Niệm Phật Luận - Chùa Hoằng Pháp

Ngôi chùa Hoằng Pháp uy linh Mái cong ngói đỏ đậm tình quê hương.
  1. Trang chủ
  2. Thư viện kinh sách
  3. Pháp Môn Tịnh Độ
Pháp Môn Tịnh Độ Niệm Phật Luận Niệm Phật Luận Tác giả: Đại Sư Thái Hư Mục lục
  • Nệm Phật Luận
  • Khai Thị Phật Thất
Xem thêm Nệm Phật Luận

Đại sư Liên Trì nói: Chuyên trì danh hiệu Phật A-di-đà, công đức hơn trì chú Vãng sinh; hơn cả trì bao nhiêu thần chú; hơn tất cả muôn công đức lành. Hơn trì chú vãng sinh: Trì chú Vãng sinh 30 vạn biến mới thấy Phật A-di-đà; còn trì danh hiệu Phật chỉ một ngày một đêm, Phật đã hiện ngay trước mắt. Thần chú nói: Ngày đêm sáu thời, mỗi thời đều tụng 21 biến, diệt được tội ngũ nghịch. Còn trì danh hiệu Phật, chỉ cần chí tâm niệm Phật một câu, tức khắc diệt được trọng tội sinh tử trong 80 ức kiếp. Hơn trì những thần chú khác: Chuyên trì danh hiệu Phật tức là Đại thần chú, Đại minh chú, Vô thượng chú, Vô đẳng đẳng chú. Khi lâm chung chỉ cần 10 niệm hiện tiền, tức được vãng sinh, vãng sinh tức không còn thối chuyển, oai linh không thể đo lường, chính là Đại thần chú vậy. Nhất tâm bất loạn, trừ hết vô minh, thấy được tự tính, chính là Đại minh chú vậy. Vãng sanh Cực lạc, rốt ráo thành Phật, chính là Vô thượng chú vậy. Chứng vô sinh nhẫn, trở lại Ta-bà độ khắp chúng sinh, chính là Vô đẳng đẳng chú vậy. Niệm Phật hơn muôn công đức khác: Lục độ vạn hạnh, pháp môn vô lượng. Chuyên trì danh hiệu, nhiếp hết lục độ vạn hạnh, pháp môn vô lượng; bởi tất cả không ngoài một tâm. Mong cho hết thảy những ai tu theo Tịnh nghiệp (pháp môn niệm Phật), đặt hết tâm tư vào tín nguyện ấy, không khởi hai lòng. Người xưa phần nhiều vốn dĩ tu nhiều pháp môn khác, còn đổi sang tu niệm Phật. Huống hồ là người thuần tu niệm Phật, há lại đi đổi pháp môn sao? Phật pháp bắt nguồn từ Ấn Độ, rồi được truyền sang Trung Quốc, và các nước khác trên thế giới. Mục đích ấy không ngoài khiến cho nhân loại giác ngộ tự tâm, li khổ đắc lạc. Bởi nghĩa Phật tức là “giác”, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn. Lại nữa Phật lấy từ bi làm căn bản, từ là cho vui, bi là cứu khổ. Sau khi đức Phật xuất thế, thuyết pháp 49 năm, chúng đệ tử kết tập lại, thành ba tạng 12 bộ kinh. Do chúng sanh căn tính bất đồng, cho nên sau khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, trong tam tạng 12 bộ kinh này, đại khái được phân thành năm tông lớn: Tông, Giáo, Luật, Minh, Tịnh. Năm tông này không phải đức Phật đặc ý chia ra. Trong kinh Phật không hề tìm thấy tông gì, phái gì cả. Chỉ vì thích hợp với căn tính chúng sinh, trong xu thế tự nhiên, người sau nối tiếp người đi trước, vì sở học của các tông mới lập nên năm tông lớn này. Thiền tông lấy giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật; Giáo tông dạy môn hạ ngộ trước tu sau, nhờ tu mà chứng; Luật tông thì chuyên trì giới luật Phật chế, trước chế ngự thân, sau đó mới dần dần đi vào nhiếp tâm. Nhờ nghiêm tịnh giới luật, mới có thể nhân giới sinh định, nhân định phát huệ; Mật tông thì chuyên trì chú, chú trọng hạng mục nên tam mật (thân mật, khẩu mật, ý mật) tương ưng. Nếu so sánh thì bốn tông này, ban đầu cũng hơi khó cho những người mới nhập môn; duy chỉ Tịnh độ tông đơn giản nhất, thẳng tắt nhất, chỉ cần kiên trì một câu “Nam mô A-di-đà Phật”, niệm đến nhất tâm bất loạn, tức khắc được Phật tiếp dẫn vãng sinh Cực lạc thế giới. Bất luận là lợi hay độn căn, tất cả đều được nhiếp thọ. Người tu pháp môn Tịnh độ, sự hành trì duy nhất là thành tâm niệm Phật. Nếu như có người hỏi: “Vì sao phải niệm Phật?”. Ta có thể giải thích trên tự nghĩa. Chữ “niệm” (念) là do chữ “kim” (今) và chữ “tâm” (心) hợp thành. Nếu chia ra thì nó là “kim tâm”; hợp lại thì nói là “niệm”. Chữ “Phật” là tiếng Ấn Độ, nói đầy đủ là “Phật-đà-gia”. Nói theo nghĩa Trung Quốc, nghĩa là “giác ngộ”, là rõ ràng. Niệm Phật là bổn phận của mọi người, cũng là bản năng của mọi người. Nghĩa của niệm Phật chính là cầu một niệm giác ngộ và sáng suốt hiện tiền. Một niệm có đầy đủ mười pháp giới, gọi là “mười đời cổ kim, không rời một niệm hiện tiền; cát bụi mười phương, bất li sợi lông đầu mút”. Nếu như phát được tâm niệm Phật, thì “một niệm niệm Phật, một niệm sáng suốt; niệm niệm niệm Phật; niệm niệm niệm sáng suốt”. Người ta ai mà không muốn giác ngộ? Ai mà không muốn sáng suốt? Nhưng rất tiếc người ta chỉ nói muốn giác ngộ, muốn sáng suốt đầu môi, nhưng quả thật trong họ tồn tại bao nhiêu thứ muốn hồ đồ. Vì trong lòng muốn hồ đồ, cho nên họ đã làm việc hồ đồ. Thế nào là muốn hồ đồ? Chính là ba nghiệp tham, sân, si. Thế nào là việc hồ đồ? Chính là ba nghiệp của thân - sát, đạo, dâm và bốn nghiệp của miệng - nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói thêu dệt, vọng ngữ. Do ba nghiệp thân, khẩu, ý bất tịnh, cho nên cả ngày sáu căn đối sáu trần, khởi phân biệt phải trái, tốt xấu, âm thanh màu sắc, tiền tài, lợi lộc, lo kế sinh nhai trên sở tri sở giác. Niệm Phật chính là trở lại với tự tính xưa nay, buông xuống những sở tri sở giác này, rời bỏ năng tri năng giác, khôi phục lại bổn tri bổn giác của mình. Khôi phục được bổn giác, tức khắc thành Phật. Thành Phật hoàn toàn không phải là sinh thêm một cái gì, mà là dụng công niệm Phật, niệm đến thành “phiến”, rửa sạch những thứ ô uế trong tâm, khi ô uế đã được rửa sạch, Phật tính cũng theo đó hiện bày. Tính của nhân loại xưa nay là giác ngộ, là sáng suốt, thể ấy biến khắp pháp giới. Chỉ vì vô thỉ mê muội, bị