàn Tỳ Bà còn là thành viên của nhiều Dàn nhạc.
II. Xếp loại:
Đàn Tỳ Bà là nhạc khí dây gảy loại có dọc (cần đàn), rất phổ biến tại Việt Nam đồng thời một số nước khác ở Châu Á cũng có. Ðàn Tỳ Bà được nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc.
III. Hình thức cấu tạo:
1- Thùng đàn: hình quả lê bổ đôi, lưng đàn cong, phồng lên ở giữa làm bằng gỗ cứng,
2- Mặt đàn: làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, trên mặt đàn có bộ phận để mắc dây đàn.
3- Thân đàn: Ðàn Tỳ Bà không có dọc (cần đàn) riêng biệt mà dọc đàn gắn liền với thân đàn, xưa kia vẫn có phím nhưng là phím giả. Ngày nay Ðàn Tỳ Bà có gắn 3 phím trên cần đàn và 11 phím gắn trên mặt đàn, ngoài ra còn thêm 2 phím cho 2 dây cao. Các phím đều thấp và gắn liền kề nhau dựa theo thang âm bảy cung chia đều.
4- Dây đàn: có 4 dây bằng tơ se nay thay bằng dây nylông, được lên theo các âm: Ðô, Fa, Sol, Ðô1 hoặc Sol, Ðô, Rê, Sol1.
Ví dụ: (068.1)
5- Bộ phận lên dây: có 4 trục gỗ để lên dây, ở phía cuối thân đàn có đài đàn (ngựa đàn để mắc dây, bộ phận lên dây được cải tiến để dây không bị chùng xuống.
6- Phím gảy đàn: nghệ nhân gảy đàn bằng miếng gảy nhựa hay đồi mồi với các ngón gảy, ngón hất, ngón vê, đặc biệt Ðàn Tỳ Bà sử dụng các ngón tay vẩy đuôi trên dây đàn gọi là ngón phi.
Vị trí nốt trên dọc (cần đàn):
IV. Màu âm, Tầm âm:
Màu âm Ðàn Tỳ Bà trong sáng, vui tươi, thể hiện tính chất tươi sáng và trữ tình. Màu âm Ðàn Tỳ Bà hơi giống Ðàn Nguyệt nhưng có phần hơi đanh và khô hơn, nhất là ở những khoảng âm cao. Tầm âm của Ðàn Tỳ Bà là 3 quãng tám: từ Ðô lên Ðô3 (c lên c3) .
Ví dụ: (069-3)
Ví dụ: (073-4)
Ví dụ: (070-5)
Ví dụ: (071-6)
Ví dụ: (072-7)
Ví dụ: (073-2)
V. Kỹ thuật diễn tấu:
Tư thế ngồi và cách gảy đàn:
Kỹ thuật diễn tấu của Ðàn Tỳ Bà có nhiều ngón giống như Ðàn Nguyệt.
Tư thế đàn: Ngồi thấp: xếp chân trên chiếu. Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt gần như thẳng đứng.
Kỹ thuật tay phải: Tay phải gảy đàn, cách sử dụng móng tay để đàn có nhiều kỹ thuật phức tạp nhưng sinh động. Ngón phi: ngón phi của Ðàn Tỳ Bà có thể đánh trên cả 4 dây hoặc phi trên từng cặp dây(dây1+2; dây2+3 và 3+4) hoặc phi trên từng dây 1 hoặc 4 dễ dàng hơn.
Ví dụ: (074.9)
Ví dụ: (074.10)
Ví dụ: (074.11)
Kỹ thuật tay trái: Kỹ thuật tay trái của Ðàn Tỳ Bà có các ngón nhấn, ngón vuốt, ngón mổ, bấm hợp âm, đặc biệt Ðàn Tỳ Bà có lối đánh song thinh (song thanh): 2 đồng âm ở hai dây khác nhau. Ngón nhấn: các phím đàn gắn cách nhau không xa lắm, mỗi phím lại không cao như Ðàn Nguyệt nên các loại ngón nhấn (nhấn, nhấn luyến lên, nhấn láy…) đều có những hạn chế, thường chỉ nhấn từ nửa cung đến một cung liền bậc, hiệu quả ngón nhấn tốt nhất là khoảng âm trầm và một phần khoảng âm giữa.
