Những Người đàn Bà Im Lặng Phía Sau Nhà Thơ - Công An Nhân Dân

Những người đàn bà ấy, họ dường như phải tập để nhìn hạnh phúc theo một cách khác, yêu thương và hy sinh cho chồng theo một cách khác, thậm chí chấp nhận chính mình, cũng theo một cách khác…

1. Trong giá rét chiều cuối năm, tôi đến thăm bà Trần Thị Lâm Yến, vợ nhà thơ Tế Hanh. Bà đã 85 tuổi, bị bệnh khớp hành hạ nên phải chống gậy đón khách. Đã 3 năm kể từ ngày nhà thơ Tế Hanh từ biệt cõi đời, để lại người vợ hiền với nỗi nhớ nhung chưa khi nào nguôi dứt. Sau ngày ông mất, bà sống lặng lẽ trong căn gác nhỏ với chị Cần, một người giúp việc. Các con cháu bận việc thỉnh thoảng ghé qua thăm bà rồi lại tất tả mưu sinh. Cách đây mấy hôm, người con gái của bà đang sinh sống ở Tiệp đã về hẳn Hà Nội để sống cùng với mẹ, căn nhà dường như bớt quạnh hiu hơn. Bà dọn dẹp căn phòng bề bộn sách vở, phủi bụi thời gian và sắp xếp lại cho ngay ngắn. Mỗi cuốn sách như còn in dấu bàn tay người chồng yêu dấu được bà nâng niu, gìn giữ cẩn thận.

Quãng thời gian từ khi ông mất đến nay, bà Lâm Yến cảm thấy đã dài như hàng thế kỷ. “Lúc anh còn trên đời, dù ốm, dù không, cũng không thể nói được gì với vợ con, nhưng vẫn là hình bóng thân thuộc của anh trong ngôi nhà, hàng ngày tôi được bận bịu chăm sóc giấc ăn giấc ngủ cho anh, được trò chuyện, được đọc sách cho anh nghe, rồi bạn bè văn chương thỉnh thoảng tới thăm gia đình…Không còn anh trên đời, tôi chống chếnh như không còn điều gì để vịn vào. Nhìn đâu trong căn nhà cũng là kỷ niệm. Nói đúng ra là tôi đã sống những năm qua bằng kỷ niệm, bằng hồi ức về anh”.

10 năm chăm chồng đau mắt, rồi tiếp đến là 10 năm chăm chồng tai biến trên giường bệnh, cả thảy là 20 năm bà Lâm Yến tất tả ngược xuôi lo việc cơ quan, việc nhà cửa, con cái. Không thể đong đếm hết những vất vả của bà. Ông làm thơ, bà là thư ký ghi chép lại. Ông cần tư liệu, bà tìm sách đọc cho ông nghe. Hết gạo, hết tiền, hết thuốc chữa bệnh… bà phải lo xoay xở. Bà đã quen lo toan một mình, ngay từ lúc ông còn khỏe. Vì bà hiểu: “Nhà thơ họ lo sự nghiệp, đầu óc họ ít vướng bận chuyện đời thường. Mình làm vợ thì phải hiểu điều đó, phải chu toàn việc gia đình cho chồng yên tâm”.

Không kêu ca, không than phiền, chấp nhận số phận mình một cách tự nguyện, bà Lâm Yến thay chồng gánh vác tất cả những công việc mà vì đau ốm, chồng bà không thực hiện được. “Chồng tôi có 3 ước nguyện là tu sửa lại nhà thờ, nơi ông bà cha mẹ đã sống ở đó và cũng là nơi anh cất tiếng khóc chào đời, in một tuyển tập thơ 80 bài năm anh 80 tuổi, và đưa cả gia đình về thăm quê và anh em bạn bè ở Quảng Ngãi. Nhưng rồi sức khỏe đã không cho phép anh hoàn thành những ước nguyện đó. Trước ngày anh mất, tôi và các con đã làm xong nhà thờ ở quê, anh không nói được, nhưng nghe chuyện này thì vui lắm, cứ nắm chặt tay tôi, nước mắt chảy dài. Tôi cảm nhận anh rất mừng và muốn cảm ơn vợ. Khi anh mất rồi, tôi đưa bát hương và di ảnh anh về đặt ở nhà thờ để anh về với ông bà cha mẹ và các anh chị em đã mất. Tôi cũng hoàn thành tâm nguyện của anh là đi cảm ơn anh em bạn bè văn nghệ ở quê hương. Còn việc làm tuyển tập thơ cho anh thì tôi không làm được, vì tôi không hiểu biết nhiều về thơ ca”.