sáu trần che lấp, cho nên tri giác của nhân loại bị đẩy sang một phía, chỉ nhận thức được sắc thân tiểu ngã này, mà quên đi tính giác đại ngã đầy khắp hư không, biến khắp pháp giới. Không biết rằng cái thân thể này mà cho là “ngã” này, chính là thất đại địa, thủy, hỏa, phong, không, căn, thức giả hợp mà thành, nếu li tán nó ra, thì thân thể này không tồn tại được. Như: Da thịt gân cốt thuộc Địa đại; máu mủ, nước dãi thuộc Thủy đại; hơi ấm thuộc Hỏa đại; hơi thở vào ra thuộc Phong đại; những khoảng không trong ngoài cơ thể thuộc Không đại (nếu không có khoảng không con người sẽ bị ngột chết). Ngoài ra còn phải có sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thuộc căn đại. Trong mỗi căn phải có một thức, tức là sáu thức thuộc Thức đại. Nếu tách li bảy đại này ra, chắc chắn không có con người, vậy thì lấy đâu ra cái ngã? Nghĩa là cái ngã mà do thất đại giả hợp ấy, thực tế chỉ là cái bị da hôi thối, bên trong chứa đựng toàn là những thứ tanh tưởi, dơ dáy hôi thối. Ví dụ như lúc chúng ta đang ngồi nghe pháp đây, bỗng có một người ném một đãy phân vào cửa sổ. Ai cũng biết đó là bị phân hôi thối, thế là bịt mũi, la ó, xì xào, có người còn chạy xa hoặc ném nó ra ngoài. Kì thực mỗi người chúng ta ai cũng là đãy da hôi thối, cái bị da hôi thối của chúng ta đây, quả thật còn dơ dáy, thối tha hơn cả cái đãy phân được ví dụ trước. Bởi vì cái đãy phân ấy còn được buộc miệng, còn những đãy da của mỗi chúng ta trên dưới đều mở miệng, xú khí xông thẳng ra ngoài, gọi là “9 lỗ thường chảy ra những thứ bất tịnh”. Nhưng mọi người ai cũng cho cái đãy da hôi thối này là ta, lại còn yêu thương nó nhất nữa chứ! Trang điểm thế này, bồi dưỡng thế kia, dưới con mắt của Phật thì quả thật là quá ngu si điên đảo! Chúng ta phải biết, thân thể của chúng ta đây, ai cũng cho rằng nó là “ta”, thật sự nó chẳng phải là “ta”, mà chẳng qua nó là thứ vật sử dụng của ta. Trước chữ “ta”, ta nên cho chữ “của”, gọi là “của ta”. Bởi vì thân thể này thuộc về một bộ phận của ta, như một dụng cụ để dùng vậy, nếu muốn dùng nó thì dùng, không muốn dùng thì bỏ, không bị nó sai sử. Nếu không buông bỏ nó được thì bị nó dẫn dắt mất rồi. Thông thường đều cho rằng thân thể này là ta, ngoài ta là người khác, ta cùng rất nhiều người khác hợp lại thành chúng sinh. Mỗi chúng sinh ai cũng muốn sống thêm mấy năm, tương tục không ngừng như thế, chính là thọ giả. Kì thực những điều này đều là giả danh, giả tướng. Ví như “ta người” chính là đương đãi giả; (pháp đối đãi, nhờ người mà có ta; nhờ ta mà có người). “Chúng sinh chính là nhân thành giả” (giả mượn các nhân duyên mà thành). “Thọ giả” chính là tương tục giả. (Ta, người, chúng sanh tương tục không ngừng). Nếu tách những thứ này ra, ở đâu còn có thật ta nào? Vả lại ta lấy chủ tể làm nghĩa, cái ta sắc thân của mọi người đây, bản thân nó hoàn toàn không thể làm chủ tể. Ví như: lúc chúng ta đói, không ăn là không được; lúc khát chúng ta phải uống nước; lúc thọ mạng hết, chúng ta phải chết; thấy cái gì đẹp chúng ta ngó đi ngó lại nhiều lần; gặp ngũ dục chúng ta hưởng thụ. Điều này chứng minh đã mất đi cái nghĩa của chủ tể, không biết rằng những cái ăn, uống, hưởng thụ này thuộc về việc của sinh mạng. Sinh mạng thì có sinh, có diệt, con người ngoài sinh mạng ra, còn có tuệ mạng, nó vĩnh viễn không có sinh diệt. Cái gì là tuệ mạng vĩnh vô sinh diệt? Chính là cái tính tri giác của mỗi con người. Tính tri giác này tuy không hình tướng, nhưng nó đầy khắp hư không, biến khắp pháp giới, không nơi nào không có. Gọi là “trong không sinh đại giác, như bọt trong biển khơi”. Niệm Phật chính là nuôi lớn pháp thân tuệ mạng của mình, nương vào Phật lực, dựa vào tự lực, cầu sinh thế giới Tây phương Cực lạc, mở tri kiến Phật, khôi phục tính giác vốn có của mình. Các tổ sư như Trí Giả đại sư của tông Thiên Thai, thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, Ngẫu Ích đại sư, Triệt Ngộ thiền sư... cuối cùng cũng quay về Tịnh độ, chuyên tâm niệm Phật. Bởi vì tu những Tông khác, phần lớn căn khí không thích hợp, hoặc không gặp được minh sư tương ứng chỉ dẫn, để rồi đi lạc đường. Người niệm Phật chỉ cần đầy đủ tín nguyện hạnh, lão thật niệm Phật, đã nương vào Phật lực lại dựa vào tự lực, chắc chắn không bao giờ đi sai đường. Cho nên nói pháp môn niệm Phật là dễ nhất, thẳng tắt nhất. Các tông phái đều dựa vào tự lực, đoạn được “hoặc” mới chứng được “chân”, nói ra thì có vẻ dễ dàng, nhưng trên thực tế không có công phu tương đương không dễ gì làm nổi. Tu pháp môn Tịnh độ đặc biệt có một điểm là “đới nghiệp vãng sinh”. Sau khi đến thế giới Cực lạc rồi, nương vào sức mạnh của Phật A- di-đà và Quán Âm, Thế Chí, và chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ, cùng nhau huân tu. Dần dần có thể tình không nghiệp tận, từ Phàm Thánh Đồng Cư Độ đến Phương Tiện Hữu Dư Độ, từ Phương Tiện Hữu Dư Độ đến Phật Báo Trang Nghiêm, từ Thật Báo Trang Nghiêm Độ thẳng đến Thường Tịch Quang Tịnh Độ được thấy chân thân Phật. Ở đây chỉ là những người căn tính chậm lụt thôi, nếu là bậc căn tính thượng thừa thì bất luận sinh vào Phật độ nào cũng đều thấy được bốn Phật độ kia. Lợi ích của việc niệm Phật phát nguyện cầu sinh Tịnh độ, là chỉ cần sinh lên Tây phương Cực lạc thế giới rồi thì vĩnh viễn không bị đọa lạc, không còn tạo nghiệp nữa. Tự mình có thể gia công tinh tấn tu tập, mãi cho đến khi thành Phật độ chúng mới thôi. Tất nhiên tu các tông khác cũng tốt, không ai được