Ví dụ: (075.13)
Ngón vuốt: được sử dụng nhiều ở Ðàn Tỳ bà, trong các tác phẩm cổ truyền ngón vuốt được sử dụng nhiều như ngón nhấn của Ðàn Nguyệt. Ký hiệu ngón vuốt không vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt. Vuốt có vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt đồng thời gạch hai gạch chéo ở nốt nhạc có đuôi, nếu nốt nhạc không có đuôi thì gạch hai gạch chéo ở trên hoặc ở dưới nốt.
Ví dụ: (076.15)
Ví dụ: (077.16)
Vuốt xuống: là cách vuốt dây của tay trái trong khi tay phải không gảy, không vê, không phi, âm thanh các ngón vuốt xuống phát ra nhỏ, yếu nhưng không thể dùng trong hòa tấu. Do vậy các âm vuốt thường xen kẽ với các âm gảy, vê hay phi để có thể thừa hưởng dư âm của các âm ấy.
Ví dụ: (078.17)
Vuốt nhiều dây: có thể vuốt hai, ba dây một lúc trong khi tay phải gảy, vê hay phi, kỹ thuật nầy ít sử dụng trong diễn tấu nhạc cổ truyền.
Ví dụ: (079.18)
Ngón chụp: tay trái ngón 1 bấm vào một cung phím, tay phải gảy dây, khi âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím khác (thường là liền bậc cao hoặc thấp) âm thanh từ cung phím nầy vang lên mà không phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn còn chấn động, một phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo thêm chấn động. Âm luyến nghe yếu nhưng mềm mại, ở những thế bấm cao âm luyến nghe kém vang nên ít được sử dụng. Ký hiệu ngón chụp: dùng dấu luyến giữa các nốt nhạc.
Ví dụ: (080.14)
Ngón mổ: gần giống như ngón luyến, nhưng tay phải không gảy dây mà ngón tay trái cứ mổ vào các cung phím để phát ra âm thanh, âm thanh ngón mổ nghe nhỏ, yếu và có màu âm riêng biệt. Không nên sử dụng ngón mổ trong bản nhạc có tốc độ nhanh và trong hòa tấu vì hiệu quả ngón mổ nghe rất nhỏ. Ký hiệu ngón mổ ghi như dấu hỏi đặt trên nốt nhạc.
Ví dụ: (081.19)
Ngón vỗ: một ngón tay đang bấm trong khi ngón khác vỗ lên dây đàn.
Ví dụ: (082.20)
Chồng âm, hợp âm: Ðàn Tỳ Bà có thể cách đánh chồng âm dễ dàng và hiệu quả nhất là sử dụng bằng miếng gảy, khi đánh chồng âm, hợp âm có thể đánh bằng móng tay hoặc phím gảy trên 4 dây, hai hoặc ba dây không khó khăn và giữ tính chất đệm trong hòa tấu. Ðiểm độc đáo nhất của Ðàn Tỳ Bà là đánh hợp âm rãi, kỹ thuật đánh hợp âm rãi của Ðàn Tỳ Bà có hiệu quả đặc biệt và độc đáo như tiếng Á của Ðàn Tranh .
Ví dụ: (083.21)
Ví dụ: (093-39)
Ví dụ: (094-26)
Ví dụ: (095-28)
Ví dụ: (096-30)
Ví dụ: (097-32)
Ví dụ: (098-34)
Ví dụ: (099-36)
Ví dụ: (100-38)
VI. Vị trí Ðàn Tỳ Bà trong các Dàn nhạc:
Đàn Tỳ Bà thường để độc tấu các bản nhạc cổ truyền Dân tộc, khả năng độc tấu rất phong phú hay sử dụng trong các Ban nhạc Tài tử, Phường Bát âm, Dàn nhạc Cung đình Huế, Dàn nhạc Cải lương, đặc biệt gần đây được đưa vào Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp hòa tấu và Dàn nhạc Giao hưởng Dân tộc.
