Nhận Thức Là Gì? Các Giai Đoạn Của Nhận Thức 【XEM NGAY】
Có thể bạn quan tâm
Nhận thức là gì? Nhận thức trong tiếng anh là Cognition là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy trình như tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ.
Cùng tìm hiểu khái niệm nhận thức là gì và các giai đoạn của nhận thức trong bài viết dưới đây nhé.
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trì
- Nhận thức là gì?
- Nhận thức được phân loại như thế nào?
- Nhận thức về mặt lý luận
- Nhận thức kinh nghiệm
- Nhận thức khoa học
- Nhận thức thông thường
- Một số quan điểm về nhận thức có thể bạn chưa biết
- Về quan điểm duy tâm trong nhận thức
- Theo quan điểm duy vật siêu hình về nhận thức
- Các giai đoạn của quá trình nhận thức
- Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính
- Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính
- Giai đoạn 3: Nhận thức trở về thực tiễn
- Bản chất của nhận thức là gì?
- Vai trò của nhận thức trong tâm lý học
- So sánh nhận thức và tình cảm
- Giống nhau
- Khác nhau
Nhận thức là gì?
nh biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo quan điểm triết học Mac-Lenin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Trong tâm lý học nhận thức và kỹ thuật nhận thức, nhận thức thông thường được coi là quá trình xử lý thông tin của tâm trí người tham gia hay người điều hành hoặc của bộ não.
Theo đó nhận thức được cho là quá trình phản ánh năng động và sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ não con người. Nhờ hoạt động nhận thức, không chỉ cái bên ngoài mà cả bản chất nên trong, các mối quan hệ mang tính quy luật chi phối sự vận động, sự phát triển các sự vật hiện tượng, không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cả cái đã qua và cái sẽ tới. Hoạt động này bao gồm nhiều quá trình khác nhau thể hiện nhiều mức độ phản ánh hiện thực khách quan và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thức khách quan.
Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra tri thức mới.
Các qui trình được phân tích theo các góc nhìn khác nhau ở tùy các lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ học, thần kinh học, tâm thần học, tâm lý học, giáo dục, triết học, nhân loại học, sinh học, logic và khoa học máy tính.
Trong tâm lý hoc và triết học khái niệm về nhận thức liên quan chặt chẽ đến các khái niệm trừu tượng như trí óc và tri tuệ, bao gồm các chức năng tâm thần, các quy trình tâm thần và các trạng thái của các thực thể thông minh (cá nhân, nhóm, tổ chức, trí tuệ nhân tạo..).
Cách sử dụng khái niệm nhận thức khác nhau trong từng ngành học. Trong tâm lý học và trong khoa học nhận thức cho rằng nhận thức thường đề cập đến các chức năng tâm lý của một cá nhân xử lý thông tin. Khái niệm nhận thức còn được sử dụng trong một nhánh của tâm lý học xã hội – ý thức xã hội để giải thích về những thái độ, sự phân loại và động lực nhóm.
Xem thêm >>> Tư Vấn Tâm Lý Tình Yêu
Nhận thức được phân loại như thế nào?
Theo chủ nghĩa Mác Lê Nin, việc phân loại nhận thức sẽ dựa trên một số đặc điểm cơ bản khác nhau như:
Nhận thức về mặt lý luận
Đây là nhận thức gián tiếp, có mặt trừu tượng, không chỉ đích danh một sự vật hay sự việc nào. Thay vào đó, tất cả các nhận định về một sự vật hoặc sự việc đang diễn ra sẽ dựa trên mặt lý luận về các tác động xung quanh.
Nhận thức kinh nghiệm
Nhận thức kinh nghiệm hay còn được gọi là tri thức kinh nghiệm, loại nhận thức này sẽ được hình thành qua quá trình quan sát các sự vật, xã hội trong tự nhiên và cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, nó còn có thể được xây dựng trên những thí nghiệm khoa học, thí nghiệm thực tế.