phép hủy báng. Nhưng chỉ có điều nếu như không tu đến cứu cánh rốt ráo, thì vẫn phải đọa lạc luân hồi trong ba cõi. Như ngày xưa ba vị Bồ-tát Vô Trước, Thế Thân và Sư Tử Giác, cùng phát nguyện tu Duy Thức quán, để sinh lên cõi Đâu Xuất nội viện bái kiến Bồ-tát Di Lặc. Họ hứa với nhau nếu ai đi tới trước thì khi đến nơi rồi, phải trở lại báo mộng. Sau đó Sư Tử Giác viên tịch trước, đi liền ba năm không thấy trở lại. Ba năm sau Thế Thân viên tịch, lúc lâm chung ngài Vô Trước dặn rằng: - Huynh lên cõi trời, khi gặp Bồ-tát Di Lặc rồi, bất luận thế nào cũng phải trở lại báo tin đấy! Rồi Thế Thân đi, ba năm sau mới trở lại. Vô Trước hỏi: - Sao huynh giờ này mới trở lại, đã ba năm rồi? Thế Thân nói: - Tôi đến Đầu Xuất nội viện, nghe Bồ-tát Di Lặc thuyết một thời pháp, bái ba bái, nhiễu một vòng là quay trở lại ngay. Bởi vì ở đó ngày đêm dài, chỉ cần một chút là ở nhân gian đã ba năm. Vô Trước lại hỏi: - Sư Tử Giác bây giờ ở đâu? Vì sao không trở lại báo mộng? Thế Thân nói: - Huynh ấy sinh thiên đi ngang qua Đầu Xuất ngoại viện thì đã bị ngũ dục mê hoặc, đến bây giờ vẫn còn chưa gặp được Bồ-tát Di Lặc. Sau khi Vô Trước nghe nói sinh thiên rất nguy hiểm, bèn đổi phát nguyện, không nguyện sinh thiên nữa, nguyện sinh sang Tây phương Cực lạc (xem tịnh Độ Thập Nghi Luận của Trí Giả đại sư), xin hãy suy nghĩ: Sư Tử Giác đã ở vào ngôi vị Đại thừa Bồ-tát mà còn bị ngũ dục cõi trời mê hoặc, đây là việc nguy hiểm biết bao! Nếu như tu công phu thiền định, không vượt qua khỏi Tam giới, thì cho dù đến được cõi trời nào đi nữa, sau khi hưởng phước báo cõi trời, cũng phải theo nghiệp thọ báo, đọa lạc như thường. Như Tì- kheo Vô Văn trong kinh Lăng Nghiêm nói là ví dụ chứng minh. Nhưng người niệm Phật thì không có điều nguy hiểm này. Chẳng phải có hai câu nói thế này sao: “Cho dù tu đến Phi Phi Tưởng, chẳng bằng Tây phương một nẻo về”. Điều này có nghĩa nói, sinh lên cõi trời Phi Phi Tưởng của Tứ Không, khi thọ mạng hết, phước báo cạn cũng phải đọa lạc trong sáu đường, không bằng sinh lên thế giới Cực lạc. Trong đài hoa sen chín phẩm, cho dù sinh vào hạ hạ phẩm, vẫn có thể từ từ chứng lên thượng thượng phẩm, hơn sinh lên cõi trời Phi Phi Tưởng nhiều. Trong thời kì niệm Phật, mỗi khi bắt đầu nên tụng “kinh Di-đà” trước, lúc công khóa buổi tối, cũng nên tụng “kinh Di-đà”, tụng một biến, là đã huân được trong tâm một biến y chính báo trang nghiêm của cõi Tây phương Cực lạc, khiến cho trong quán tưởng, thành một quán niệm về thế giới Tây phương Cực lạc. Cũng giống như một bộ phim, tụng một biến, bằng với chiếu một lần bộ phim Tây phương Cực lạc trên tấm màn tâm. Dần dà, những gì mà sáu căn tiếp xúc, chỉ là cảnh giới tối thắng, diệu tướng trang nghiêm của Tây phương Cực lạc. Hiện thời tuy còn chưa sinh lên Tây phương Cực lạc, nhưng trong lòng sớm đã chứa đầy những cảnh giới Tây phương Cực lạc. Ý thức của chúng ta vô hình trung đã chìm ngập trong bầu không khí diệu tướng trang nghiêm, tương lai khi mạng chung, những nghiệp lành được huân tập hiện tiền, những thánh hiệu A-di-đà Phật, chư thánh chúng được trì tụng hàng ngày, đến lúc ấy sẽ hiện thân để đón tiếp chúng ta. Những cảnh thanh tịnh tối diệu của thế giới Tây phương mà thường ngày chúng ta hướng về, chỉ trong khoảng tích tắc cũng hiện ngay ra trước mắt. Gọi là “tự tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ”. Chúng sinh chính là Phật, Phật chính là chúng sinh, tất cả đều là tính phần sở cụ. Tâm tức là độ (cõi); độ tức là tâm, tất cả đều là duy tâm sở hiện, chỉ xem người niệm Phật công phu thế nào? Nếu tín, nguyện, hạnh kiên cố, tự tính và Phật tính đã thành một phiến, thì ngay lúc ấy tự tính tức là Phật tính; Phật tính tức là tự tính. Phật đầy đủ vô lượng thọ, chúng sinh cũng đầy đủ vô lượng thọ. Phật đầy đủ vô lượng quang; chúng sinh cũng đầy đủ vô lượng quang. Phật A-di-đà có y, chính báo, tướng hảo trang nghiêm của Tây phương Cực lạc; chúng sinh cũng có y, chính báo, tướng hảo trang nghiêm của Tây phương Cực lạc. Trong kinh A-di-đà nói: “Tất cả đều là Phật A-di-đà muốn khiến cho pháp âm lưu truyền nên biến hóa ra”. Từ trong câu kinh này, có thể chứng minh được rằng các cảnh giới của thế giới Cực lạc đều theo nghiệp tướng phước đức, duy tâm sở hiện của Phật A-di-đà. Nếu như Phật A-di-đà hiển hiện được như thế thì tính chúng sinh và tính Phật đồng nhau, vậy thì vì sao chúng sinh không hiển hiện như thế được? Cho nên nói trên tự tính chính là Di-đà, trên duy tâm chính là Tịnh độ. Trên tính phần hoàn toàn không thể vạch ra được đâu là biên giới của chúng sinh, đâu là biên giới của Phật; trên Tịnh độ cũng không chỉ ra được đâu là duy tâm, đâu là phi tâm. Di-đà Tây phương và Di-đà tự tính, Tịnh độ Tây phương và Tịnh độ duy tâm đều chỉ là một. Nhưng nếu muốn hiểu rõ cái gọi là “duy tâm”, hoàn toàn không phải là nói cái vọng tâm sáu trần duyên ảnh ở trong khoang ngực của mỗi người, mà là nói “pháp pháp duy tâm”. Cái tự tính mà như đã nói, cũng không phải nói cái tập tính tứ đại giả hợp trên thân thể con người, mà là tự tánh vốn có của chúng sinh kia. Người niệm Phật mỗi ngày tụng kinh Di- đà, phải hiểu rõ điểm này, vững chắc niềm tin của mình. Kinh A-di-đà không ai hỏi mà tự thân đức Phật Thích-ca nói ra, trong kinh nói y chính báo trang nghiêm của Tây phương Cực lạc và niệm Phật sinh Tây phương. Cùng nghĩa với kinh Pháp Hoa cũng không ai hỏi mà đức Phật tự nói với Xá-lợi-phất. Sau khi Phật nói qua Vô Lượng