VII. Những nhạc khí tương tự ở Ðông Nam Á và các nước:
Ðàn Tỳ Bà Việt Nam: Tương tự với Ðàn Tỳ Bà, Nhật Bản có Biwa, ở Trung quốc có PiPa đánh bằng 5 ngón tay (ngũ trảo).
oOo
Hát & độc tấu Chikuzen Biwa (筑前琵琶, Trúc tiền tì bà) – Kyokumi Tashiro, Chikuzen Biwa “Funa Benkei”:
Hát & độc tấu Nishiki Biwa (錦琵琶, Cẩm tì bà) – KUMADA KAHORI — Nasuno Yoichi:
Độc tấu Gagaku Biwa – Gakubiwa (雅楽琵琶 楽琵琶)
Độc tấu Gagaku Biwa (雅楽 琵琶秘曲〈啄木〉~平安末期の琵琶譜『三五要録』にもとづく再現~): https://www.youtube.com/watch?v=KPe-d7G37-k
Độc tấu Bipa (Korean):
Song tấu Bipa – Korean classical music:
Khám phá Đàn Tỳ Bà (Pipa): https://www.youtube.com/watch?v=QdBqfmFSNE4
Liu Fang (Lưu Phương) – Độc tấu Tỳ Bà (Pipa):
Độc tấu Tỳ Bà (Pipa): https://www.youtube.com/watch?v=O_L-BhEukc0
Thần Thoại Đàn Nhị & Tỳ Bà: https://www.youtube.com/watch?v=ST8pYHrr2Tw
Song tấu Tỳ Bà (Pipa): Dehai Liu & Lingling Yu:
Độc tấu Tỳ Bà (Pipa):
Độc tấu đàn Barbat – Ba Tư (Barbat of Maestro Behroozinia – In the Realm of Solitude):
Độc tấu đàn Barbat – Ba Tư (Ali Sajjadi Solo Barbat (Oud) – Bayat-e Rajeh):
Hòa tấu đàn Barbat – Ba Tư (Senavazieh Tar , Oud , Tonbak):
Làn Điệu Việt – Đàn Tỳ Bà:
Song tấu Tỳ Bà & Đàn Tranh – Liu Fang (Lưu Phương & Hải Phượng:
Nhớ Huế – Hòa tấu đàn Tỳ Bà:
Hòa tấu Tỳ Bà – Văn Còn:
Tỳ Bà – Vọng cổ 1 & 2 – Văn Còn:
Tỳ Bà – Phi vân điệp khúc – Văn Còn:
Độc tấu đàn tỳ bà: LUYỆN NĂM CUNG: https://www.youtube.com/watch?v=DV6kr2e2Lpw
Ca Nhạc Thiếu Nhi – Độc Tấu Đàn Tỳ Bà – Thập Diện Mai Phục: https://www.youtube.com/watch?v=S9NqXCu0qqA
Hòa tấu Đàn Tranh & Tỳ Bà – TÒ VÒ – Thu Thủy & Thùy Chi:
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy song tấu Tỳ Bà & Tranh – Lưu Thủy & Kim Tiền:
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy song tấu Tỳ Bà & Tranh – Hành Vân:
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy song tấu Tỳ Bà & Tranh:
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy song tấu Tỳ Bà & Tranh – Cổ Bản:
Share this:
- More
Related
Từ khóa » đàn Biwa
-
Biwa - Wikipedia
-
Nhạc Cụ Truyền Thống Cao Cấp TẠ THÂM - Bạn đã Biết Về đàn Biwa ...
-
Biwa-bokuboku: Yêu Quái đàn Tì Bà Biết... "tự Chơi" Mình - GameK
-
BIWA | Traditional Music Degital Library
-
Những Loại đàn Tì Bà - Khoa Văn Học
-
Cách Chơi Bằng Miếng Gảy (tỳ Bà Nhật - Biwa) Đàn Tỳ Bà - Tieng Wiki
-
Nhạc Cụ Truyền Thống Của Nhật Bản | Mobile - TẠ THÂM
-
Đàn Tỳ Bà - Nhạc Cụ Cổ Truyền Trung Quốc - 7038 - GiHay
-
Tỳ Bà Mục Biwa Bokuboku - Truyện Cho Con
-
Đàn Tỳ Bà Khảm Trai Siêu Đẹp - Tặng Phụ Kiện - Giá Rẻ Nhất
-
Đàn Tỳ Bà - Hyperleap
-
Đàn Tỳ Bà Phong Vân, Dan Pipa , Biwa Phong Van, Cửa Hàng Bán ...