Trong tri thức kinh nghiệm sẽ được chia thành 2 loại nhỏ dựa trên nguồn gốc nhận định của bạn, cụ thể đó là tri thức kinh nghiệm khoa học hoặc tri thức kinh nghiệm thông thường.
Nhận thức khoa học
Nhận thực khoa học được hình thành qua các mối quan hệ tất yếu trong cuộc sống thường ngày. Nhận thức khoa học có vai trò khá to lớn với đời sống, khoa học và công nghệp.
Nhận thức thông thường
Loại nhận thức thông thường được hình thành trực tiếp hoặc do hoạt động tự phát của con người. Nhận thức này tường phản ánh các đặc điểm sắc thái khác nhau của sự vật hoặc hiện tượng xảy ra.
Xem thêm: Giải mã tâm lý đàn ông lớn tuổi khi yêuMột số quan điểm về nhận thức có thể bạn chưa biết
Quan điểm về nhận thức được chia thành 2 loại, đó là quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật. Cụ thể:
Về quan điểm duy tâm trong nhận thức
Quan điểm duy tâm không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức. Cho nên, họ không thừa nhận nhận thức như sự phản ánh hiện thức khách quan.
- Theo duy tâm chủ quan, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là sự phức hợp giữa những cảm giác trong con người. Do đó, đối với họ, nhận thức chẳng qua chỉ là một cảm giác và biểu tượng của con người.
- Theo duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận nhận thức, song họ coi nó cũng không phải là điều gì phản ánh hiện thực khách quan mà chỉ là sự tự nhận của ý niệm hay tư tưởng tồn tại ở đâu đó bên ngoài con người.
Theo quan điểm duy vật siêu hình về nhận thức
Họ thức nhận con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh, đồng thời coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người.
Thế nhưng, do sự hạn chế bởi tính siêu hình, máy móc cũng như tính trực quan, nên chủ nghĩa duy vật không giải quyết được một cách thực sự khoa học những vấn đề về lý luận nhận thức. (Quan điểm duy vật trước Các Mác)
Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Sau khi tìm hiểu về nhận thức là gì thì chúng ta cần quan tâm đến các giai đoạn của quá trình nhận thức. Theo quan điểm tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong.
Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.
Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc tính bên ngoài thông qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đây là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vạt, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức.
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.
Đặc điểm của nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức. Phản ánh bề ngoài, cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
Hạn chế của nhận thức cảm tính là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
>> Có thể bạn cần biết: Vô Thức Là Gì?
Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính hay còn gọi là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong, bản chất của sự việc) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. Các hình thức của nhận thức lý tính bao gồm:
Xem thêm: Lý lịch tư pháp là gì? Những vấn đề cần nắm rõKhái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật.
Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đoán vì có sự liên kết khái niệm “dân tộc Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến.
Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận.
Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết phán đoán “đồng dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim loại” ta rút ra được tri thức mới “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch. Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.
Đặc điểm của nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng đồng thời cũng là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Về cơ bản nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.
Theo đó, nhận thức cảm tính là cơ sở, là nơi cung cấp nguyên liệu cho nhận thức lý tính. Trong khi đó, nhận thức lý tính phải dựa vào nhận thức cảm tính, gắn chặt với nhận thức cảm tính. Dù nhận thức lý tính có trừu tượng và khái quát đến đâu thì nội dung của nó cũng chứa đựng các thành phẩm của nhận thức cảm tính.
Ngược lại nhận thức lý tính chi phối nhận thức cảm tính, làm cho nhận thức cảm tính tinh vi hơn, nhạy bén hơn và chính xác hơn, có lựa chọn và ý nghĩa hơn.
Giai đoạn 3: Nhận thức trở về thực tiễn
Nhận thức trở về thực tiễn được hiểu là tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói một cách dễ hiểu thì thực tiễn là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Vì vậy, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, cơ sở động lực, muc đích của nhận thức. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích và cải tạo thế giới mà còn có chức năng định hướng thực tiễn.