Nghĩa kinh, bèn nhập vào Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm bất động, phóng hào quang giữa chặn chân mày, chiếu một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, xuất hiện đủ các đoan tướng, khiến cho đại chúng nghe kinh khởi biết bao nhiêu nghi nan. Sau khi Bồ-tát Di Lặc và Bồ-tát Văn Thù giải thích cho đại chúng, Phật liền ra khỏi tam-muội, không ai thỉnh vấn, Phật nhìn Xá-lợi-phất nói: “Trí tuệ của chư Phật, rất sâu không thể đo lường. Cửa trí tuệ ấy khó hiểu, khó vào, tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật đều không thể biết (......) thành tựu rất sâu pháp chưa từng có (......). Nói tóm lại, vô lượng vô biên pháp chưa từng có, Phật đều thành tựu”. Tôi thường nói: “Kinh Pháp Hoa chính là kinh Di-đà nói rộng, kinh Di-đà chính là kinh Pháp Hoa lược thuyết”. Lời hai bộ kinh này đều toàn sự tức lí, hoàn toàn không giống với các kinh khác, nói rất nhiều danh từ pháp tướng để chúng sinh ngộ lí tu hành. Những gì trong hai bộ kinh ấy nói đều là lấy tâm hiện lượng quán cảnh hiện lượng. Nếu mọi người nghiên cứu cặn kẽ hai bộ kinh “Pháp Hoa” và “Di-đà”, thông tỏ văn nghĩa bên trong, nên khi đối chiếu tức rõ ràng ngay. Kinh Pháp Hoa tổng cộng có bảy quyển 28 phẩm. Mười bốn phẩm đầu là khai quyền hiển thực, mười bốn phẩm sau là khai cận hiển viễn, tất cả đều là nói pháp tối thượng thừa. Ví dụ như trong kinh Di-đà nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, khi nghe kinh Di-đà này rồi, liền niệm danh hiệu Phật, bằng một ngày, hai ngày... cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn. Thì người ấy khi mạng sắp chung, được Phật A-di-đà và các thánh chúng, hiện ngay trước mặt. Người ấy khi chết tâm không điên đảo, được vãng sinh ngay về thế giới Cực lạc của Phật A-di-đà”. Kinh Pháp Hoa phẩm Dược Vương Bổn Sự thứ 23 nói: “Nếu nghe kinh này rồi, hành giả theo đó tu trì, đến khi mệnh chung, tất được vãng sinh về thế giới An lạc. Được đức Phật A-di-đà cùng chư đại Bồ-tát vây nhiễu chung quanh, sinh trong hoa sen, trên ngôi bảo tọa”. Ý nghĩa như nhau. Trong kinh A-di-đà nói những quốc độ trang nghiêm thọ mạng của Phật, ánh sáng của Phật, cho đến sáu phương Phật chư Phật hộ niệm... tuy văn từ có quảng lược không giống với kinh Pháp Hoa, nhưng cảnh giới và ý nghĩa thì không khác. Cho nên một câu “A-di-đà Phật” là pháp tối thượng thừa, bao hàm vô lượng pháp môn. Một câu “A-di-đà Phật” niệm đến tương ưng thì ngay lúc ấy được sáu căn “thanh tịnh”. Ví dụ: Nay đang trong thời kì niệm Phật, mắt luôn nhìn Phật, thì tức là nhãn căn thanh tịnh; tai nghe tiếng mình và tiếng đại chúng niệm Phật, tức là nhĩ căn thanh tịnh; mũi ngửi mùi hương trầm, chính là tỉ căn thanh tịnh; lưỡi đưa lên hạ xuống niệm Phật, tức là thiệt căn thanh tịnh; thân thể ở trong đạo tràng thanh tịnh, ngày nào cũng lạy Phật, chính là thân thanh tịnh; niệm Phật, lạy Phật, trong tâm tưởng nhớ Phật, chính là ý căn thanh tịnh. Sáu căn thanh tịnh thì ba nghiệp thanh tịnh; ba nghiệp thanh tịnh thì thân không sát sinh, trộm cắp, tà dâm; miệng không nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thêu dệt, nói lời ác độc; ý không khởi tham lam, sân hận, si mê, ngay đó tức là mười nghiệp lành. Cái mà người tu hành khó đối trị nhất là ba nghiệp thân, khẩu, ý. Nhưng một câu “A-di-đà Phật” này, lại thu nhiếp được ba nghiệp. Dần dà quán niệm thành thục, nhân Tịnh độ tăng trưởng, đến khi lâm chung chắc chắn vãng sanh Cực lạc thế giới. Bình thường người ta cho rằng thành Phật là việc khó làm. Thật ra không khó! Sự thành tựu của Phật và chúng sinh như nhau, đều cùng một quán niệm công phu. Một niệm của Phật đầy đủ mười pháp giới; một niệm của chúng sinh cũng đầy đủ mười pháp giới. Nếu một niệm tham khởi lên, thì là ngạ quỷ; một niệm sân khởi lên, thì là địa ngục; khởi niệm si lên, thì là súc sinh; một niệm nghi mạn khởi lên, thì là a-tu-la. Nghĩ đến ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) ngũ giới thì chuyển sinh làm thân người. Một niệm rơi vào thượng phẩm thập thiện, thì sinh lên cõi trời; nếu lấy Tứ Đế làm quán niệm, thì là Thanh văn; lấy mười hai nhân duyên làm quán niệm, thì là Duyên giác; lấy Lục độ làm quán niệm, thì là Bồ-tát; lấy tự lợi lợi tha, vạn hạnh bình đẳng làm quán niệm, thì là Phật. Lại nữa, nhân gian mỗi người cũng có một quán niệm. Như: sĩ, nông, công, thương, quân, chính, cảnh, học, ban đầu đều do quán niệm mà thành. Quán niệm cái gì thì mình trở thành cái ấy. Người niệm Phật cũng như vậy, mỗi ngày mắt nhìn Phật, miệng niệm Phật, thân lạy Phật, tâm nhớ nghĩ Phật, tai nghe tiếng Phật, giờ phút nào cũng lấy vãng sinh Cực lạc thế giới làm quán niệm, như vậy đến rốt cùng, chắc chắn được vãng sinh Tây phương thế giới, cũng chắc chắn được thành Phật. Ở trên tôi đã từng nói, trong xu thế tự nhiên của người Trung Quốc, người sau đã chia thành bao nhiêu tông phái? Như: Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Pháp Tướng tông (cũng gọi Từ Ân tông hay Duy Thức tông), Tịnh Độ tông, Chân Ngôn tông, Thiền tông, Luật tông... đây đều là đời sau vì sự quan hệ truyền thừa và sự chuyên môn học tập mới kiến lập nên. Trong những tông phái này, chỉ có Tịnh Độ tông và Luật tông, còn lại những tông phái khác tất cả đều rất đơn thuần, sự hành trì và giáo nghĩa của Tịnh Độ tông và Luật tông thấm sâu vào các tông phái khác, làm sở cộng hữu cho các tông phái khác, mà lại làm sở cộng học cho bảy chúng đệ tử của Phật. Ví dụ như Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Tam Luận tông, Pháp Tướng tông... phán giáo của các tông bất đồng, sự tu quán của các tông cũng khác. Nhưng nói tóm gọn, đều có thể lấy tu Tịnh độ làm phương tiện tối thắng, đều có thể niệm Phật thành Phật. Nghĩa là Thiền tông cũng phải tham “niệm Phật là ai?” Bất luận là xuất gia hay tại gia, và cũng bất luận là động cơ nào thúc đẩy họ học Phật? Nhưng mục tiêu của họ, không ngoài niệm Phật thành Phật. Đồng thời cũng trong quá trình niệm Phật thành Phật này, tất cả đều phải cùng tuân thủ những giới luật thanh tịnh của Phật. Ví dụ: Các đại tòng lâm ở miền Nam miền Bắc Trung Quốc, bất luận là họ ở tông phái nào, lúc lên chính điện nhiễu Phật, đều niệm “nam mô A-di-đà Phật”, mở miệng nói hoặc trả lời đều bắt đầu bằng câu “nam mô A-di-đà Phật”, đương nhiên mục đích chung cùng nhất của họ không ngoài sinh lên Tây phương Cực lạc thấy Phật thành Phật. Từ đó có thể thấy được rằng pháp môn niệm Phật phương tiện mà lại phổ biến biết bao. Giới luật của Phật cũng là một việc khẩn yếu nhất, Phật pháp có được hưng thịnh hay không, đều ở những người sau có tuân giữ giới luật hay không? Nếu mọi người đều tuân thủ giới luật của Phật, thì Phật pháp có thể trụ lâu ở đời, nếu không như thế, Phật pháp cũng theo thời đại mà hủy diệt. Lúc Phật còn tại thế, ở đâu ngài cũng lấy thân mình làm mô phạm, mọi người đều tôn Phật là thầy. Sau khi Phật diệt độ, mọi người đều lấy giới làm thầy. Khi Phật sắp nhập diệt, bốn chúng đệ tử vì thỉnh Phật trụ thế, đã nhiễu quanh thân Phật, ôm đầu kêu khóc. Lúc ấy tôn giả A-na-luật, trong sự đau khổ khôn cùng, đã nghĩ ra rằng: Lúc Phật còn tại thế, mọi người đều lấy Phật làm chỗ nương tựa. Từ nay về sau, Phật diệt độ rồi, muốn cho Phật pháp trụ lâu ở đời, có mấy việc cần phải nhân Phật còn tại thế thưa hỏi cho rõ ràng. Lúc ấy tôn giả A-nan cũng đứng bên Phật ôm mặt khóc lóc, bởi thầy là thị giả của Phật, là người chuyên giữ Phật pháp, mỗi lần Phật thuyết pháp, thầy luôn là người ở bên cạnh. Do đó tôn giả A-na-luật bảo A-nan hỏi Phật bốn việc. Hai việc đầu tiên là: Thứ nhất, lúc Phật còn tại thế, mọi người đều nương tựa vào Phật, vậy sau khi Phật diệt độ rồi biết nương tựa vào ai? Thứ hai, Phật còn tại thế mọi người đều lấy Phật làm thầy, sau khi Phật diệt độ nên lấy ai làm thầy?” Phật đáp: “Sau khi ta diệt độ hãy nương tựa vào Tứ Niệm Xứ, lấy giới làm thầy”. Từ đó có thể thấy được rằng đối với hậu thế, giới luật quan trọng như thế nào. Phàm là đệ tử của Phật, đều phải tuân thủ giới luật, tuy không hoàn toàn trọn vẹn, nhưng cũng phải kiểm túc luôn luôn, giữ bao nhiêu đỡ bấy nhiêu, giữ vẫn luôn hơn không giữ. Các đại tùng lâm ở Nam Bắc Trung Quốc mỗi nơi đều có qui củ riêng, có gia phong riêng. Những qui củ, gia phong này, chính là những giới luật mọi người cùng nhau tuân thủ. Thử hỏi một ngôi chùa nào, am viện nào không có qui củ? Nghĩa là những việc đi lại, đãi nhân tiếp vật hằng ngày của mọi người, cũng đều có giới hạn và tiết chế nhất định, có thể thấy niệm Phật và giữ giới khẩn yếu như nhau. Đại sư Hoằng Nhất của Luật tông, hiện là người duy nhất chuyên hoằng luật, nhưng thầy lại luôn nhất tâm nhất ý niệm Phật, gặp ai cũng khuyên niệm Phật. Ngoài ra như Pháp sư Đế Nhàn, Hòa thượng Hư Vân... cũng đều chú trọng niệm Phật. Gọi là “Giáo diễn bổn tông, tu hành Tịnh độ”. Nói một cách phổ biến, Phật có bảy chúng đệ tử: 1/ Tì-kheo Tăng, là nam giới xuất gia thọ Cụ túc giới. 2/ Tì-kheo Ni, là nữ giới xuất gia thọ Cụ túc giới. 3/ Thức-xoa-ma-na, dịch là nữ học pháp, tức là Sa-di-ni sắp thọ Cụ túc giới. Giữa khoảng thời gian từ tuổi 18 đến 20, riêng học sáu pháp (không tà dâm, không trộm cắp, không sát sinh, không nói dối, không uống rượu, không ăn phi thời). Sau đó được thọ Cụ túc làm Tì-kheo Ni. 4/ Sa-di, là nam giới xuất gia thọ mười giới. 5/ Sa-di-ni, là nữ giới xuất gia thọ mười giới. 6/ Ưu-bà-tắc, là nam giới tại gia cận sự Tam Bảo. 7/ Ưu-bà-di, là nữ giới tại gia cận sự Tam Bảo. Người niệm Phật tại gia, trước tiên nên quy y Tam Bảo, vâng giữ năm giới. Tam bảo là gì? Tức là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.“Phật”, như hiện tại đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáo chủ của thế giới Ta-bà, cho đến chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai. “Pháp”, nghĩa là qui tắc, là những lời dạy của chư Phật. “Tăng”, nghĩa là truyền giữ, nối dòng giống Phật pháp, là người làm mô phạm cho người sau. Trong Tam bảo có tự tính Tam bảo, biệt tướng Tam bảo, trụ trì Tam bảo. Tự tính Tam bảo chúng sinh vốn có đủ, không phải hướng ngoại tìm cầu mà được. Như: Cái Linh Minh Giác Chiếu của mình là Phật bảo; Tịch Thường Viên Tịnh là Pháp bảo; Dung Hòa Diệu Lạc là Tăng bảo. Biệt tướng Tam bảo là gì? Nghĩa là ba bảo này, mỗi người đều có sự khác nhau về nhân, pháp, quả, tính, tướng, thể, dụng. Như diệu giác và thân ba của Phật đều gọi là Phật. Chân như lí thể và tất cả pháp môn phương tiện, đều gọi là Pháp; năm mươi vị hiền thánh đều gọi là Tăng. Trụ trì Tam bảo là gì? Nghĩa là ba bảo này trụ trì ở đời, truyền giữ làm cho Phật pháp không bị tiêu diệt, làm chỗ nương tựa cho hết thảy chúng sinh ở thế gian. Ví dụ: Những hình tượng, Xá-lợi Phật mà chúng ta thấy, chính là Phật bảo; kinh luật luận là Pháp bảo; đồ chúng xuất gia, truyền giữ sự nghiệp lợi sinh của Phật, là Tăng bảo. Chúng ta nên biết, quy y Tam bảo, không phải là quy y Tam bảo nào khác, mà phải