Nội Nha Lâm Sàng Bùi Quế Dương Phần 7,8,9,10 - Tài Liệu Text
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 43 trang )
NỘI NHA LÂM SÀNGNgười chia sẻ:Bàn Chải Đánh RăngTác giả:Bùi Quế Dương />Phần 7.TRÁM BÍT ỐNG TỦYNHỮNG PHƯƠNG PHÁP VÀ VẬT LIỆUBởi sự đa dạng của nhiều phương pháp trám bít ống tủy nên chúngta cần phải đánh giá những vật liệu thường sử dụng mà chúng có mặttrong những răng của bệnh nhân điều trò N.N.Côn bạcĐánh giá việc dùng côn bạc để trám bít ống tủy.Thành công trong việc dùng côn bạc trong N.N đòi hỏi tạo dạngống tủy tròn để đảm bảo sự kín chặt hoàn hảo của côn bạc đối với thànhống tủy. Những phương pháp được mổ tả bởi những người tiên phongtrong việc dùng côn bạc đòi hỏi : thời gian cũng như sự chính xác. Tuynhiên, chất lượng luôn không biết rõ khi những nha só không đủ kinhnghiệm đặt vào ống tủy những cây côn nhỏ hơn trong những ống tủychưa được làm sạch, sửa soạn một cách tối thiểu nên để lại nhiều mô tủyhoại thư, chất cặn bã v.v...Việc nổi bật trên phim tia X là côn bạc cản quang, tưởng là kín chặtnhưng thực chất bò hở trống trên lâm sàng. Với bề mặt rắn chắc của cônbạc không thể nào kín chặt thành ống tủy. Tuy nhiên sự kín chặt này còntùy thuộc vào xi măng trám bít cũng như độ bền đối với sự hòa tan vàtiêu ngót.Những nghiên cứu vào đầu thập niên 1960 trong việc áp dụng cônbạc trám bít ống tủy – Bhaskar (1972) cho thấy việc trám dư (# 2mm)trên răng chó gây tiêu chân răng và tạo sang thương, mảnh côn dichuyển vào xương cũng như mô quanh chóp.Seltzer và cs chứng minh cho thấy côn bạc bò ăn mòn trong nhữngrăng điều trò N.N bò thất bại cũng như thành công. Và gây độc cho môkhi đem cấy, độc chất như sulfat bạc và sulfit bạc.Vóệc dùng côn bạc trám bít ống tủy trong quá trình 30 – 40 nămkhông có sự xét nghiệm khoa học mà hoàn toàn dựa trên thực tế kinhnghiệm lâm sàng vì dễ thực hiện và đòi hỏi ít thời gian.Đa số trong chúng ta nhận thấy nhiều trường hợp thành công trênlâm sàng đều bò nhiễm trùng. Đến khi phát hiện, xi măng trám bít bò tanrã, biến mất và côn bạc bò ăn mòn, trôi nổi trong dòch ống tủy và môhoại tử.Đánh giá những loại xi măng dạng kem1986 có nhiều loại xi măng dạng bột – nước hoặc trộn sẵn ở dạngkem để bơm vào ống tủy khi trám bít. Những dạng vật liệu này có sẵntrên thò trường đi cùng những dụng cụ thành một hệ thống với mục tiêulàm giản đơn việc điều trò N.N như xi măng N2 cùng phương pháp ápdụng là đề tài tranh cãi sôi nổi hồi đó (1970). Bởi sự hiện diện của chấtparaformaldehyde, chì oxide cùng một vài loại thuốc, phần lớn N2 hayRC2B cho thấy có tính kích thích và độc hại. Những nghiên cứu về độchại tế bào trên người cũng như trên mô động vật trong thời gian 10 nămtrở lại đã chứng tỏ cho thấy độc hại, tế bào không ổn đònh cũng như hấpthụ triệt để chất formadehyde và chì vào máu (Laband (1978),Spangberg (1974) England và West (1980)).Một loại xi măng dạng kem khác được chú ý nữa là Hydron (1980)dạng gel, đó là Poly 2 hydroethyle methacrylate loại gel ái thủy vớibarium sulfate (1978). Ngay từ đầu, hydron là một vật liệu mà người tacông nhận là một khám phá quan trọng bởi tính chảy của nó và giữ theodạng ống tủy sau khi trám bít.Ricing và Goldman (1975) cho biết hydron có tính tương hợp sinhhọc thực hiện trong việc điều trò nội nha đơn giản và trám bít ống tủytrong vòng 30 giây.Langland và cs (1981) cho thấy hydron là chất không bền vững nhưacrylic (ở nhiệt độ 800C trong vòng 20 phút), loại xi măng trám bít khôngđồng nhất và thường vượt qua khỏi chóp, cản quang và khi đông cứngkhó lấy đi trường hợp phải điều trò lại.Về phương diện sinh học, hydron được di chuyển vào máu bởi đạithực bào và gây phản ứng của cơ thể (sự hiện diện của vật lạ).Tanzilli và cs (1981) đem so sánh hydron với Gutta Percha và chothấy hydron không chấp nhận được vì sự hiện diện của viêm đã quan sátthấy sau khi trám bít ống tủy (6 tháng).Xi măng oxyde kẽm – EngenolOxyde kẽm mạnh hay hydroxyd calci dạng kem có tính cản