Xem thêm >>> Tư Vấn Tâm Lý Giới Tính
Bản chất của nhận thức là gì?
Xét ở góc độ nào đó nhất định, nhận thức là một loại hình đặc biệt của ý thức con người. Theo chủ nghĩa Mác – Lenin, bản chất của nhận thức được làm sáng tỏ qua các nguyên tắc:
- (1) Nhận thức chính là thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất bên ngoài, độc lập với ý thức. Nó phản ánh thế giới quan vào trí óc con người một cách sáng tạo, chủ động.
- (2) Nhận thức cũng chính là việc thừa nhận thế giới của con người. Trong cuộc sống này không có gì không biết, nếu có chăng cũng là những cái chưa được biết đến.
- (3) Nhận thức có nguồn gốc từ thế giới vật chất, tuy nhiên cơ sở chủ yếu, trực tiếp nhất lại là thực tế. Con người chính là chủ thể của nhận thức bởi con người chính là chủ thể trong hoạt động của chính mình.
- (4) Nhận thức không phải là hành động nhất thời mà là cả quá trình phát triển. Nó đi từ cái chưa biết đến cái biết, cái biết đến cái biết nhiều hơn, từ đơn giản đến sâu sắc, từ hiện tượng đến bản chất,…
>> Tìm hiểu ngay: Ghen tị trong tâm lý và góc nhìn mới
Vai trò của nhận thức trong tâm lý học
Vai trò nhận thức là gì trong tâm lý học là mối quan tâm của rất nhiều người, đặc biệt là các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau đời sống. Hoạt động nhận thức là một hoạt động rất cơ bản, cần thiết trong các hoạt động đời sống xã hội. Bất cứ chủ thể nào trong các hoạt động cũng đều thực hiện nhiệm vụ nhận thức. Một hoạt động nhận thức đúng đắn sẽ mang đến việc phân tích, đánh giá, thu thập thông tin, làm sáng tỏ. Từ đó, đưa ra được những thái độ, hành vi, biện pháp phù hợp.
So sánh nhận thức và tình cảm
Giống nhau
Nhận thức và tình cảm đều phản ánh:
Hiện thực khách quan: chỉ khi có hiện thực khách quan tác động vào con người mới xuất hiện tình cảm và nhận thức.
Tính chủ thể: cả tình cảm và nhận thức đều mang những đặc điểm riêng của mỗi người với cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau
Bản chất xã hội, lịch sử: nhận thức và tình cảm đều mang bản chất xã hội. Dựa vào những phong tục, tập quán, lịch sử, xã hội của nơi mà bạn sinh sống hình thành nên.
Ví dụ: Người Việt Nam đi bên phải mới đúng, người Anh đi bên trái mới đúng. Hay người Việt quan trọng thuần phong mỹ tục vì vậy nếu mặc đồ hở hang vào chùa hay gặp mặt người lớn được cho là thiếu ý tứ, thiết tế nhị và sai sót.
Khác nhau
- Nội dung phản ánh của tình cảm và nhận thức là khác nhau. Theo đó, tình cảm phản ánh các sự vật, hiện tượng gắn liền với nhu cầu và động cơ của con người. Ngược lại nhận thức phản ánh thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Ví dụ: A đang làm việc tại công ty. A nhận được tin nhắn là mẹ bị ốm.
Về mặt tình cảm: A cảm thấy lo lắng, hoang mang suốt thời gian còn lại và không thể tập trung vào công việc.
Về mặt nhận thức: A nhận thức rõ việc mẹ bị ốm. Mẹ bị ốm vì nguyên nhân gì? Có nặng hay không? Có người chăm sóc mẹ hay chưa?..
- Phạm vi phản ánh của tình cảm mang tính chọn lựa. Nó chỉ phản ánh những sự vật có liên quan đến sự thỏa mãn nhu cầu hoạt động cơ của con người mới gây nên tình cảm. Trong khi đó, phạm vi phản ánh của nhận thức lại ít tính lựa chọn hơn và có phạm vi rộng hơn. Theo đó, bất cứ sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan tác động vào các giác quan của ta đều được phản ánh với những mức độ sáng tỏ, đầy đủ, chính xác khác nhau.