quy y Tam bảo vốn đủ tự tính của mình. Phật là giác, mọi người đều có giác tính. Cho nên, qui y Phật chính là qui y giác tính của mình, mọi người đều có thể hiển lộ diệu lí vô cùng từ trong tính giác. Qui y Pháp, chính là qui y chân như diệu lí vốn có của chính mình, ai cũng có thể phát huy diệu lí không ngừng từ trong chân tính. Qui y Tăng, chính là qui y diệu tính dung hòa giác pháp liên tục của chính mình. Hoàn toàn không giống như những tôn giáo khác, chỉ có thần mới được làm thần, còn con người thì không mãi chỉ là con người, không thể tiến lên ngôi vị thần thánh. Con người vĩnh viễn chỉ làm nô lệ cho thần thánh, điều này thật bất công! Phật pháp chú trọng “các pháp bình đẳng, không có pháp cao thấp”. Ai cũng có giác tính, ai cũng có thể niệm Phật thành Phật. Tuy thông thường nói lúc qui y, là qui y trụ trì Tam bảo hiện tại, nhưng đó chỉ làm hướng dẫn cho người, chủ yếu là khiến cho người qui y Tam bảo tự tính. Đến như rốt ráo thành Phật cũng tuyệt nhiên không làm nô lệ cho bất cứ một vị Phật nào. Người niệm Phật nên hiểu việc này, thành Phật tuyệt đối không phải là việc người khác có thể làm thay, cũng tuyệt đối không phải cái người khác mua cho được, phải chính mình niệm Phật thành Phật trong tự tính. Ngoài Tam qui ra, phải nên tuân thủ triệt để năm giới, để làm trợ hạnh niệm Phật. Năm giới là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Không sát sinh chính là nhân; không trộm cắp chính là nghĩa; không tà dâm chính là lễ; không nói dối chính là tín; không uống rượu chính là trí. Vâng giữ năm giới là đã làm được ngũ thường của thế gian. Bởi vì điều thế gian cần nhất chính là lòng nhân ái, chứ không phải là lòng ác độc; là đạo nghĩa chứ không phải là cường bạo; là sự khiêm nhường chứ không phải là tà khúc; là sự thành thật chứ không phải là sự dối trá; là lí trí chứ không phải là ngu si. Người niệm Phật giữ năm giới, có thể nuôi lớn nhân ái, đạo nghĩa, khiêm nhường, thành thật, lí trí, đã làm được chính nhân quân tử trong xã hội, lại có thể làm tư lương Tịnh độ. Ngoài tam qui ngũ giới ra, đối với Tứ niệm xứ và Bát chánh đạo trong 37 phẩm trợ đạo cũng nên thường quán niệm. Tứ niệm xứ là gì? 1. Quán thân bất tịnh: Ví dụ như một người lai xứ bất tịnh (từ âm đạo xuất ra), khứ xứ bất tịnh (khi chết sình lầy máu mủ), chủng tử bất tịnh (tinh cha huyết mẹ), nội ngoại bất tịnh (nội là máu mủ, xương cốt bên trong...; ngoại là tóc tai, răng móng bên ngoài), cứu cánh bất tịnh (tất cả đều bất tịnh). 2. Quán thọ thị khổ: Nói đại khái khổ có tám loại: khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ thương yêu mà lại phải xa lìa, khổ oán ghét mà lại phải sống chung, khổ mong cầu không được như ý, khổ năm ấm xung đột lẫn nhau. Còn nói vi tế hơn thì có vô lượng khổ. Ví dụ như một người trong gia đình cũng như trong xã hội, chẳng ai không có bực dọc, cau có. Gọi là “mười việc hết chín không như ý”, những việc không như ý này, luôn làm cho ta khổ não. 3. Quán tâm vô thường: Tâm niệm sinh diệt trong từng sát-na, không một chút dừng nghỉ. 4. Quán pháp vô ngã: Tất cả các pháp đều giả danh, giả tướng, không phải chân ngã. Nói một cách đơn giản, đây chính là Tứ niệm xứ. Thường quán niệm như thế, cũng củng cố được niềm tin niệm Phật của mình. Bát Chính Đạo là gì? Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chính định. Chính kiến là không có tà tri tà kiến, không chỉ thế, cái không nên nhìn thì không nhìn, để tránh ô nhiễm cho con mắt của mình. Chính tư duy là những việc không đáng suy nghĩ thì không nên để tâm, để tránh ô nhiễm tâm thuần khiết của mình. Chính ngữ là điều không đáng nói không nên nói, để tránh ô nhiễm cái miệng của mình. Chính nghiệp là những hành nghiệp chánh đáng. Ví dụ: Người niệm Phật và những người chuyên làm công tác từ thiện, làm bác sĩ, chữa bệnh cho người, bệnh thì chữa lành, chết cứu sống lại, đây là một hành nghiệp. Rồi mở tiệm buôn bán áo quần, giết trâu bò, heo gà cũng là một hành nghiệp. Gọi là “thợ làm tên chỉ sợ tên mình không giết được người, thợ làm áo giáp thì lại sợ áo giáp mình không chống được tên”. Đồng là hành nghiệp, nhưng phải tìm những công việc chính đáng, tích tập phước đức mà làm, đừng làm những công việc bất chính. Chính tinh tấn có quan hệ với Chính nghiệp, ví dụ: Những người làm các hành nghiệp như đã nói trên, cùng tinh tấn như nhau, nhưng một loại thì tinh tấn trên con đường giải thoát thành Phật; một loại thì tinh tấn trên con đường đọa lạc. Còn người niệm Phật, nửa đêm mới ngủ canh năm đã dậy, tinh tấn dõng mãnh, thì đây là luôn tinh tấn trên con đường thành Phật. Cho nên Chính tinh tấn và tà tinh tấn khác nhau. Chữ “niệm” của Chính niệm, chính là ý niệm của con người. Lúc tâm ý con người vừa muốn phát khởi nhưng chưa khởi phát, thì gọi là ý niệm Chính niệm chính là cái tâm mà bất cứ chỗ nào, nơi đâu cũng lấy tâm lành, tâm tốt làm điểm phát khởi, không có một hào tơ tà khúc. Chính định là giác sát những việc chính đáng, nghĩa là làm một cách nhất tâm nhất ý. Những việc chính đáng là những việc gì? Như: Niệm Phật là việc chính đáng, niệm Phật một cách nhất tâm nhất ý, niệm đến nhất tâm bất loạn, nhập vào niệm Phật tam-muội, đây chính là thuộc về chính định. Chính mạng là lấy những việc chính đáng như đã nói trên để kiểm điểm thân, khẩu, ý của mình. Từ đầu đến cuối lấy ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh thuận chính pháp để mưu sinh, quyết không làm những việc tà vạy. Giải