Tôi hỏi bà Lâm Yến, rằng nhìn lại cuộc đời làm vợ một nhà thơ, bà được gì, mất gì? Bà Lâm Yến chỉ cười. Bà bảo, nếu gọi là mất thì đó là mình không được hưởng cái niềm vui như những người phụ nữ thông thường khác, là được chồng gánh vác đỡ đần việc gia đình, họ hàng nội ngoại. Bờ vai của người đàn ông là bờ vai cho người phụ nữ và gia đình dựa vào. Nhưng với nhà thơ, bờ vai của họ là sự nghiệp. “Mà sự nghiệp thơ ca thì luôn bao chứa sự bất an, nỗi buồn và đau khổ, mất mát. Người làm thơ tựa vào những phẩm chất đó, họ cũng đã chẳng sung sướng gì. Mình làm vợ thì phải hiểu như vậy, nếu chất thêm gánh nặng gia đình nữa thì thật tội nghiệp cho họ. Nên tôi nhận lấy trách nhiệm là lo toan mọi việc thay chồng. Khi hiểu điều đó thì tôi không thấy cái mất của mình là mất nữa”.

Bà Bùi Thị Thạch, vợ nhà thơ Quang Dũng. Bà Lâm Yến, vợ nhà thơ Tế Hanh. Bà Trần Lệ Thu, vợ nhà thơ Huy Cận.

2. “Nhà tuổi vàng” nằm yên tĩnh trong khu đô thị Linh Đàm. Bà Bùi Thị Thạch, vợ của nhà thơ Quang Dũng đang được các nhân viên cho ăn tối. Thấy khách đến thăm, bà cười, hỏi khách bao nhiêu tuổi. Tôi nói tôi 35 tuổi và hỏi lại bà bao nhiêu tuổi. Bà bảo bà cũng ngoài 30, làm mọi người xung quanh cười ồ vui vẻ. Ba năm nay, bà Bùi Thị Thạch sống trong “Nhà tuổi vàng”- ngôi nhà dành cho những người cao tuổi mà gia đình vì một lí do nào đó không thể chăm sóc thường xuyên được gửi đến. Bà Thạch lúc quên lúc nhớ, có khi ngồi nói chuyện một mình suốt cả ngày. Nhà cửa chật chội, chị Thảo, con gái bà phải gửi bà vào đây, nhờ các nhân viên chăm sóc. Hỏi đến con gái thì bà Thạch nhớ, bà bảo: “Thảo vào thăm luôn đấy”.

Bà Bùi Thị Thạch có thể là người phụ nữ có đời sống lặng lẽ nhất, so với nhiều người phụ nữ làm vợ các nhà thơ nổi tiếng. Bà sống lặng lẽ đến nỗi phần lớn những người yêu thơ Quang Dũng cũng rất ít biết về cuộc đời bà. Ngay cả một người bạn của tác giả Đôi mắt người Sơn Tây cũng từng viết: “Chị Diệm là một người đàn bà mỏng manh và khá cao. Chị thường mặc áo nâu, buồn. Chị như một cái cây, tự lắp mình đi giữa đám rừng. Sự lặng lẽ, cô đơn như đã bủa vây thật chặt, thật kín, làm chị không gần gũi được với ai. Tôi cũng không được nghe, không biết anh Diệm (nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm-TG) lấy chị Diệm trong trường hợp nào. Cả trong bài thơ của anh, tôi cũng chưa thấy có dòng nào nói đến người vợ đáng thương này”.

Không có mặt trong thơ của chồng, nhưng bà Thạch thực sự là một người vợ hiền, đảm đang, nhất mực hy sinh vì chồng và các con. Bà là người con gái sinh ra và lớn lên trên đất Yên Bái, đã phải lòng nhà thơ cao lớn, hào hoa xứ Đoài. Họ đã cùng nhau sống qua những tháng năm tuy nghèo mà hạnh phúc. Rồi ông ra đi, bỏ lại bà trên đời. Các con mỗi người đều bận bịu cuộc sống riêng. Còn bà thì bắt đầu rơi vào cuộc sống mộng du.

Những kỷ niệm về người chồng yêu dấu có lẽ bà đã cất cho riêng mình ở một nơi nào đó, mà chúng ta hôm nay không thể nào nhận được chia sẻ của bà. Bà ngồi nhai cơm, gương mặt hiền hậu, đôi mắt như đã nhìn vào một thế kỷ khác, một cõi khác của kiếp người, chỉ khuôn miệng là vẫn hồng hào và rất hay mỉm cười hồn nhiên như một đứa trẻ. Thời con gái, chắc chắn bà Thạch là một phụ nữ đẹp với ống mũi cao dọc dừa, khuôn mặt thanh thoát và làn da trắng. Mối tình thơ mộng của bà với nhà thơ Quang Dũng giờ đây cũng đã thuộc về một vùng mây trắng nào đó.

Chị Bình, một phụ nữ có gương mặt phúc hậu, Giám Đốc “Nhà tuổi vàng” cho tôi hay, bà Thạch là thành viên đặc biệt nhất trong ngôi nhà của chị. Bà rất hay có người tới thăm, tặng quà, và thích nói chuyện với các nhân viên ở trong ngôi nhà. Nhờ sự chăm sóc ân cần của các chị, sức khỏe của bà có khá hơn mấy năm trước. Nhưng bà là người ít ngủ nhất trong số các cụ già ở đây, chị Bình kể với tôi như vậy. Bà thường ngồi cả đêm, như thể đang suy nghĩ một điều gì đó.

3. Người phụ nữ thứ ba tôi muốn nhắc tới trong bài viết này là bà Trần Lệ Thu, vợ cố nhà thơ Huy Cận. Nhiều năm nay bà sống trên căn gác chật chội ở ngôi nhà 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội. Nơi ở của bà chật và không có lối đi nên bà bảo mỗi khi tiếp khách bà thường mời ra ngồi quán cà phê. Sau ngày nhà thơ Huy Cận mất, bà chọn cuộc sống im lặng trong căn gác nhỏ của mình. Khi tôi gọi tới, bà bảo bà không muốn lên báo, vì nhiều lý do. Nhưng có lẽ điều lớn nhất ở tuổi của bà là mong được bình yên, được sống cùng với những kỷ niệm, những hồi ức về người chồng yêu dấu của mình.

Qua những gì trò chuyện với bà, và đọc những bài báo trước đây đã từng viết về bà, tôi hình dung bà Lệ Thu đang sống với nhiều tâm trạng, trong đó có cả nỗi buồn. Đó là nỗi buồn của một người đàn bà đã hy sinh rất nhiều để đến với người đàn ông mình yêu, đã vượt qua mọi trắc trở cuộc đời để bảo vệ tình yêu, và không phải lúc nào cũng được những người thân xung quanh hiểu đúng về mình.

Là người đàn bà thứ hai trong cuộc đời nhà thơ Huy Cận, bà Lệ Thu không chỉ là chốn bình yên cho tâm hồn thi sĩ của ông neo đậu, mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho những bài thơ ông viết. Rất nhiều bài thơ chứa chan tình thương yêu trân trọng nhà thơ Huy Cận đã viết dành tặng vợ yêu lúc sinh thời. Ông muốn bù đắp cho những thiệt thòi vất vả của bà, khi đã lựa chọn để làm vợ nhà thơ. Ông gọi bà là người phụ nữ của im lặng. Đó là lặng im của dâng trào cảm xúc, của thăng hoa tình yêu: “Từ khi em đến hùn năm tháng/ Hạnh phúc thật hơn đau khổ qua/ Hạnh phúc thật như nét mặt em/ Sâu xa, giản dị tựa ngày, đêm/ Thật như trong trắng lòng em vậy/ Như nắng mai, nay rộn rã thêm” (Thơ tặng vợ). Và cũng chính những câu thơ ấy đã giúp bà Lệ Thu đi qua những tháng ngày đơn độc, khi không còn hơi ấm của ông trên cõi đời.

Ngày tháng vốn vô tình. Dường như trong cuộc đời con người, chỉ có tình yêu là tiếng gọi mạnh mẽ và ấm áp nhất để mỗi người nương vào đó mà đi hết con đường của mình. Những người đàn bà đến trong cuộc đời của nhà thơ, họ đã sống không chỉ như những người đàn bà bình thường khác. Dường như trên vai họ, gánh nặng cuộc đời có phần nặng hơn, khi họ vừa phải làm tròn bổn phận của một người đàn bà, vừa phải gánh vác những vui buồn, có khi là cả đau đớn, mất mát của chồng- những mất mát, đau đớn mà chỉ những kẻ trót “nòi thi sĩ” mới hiểu được.

Những người đàn ông làm thơ vốn đã là “nhất kiêng” trong lời khuyên của cha mẹ dành cho con gái. Gắn bó với nhà thơ, nghĩa là người đàn bà đã tình nguyện buộc vào số phận mình ít nhiều trắc trở, éo le và cả những dở khóc dở cười thân phận mà chỉ có một tình yêu đủ lớn, đủ bao dung, đủ sâu sắc thì mới giúp họ cảm nhận dư vị của niềm vui, hạnh phúc. Và rồi, khi nhà thơ rời bỏ người đàn bà của mình để hóa vào cây cỏ, thì vẫn còn lại trên đời những dáng hình yêu dấu, là những người đàn bà đã quên mình vì yêu, và quan trọng hơn, vì thơ ca và cái đẹp vĩnh hằng…

Từ khóa » Khi đau đớn Phụ Nữ Im Lặng