Ví dụ: D học toán nhiều nhất trong các môn học ở trường
Về mặt tình cảm: D thích những con số, thích tính toán nên D học toán
Về mặt nhận thức: D cho rằng toán là một môn học quan trọng. Toán giúp ích cho D trong việc đạt thành tích học tập tốt hơn và tốt cho tương lai của D sau này.
- Phương thức phản ánh của tình cảm thể hiện qua những rung cảm, những trải nghiệm có được. Phương thức phản ánh của nhận thức thể hiện qua những hình ảnh (cảm giác, tri giác) và bằng những khái niệm (tư duy).
Ví dụ: B thích váy suông
Về tình cảm: B thấy những chiếc váy suông rấ xinh xắn, thoải mái và dễ phối đồ.
Về nhận thức: B cho rằng váy suông hợp với thân hình quả lê, mặc váy suông có thể giúp B che đi các khuyết điểm của bản thân và phù hợp với môi trường làm việc nhiều nam giới, hay vận động của mình.
Con đường hình thành của tình cảm thường rất khó khăn. Tuy nhiên khi đã hình thành thì tình cảm này bền vững và khó mất đi. Nhận thức thì ngược lại rất dễ hình thành nhưng cũng dễ mất đi.
Ví dụ: H yêu tiếng anh
Về tình cảm: Để hình thành tình yêu tiếng anh của H rất khó nhưng khi đã hình thành thì H lại khó bỏ việc tìm hiểu và học thêm về tiếng anh nhiều hơn.
Về nhận thức: H yêu tiếng anh vì muốn sẽ đi London hay để tìm bạn trai. Tuy nhiên sau một thời gian H muốn đi Tây Ban Nha thì H ngay lập tức bỏ tiếng anh.
Vậy là ThanhBinhPsy vừa chia sẻ đến bạn đọc một trong những kiến thức tâm lý cơ bản. Tin rằng qua bài viết này bạn sẽ hiểu rõ hơn về nhận thức là gì? các giai đoạn của nhận thức và sự khác nhau của nhận thức và tình cảm.
Tham khảo thêm các dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lý của Thanhbinhpsy tại: https://thanhbinhpsy.com/dich-vu-tham-van-tam-ly/ nhé!
Bài viết liên quan- Lợi ích khi xây dựng quy trình tuyển dụng nhân sự
- Ngành quản lý nhân sự học ở trường nào tốt?
- Cách xem trộm tin nhắn viber đơn giản
Từ khóa » Suy Lý Là Hình Thức Nhận Thức Của Giai đoạn Nào
-
Nhận Thức – Wikipedia Tiếng Việt
-
Nhận Thức Lý Tính Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
So Sánh Nhận Thức Cảm Tính Và Nhận Thức Lý Tính - Luật Hoàng Phi
-
Các Giai đoạn Của Quá Trình Nhận Thức - StuDocu
-
Nhận Thức Là Gì? Các Giai đoạn Của Nhận Thức. Ví Dụ Về Nhận Thức
-
Các Giai đoạn Của Nhận Thức - VOER
-
Theo Triết Học Mác - Lênin - Bản Chất Của Nhận Thức Là Gì? - Luật Havip
-
CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC - Health Việt Nam
-
Nhận Thức Và Các Cấp độ Của Quá Trình Nhận Thức? Lấy Ví Dụ?
-
Các Giai đoạn Cơ Bản Của Quá Trình Nhận Thức
-
Mrbig244_Triethoc_tracnghiem - Page 64 - Wattpad
-
Mối Quan Hệ Giữa Nhận Thức Cảm Tính Và Nhận Thức Lý Tính
-
Quá Trình Nhận Thức: Nội Dung, ý Nghĩa Biện Chứng
-
Con đường Biện Chứng Của Nhận Thức: Từ Trực Quan Sinh động đến...