thích Bát chánh đạo như thế chỉ ứng hợp với những người sơ cơ tin Phật, còn như giải thích một cách sâu sắc thì quả thật không đơn giản như vậy. Người niệm Phật ngoài nhất tâm nhất ý, nếu còn sợ thân tâm phóng dật hoặc tín, nguyện, hạnh không kiên cố, có thể dùng Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo để kiểm thúc thân tâm của mình. Còn như cách niệm Phật thì nên theo căn tính của mình mà chọn lựa cho thích hợp. Đại thể không ngoài trì danh niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, thật tướng niệm Phật. Còn có một cách dễ là hít vào niệm một câu “Nam mô A-di-đà Phật”, thở ra niệm một câu “Nam mô A-di-đà Phật”, lâu ngày chày tháng, thời khắc nào cũng như vậy, đi, đứng, nằm, ngồi không rời một câu Nam mô A-di-đà Phật, như vậy mới được coi là chân tinh tấn. Trong lúc sắp mạng chung, lúc hơi thở cuối cùng sắp dứt thì hành nghiệp cũng theo tiếng niệm Phật của hơi thở sau cùng, vãng sinh nước Cực lạc thấy Phật A-di-đà. Về vấn đề niệm Phật được vãng sinh, thì những người xuất gia tại gia, trẻ già lớn bé, lúc sắp mạng chung những tướng lành hiện ra, những ví dụ như thế nói không thể hết. Sau khi tôi xuất gia, chính mắt tôi đã trông thấy có hơn 20 vị như thế, còn nghe nói thì nhiều lắm. Để giúp mọi người phát khởi tín tâm, tôi sẽ kể ra ba vị chính mắt tôi trông thấy. Một vị Pháp sư Tu Vô, người Doanh Khẩu, xuất thân từ thợ làm đồ gốm. Do hoàn cảnh khó khăn, làm ăn vất vả, ngộ được thế gian này khổ nhiều vui ít, nên đã nhiều lần nghĩ cách thoát khổ. Được người ta bày nên niệm Phật, thế là thầy quyết tâm niệm Phật. Sau khi xuất gia, chính thức được nghe Phật pháp, tâm niệm Phật càng khẩn thiết hơn, gặp ai cũng khuyên họ niệm Phật. Năm Dân Quốc thứ 18 (1928), tôi thỉnh Pháp sư Đế Nhàn ở chùa Cực Lạc, Cáp Nhĩ Tân đi truyền giới. Một hôm nọ, có một người tìm tôi nói: - Có thầy Tu Vô ở Doanh Khẩu đến, muốn hành khổ hạnh trong thời kì truyền giới này. Sau đó dẫn đến gặp tôi. Tôi hỏi thầy ấy làm được việc gì? Thầy ấy nói: - Con phát tâm chăm sóc bệnh nhân. Ở được mười mấy ngày thì thầy lại tìm gặp tôi nói: - Con muốn đi. Pháp sư Định Tây ở bên cạnh nói: - Thầy phát tâm đến chăm sóc bệnh nhân, sao mới ở được mười mấy ngày đã đòi đi? Thay đổi nhanh thế! Thầy Tu Vô nói: - Không phải con đi đâu khác, tôi muốn vãng sinh. Xin thầy Giám viện từ bi, chuẩn bị cho mấy bó củi để hỏa thiêu. Pháp sư Định Tây hỏi: - Lúc nào thì thầy đi? Thầy Tu Vô nói: - Nội trong vòng mười mấy ngày này! Sau khi thầy nói xong lời đó, lặng lẽ quay trở vào phòng. Hôm sau lại đi tìm tôi và Pháp sư Định Tây nói: - Xin cáo từ, hôm nay con đi, xin tìm cho con một căn phòng, và tìm cho mấy người để hộ niệm tiễn đưa. Pháp sư Định Tây y lời, quét dọn sạch sẽ một căn phòng trong nội viện, đóng một chiếc sàng, rồi gọi mấy thầy đến niệm Phật trợ niệm. Trước khi thầy vãng sinh, những người hộ niệm nói: - Thầy Tu Vô! Trước khi về nước Phật, xin thầy làm mấy câu thơ hoặc mấy câu kệ làm kỉ niệm. Thầy Tu Vô nói: - Tôi xuất thân từ dân lao động nghèo, ngu dốt lắm, không biết làm thơ hay kệ gì cả. Nhưng tôi có một kinh nghiệm có thể nói cho chư vị, đó là “nói mà không làm được, không phải là chân trí tuệ”. Mọi người nghe nói, đều cho rằng rất thực tế, thế là mọi người đồng thanh niệm Phật, thầy Tu Vô ngồi kiết-già quay mặt về hướng Tây, và cùng niệm Phật với mọi người, niệm chưa được mười lăm phút thì vãng sinh. Mấy thầy đóng tạm chiếc khám thờ, đến chiều an tòa vị. Tuy trời rất nóng, nhưng khuôn mặt tươi đẹp dị thường, thân không phát ra mùi hôi hay ruồi nhặng gì cả. Pháp sư Đế Nhàn và mọi người cùng nhau đi xem, đều khen là hi hữu. Sau đó, lúc hỏa thiêu, không hề nghe mùi khét. Sau cư sĩ Phan Đối Thù nghe việc này, bèn viết một cuốn sách về sự tích niệm Phật lúc bình sinh của Tu Vô, ấn tống cho mọi người xem, cho rằng thầy là mô phạm tốt trong Tăng thân. Vị thứ hai là cư sĩ Trịnh Tích Tân, người Tức Mặc, Sơn Đông, làm nghề buôn bán. Nhân đọc kinh Phật, thấy pháp môn niệm Phật hay nên phát tâm niệm Phật, ở giá không lập gia đình. Lúc ở Thanh Đảo (1993), tôi nói cho cư sĩ biết lợi ích của việc qui y và niệm Phật, nên cư sĩ niệm Phật càng khẩn thiết hơn. Mọi việc đều giao hết cho em trai, cư sĩ chỉ chuyên tâm niệm Phật. Sau đó, cư sĩ luyện tập giảng được kinh “A-di-đà”. Mỗi năm phải từ Tức Mặc đến Thanh Đảo ở một hai ngày, đến huyện Bình Độ giảng kinh mấy lần cho thiện hữu tri thức. Năm 1935 cư sĩ có mời tôi đến huyện Bình Độ giảng kinh một lần. Mùa xuân năm 1939, cư sĩ lại còn đến huyện Bình Độ giảng kinh. Được hơn hai tuần, một người ở huyện Bình Độ đến nói với tôi: - Thưa Pháp sư, thầy có biết không, cư sĩ Trịnh Tĩnh Phát đã vãng sanh rồi! Tôi nghe ngạc nhiên quá nói: - Mười mấy hôm trước ông ấy còn rất khỏe mà, sao vãng sanh nhanh thế nhỉ? Có bịnh gì không? Ông ấy vãng sinh thế nào? Người ấy nói: - Cư sĩ Trịnh Tích Tân sau khi giảng kinh A-di-đà xong, mọi người về hết, chỉ còn lại năm, sáu người giúp việc, vì mọi người đều là bạn bè, nên cùng nhau ăn cơm trưa. Sau khi cơm nước xong, cư sĩ Trịnh nhờ một người bạn thuê giúp cho một căn phòng, nói là muốn đi. Người bạn nói: “Anh muốn đi tại sao lại còn muốn thuê phòng?” Cư sĩ nói: “Tôi muốn vãng sinh, vì ngại chết ở nhà người ta”. Người bạn nói: “Chúng ta là bạn bè đã nhiều năm, đừng nói là vãng sinh nước Phật, mà ngay cả nằm bệnh liệt giường, chết ở nhà tôi cũng được, cần gì phải thuê phòng nào khác? Bây giờ chúng tôi ở đây rất nhiều người tin Phật niệm Phật, nếu anh đã nắm chắc vãng sinh, thì hãy để cho những người niệm Phật chúng tôi xem thử, đồng thời để làm tấm gương”. Nói xong, chủ nhà liền ngăn đôi nhà mình thành hai phòng, đóng một chiếc giường. Cư sĩ Trịnh Tích Tân nói mấy lời từ biệt, ngồi trên giường, mặt quay về hướng Tây, ngồi yên ắng nói: “Cáo từ các bạn, tôi phải đi rồi đây! Xin mọi người niệm tiễn tôi!” Người bạn ở bên cạnh nói: “Sắp mạng chung anh không làm vài câu kệ để lại làm kỉ niệm cho chúng tôi sao?” Cư sĩ Trịnh Tích Tân nói: “Không cần nói kệ, chỉ cần các anh thấy tôi như thế này, đi lại tự tại, thì các anh cứ hành theo tôi như vậy, đó chính là kỉ niệm rất tốt rồi”. Mọi người nghe thế xong rồi cùng nhau niệm Phật để đưa cư sĩ Trịnh Tích Tân, chưa đầy mười lăm phút đồng hồ thì cư sĩ đã cười nhẹ vãng sinh. Do đó cả huyện Bình Độ, từ đó rất nhiều người tin Phật niệm Phật. Em trai của cư sĩ Trích Tịnh Tân ban đầu thấy anh trai chẳng đoái hoài gì đến công việc, chỉ chuyên tâm niệm Phật, trong lòng rất bực mình. Nhưng sau được anh trai mấy lần khuyên bảo, cũng miễn cưỡng tin Phật niệm Phật nhưng không khẩn thiết lắm. Lần này chính mắt thấy anh trai niệm Phật vãng sinh, biết trước giờ đi, đến đi tự tại, nên hiểu được rằng niệm Phật không phải hoàn toàn là việc dối người, cho nên anh ta nhất tâm nhất ý niệm Phật, ba năm sau cũng biết trước giờ đi, niệm Phật vãng sinh. Nhưng lúc lâm chung có chút bệnh, ra đi không được an lành như anh trai mình. Vị thứ ba là bà cư sĩ họ Trương, người Thanh Đảo, có hai con một trai một gái. Gia cảnh rất bần cùng, người chồng đi kéo xe mướn ở bến phà. Nhà bà ở gần tịnh xá Trạm Sơn, trong tịnh xá có hội Phật học. Mỗi chủ nhật hàng tuần tôi đều đến đó giảng kinh, sau khi Phật tử nghe kinh xong là niệm Phật một cây hương. Bà Trương nhờ nhân duyên đó mà qui y Tam bảo, được nghe Phật pháp, tin Phật rất chí thành. Những ngày thường ở nhà niệm Phật, mỗi đến chủ nhật lại bảo hai con đến chùa nghe kinh, sau khi nghe giảng kinh xong, như thường lệ cùng mọi người niệm Phật. Mùa đông năm 1937, một buổi sáng nọ, bà Trương đột nhiên nói với chồng: - Anh ở lại nuôi hai đứa trẻ nhé! Hôm nay em muốn vãng sinh Cực lạc. Người chồng vì đã khổ nhiều, lại không biết gì về Phật pháp, nên trừng mắt quát: - Đi đi! Nhà chúng ta nghèo, còn không quá đủ rồi sao? Bà còn nói chuyện tàm láp. Nói xong không thèm chú ý đến chị, quay lưng đi một mạch ra bến. Chị Trương lại dặn dò hai đứa con: - Hôm nay mẹ muốn vãng sinh Tây phương Cực lạc! Các con phải ngoan nghe lời bố, không được nghịch ngợm. Lúc bấy giờ hai đứa trẻ còn rất nhỏ, đứa lớn chưa đầy mười tuổi, đứa nhỏ mới 5, 6 tuổi, nghe mẹ nói như vậy, cũng chẳng hiểu mô tê gì, vẫn cứ vui đùa nghịch ngợm. Chị Trương dọn dẹp thu xếp sơ căn nhà, xong rửa mặt, chải đầu. Vì nhà nghèo nên chẳng có bộ đồ mới nào để thay, chị thay bộ đồ cũ nát, lên giường ngồi kiết già, mặt quay về hướng Tây, niệm Phật mấy câu rồi vãng sinh. Hai đứa trẻ vì mải ham chơi ở ngoài, chẳng hề biết gì cả, đến khi đói bụng vào nhà ăn cơm, thấy mẹ ngồi trên giường mà chưa nấu cơm, mới gọi nhưng không nghe thấy trả lời, lung lay cũng chả thấy động đậy, lúc ấy chúng mới biết mẹ chúng đã chết. Thế là chúng khóc toáng lên chạy sang nhà hàng xóm báo tin, hàng xóm được tin chạy lại, thấy chị Trương chết đã lâu nhưng sắc mặt như người sống, tất cả đều khen ngợi công phu chị niệm Phật sâu. Sau, người chồng từ bến phà trở về, khóc sướt mướt. Vì nhà nghèo nên không có gì để tẩn liệm, sau nhờ Phật tử hội Phật học đi điếu, mới có tiền an táng. Sự việc khẩn yếu nhất của đời người là niệm Phật liễu sinh tử. Bất luận như thế nào, mọi người cũng phải theo hoàn cảnh của mình, tranh thủ thời gian tĩnh tọa một lát, niệm vài câu danh hiệu Phật. Đang làm việc cũng có thể niệm thầm. Nếu không như thế, thì cả ngày tạo đủ trọng tội sát, đạo, dâm, vọng, rồi làm sao tránh khỏi đọa lạc trong tam đồ ác đạo, chịu khổ biết bao giờ ra khỏi. Phật có nói trong kinh Lăng Nghiêm: “Người nợ mạng ta, ta trả nợ người, vì nhân duyên ấy, nên trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp, vẫn mãi ở trong sinh tử; anh yêu tôi, tôi yêu anh, vì nhân duyên ấy, trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp, chúng sinh mãi ở trong trói buộc; do ba nghiệp căn bản sát, đạo, dâm mà nghiệp quả tương tục”. Xin mọi người suy nghĩ, tạo nghiệp sát, đạo, dâm tội khổ biết bao! Khuyên mọi người hãy nhanh niệm Phật, gọi là niệm “niệm Phật một câu, phước tăng vô lượng; lễ Phật một bái, tội diệt hà sa”. Trên đây là khái quát rất tản mạn về lợi ích của việc niệm Phật. Còn về chỗ tỉ mỉ và rốt ráo thì xin hãy tham khảo “Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu”. Hi vọng mọi người đã biết lợi ích của việc niệm Phật, nên có đủ tâm chân tín, thu nhiếp sáu căn, tịnh tâm tương tục, chí thành khẩn thiết, lão thật niệm Phật, tương lai sẽ cùng vãng sinh tụ hội nơi Tây phương Cực lạc.

Facebook Google Tweet Sách cùng thể loại
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục Như Hòa
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà Thích Pháp Đăng
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung Thích Tâm Hoà
Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Tịnh Độ Cảnh Ngữ Thích Minh Thành
Tịnh Độ Hoặc Vấn
Tịnh Độ Hoặc Vấn HT. Thích Thiền Tâm
Tây Phương Yếu Quyết
Tây Phương Yếu Quyết Thích Nguyên Chơn
Xem tất cả

Từ khóa » Vì Sao Niệm Phật