quangvà chấp nhận được. Tuy nhiên, phần nhiều dạng kem thường tiêu ngótvà được mang đi bởi đại thực bào, đưa tới việc trám rỗng, hổng tại 1/3chóp. Tất cả những xi măng trám bít dạng kem thường trám thiếu, hổngbởi lý do không thể nhồi được. Nên người ta phải dùng những câylentulo để đưa xi măng vào ống tủy. Trên phim tia X, hình ảnh cảnquang rõ rệt của xi măng khiến ta lầm tưởng là kín, chặt nhưng thực tếlâm sàng không phải vậy mà thường là bò hổng, thiếu... vì sự hiện diệncủa những bọt khí. Việc kiểm soát được cũng như trám dư thường quansát thấy trong những phương pháp này. Và đưa tới những hậu quả viêmquanh chóp, tiêu ngót chân răng, xương ổ cũng như đau mãn tính. Khicứng rất khó lấy đi trường hợp điều trò lại. Vì những nguyên nhân trên, ximăng trám bít dạng kem đều không sử dụng trong điều trò N.N, cũng nhưkhông được nói tới trong các trường nha khoa tại Hoa Kỳ. Còn ở ViệtNam chúng ta vẫn còn sử dụng phổ biến vì điều kiện kinh tế. Tuy nhiênchúng ta cũng có thể tiếp tục sử dụng loại xi măng oxyde kẽm engenolnày với điều kiện vật liệu cốt lõi trong việc trám bít ống tủy là Guttapercha.Đánh giá vật liệu Gutta Percha (GP)Gutta percha được biết đến khoảng trên 150 năm. Vật liệu Guttapercha là vật liệu được chọn sử dụng trong việc trám bít ống tủy. G.P ởtrạng thái thiên nhiên là loại cao su (nhựa, mủ, hydrocarbon, C5H8) lấytừ nhựa của cây sapotecae. Trong đó chứa G.P (78%), alban (16%) vàFluavil (6%). G.P trong nha khoa chứa # 17% G.P, 79% kẽm và 4% kẽm– silicate.Dưới áp lực, trở nên mềm và theo dạng, hình của vật chứa đựng nó.Bởi tính chòu nén, nên G.P có thể nhồi sát vào vách thành tủy và giữnguyên hình ống tủy khi trám bít. Nó trở nên mềm bởi nhiệt độ và dungmôi. G.P không hòa tan trong nước và gây độc hại bởi acid yếu hay vậtliệu alcalin. Với sự thay đổi nhiệt độ, G.P hơi dãn nở và co lại, khôngdẫn điện.G.P dãn nở nhiều trong chloroform (300%). Khi chloroform bay hơi,G.P còn lại 1/3 thể tích ban đầu ở trạng thái dẻo. Bởi tính thay đổi thểtích nhiều nên không thể ứng dụng được bất cứ phương pháp trám bítnào mà chloro percha là vật liệu trám bít. Tuy nhiên, việc sử dụng mộtlượng nhỏ chloroform dùng làm mềm hoặc ngâm phía đầu cây côn chínhđể tạo dạng phía đầu cây côn theo dạng chóp răng, chúng ta có thể ápdụng được. Cũng bởi lý do co rút này nên việc trám bít dễ gây hở vàdòch mô quanh chóp dễ xâm nhập.Tính dính được gia tăng rõ rệt của G.P nếu sử dụng vật liệu ximăng trám bít. G.P không nên để ngoài trời và ánh sáng bởi tính hấp thụoxy. G.P dễ lấy đi khi cần điều trò lại. Về sinh học, G.P không có tínhgây độc hại cho mô, tế bào. Và G.P cũng không nhả ra loại hóa chất nàođể gây hại cho mô, tế bào.Spangberg (1969) xếp G.P vào loại 3 sau bạc và xi măng phosphat,nó ít độc hại nhất cho tế bào người qua những nghiên cứu G.P được làmtan trong dung môi. G.P cấy ghép trên mô heo (lợn) gây rất ít kích thích,gần với côn bạc. Nghiên cứu cũng cho thấy G.P là vật liệu có tính tươnghợp sinh học lâu dài.Bhaskar và Rappaport (1971) kết luận cho thấy G.P trám dư thườnggây tiêu chân răng và xương hơn là trám hụt, thiếu.Tóm lại, nên trám bít G.P khu trú trong ống tủy là việc tối ưu đểtránh tác hại gây phản ứng sinh học của cơ thể.Việc sử dụng G.P đòi hỏi việc mở rộng, sửa soạn ống tủy đủ rộngđể tạo dễ dàng cho việc trám bít. Sự đòi hỏi này đồng tình với mục tiêutrám đầy sinh học trên những ống tủy đã được loại bỏ sạch những môcặn bã được coi là điều kiện tiên quyết cho việc điều trò vùng quanhchóp. Trường hợp ống tủy nhỏ hẹp và cong mở rộng không tới số 25, 30,việc trám bít không hiệu quả cũng như việc lèn nhồi nén côn G.P sẽ bòkẹt không đạt đủ chiều dài, kể cả cây lèn ngang cũng không tới được 1/3chóp. Từ những năm trước thập niên 1960, G.P được dùng rộng rãi trongđiều trò N.N. Hầu hết các trường nha tại Hoa Kỳ được giảng dạy cách sửdụng G.P trong việc trám bít ống tủy một cách phổ biến.MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TRÁM BÍTSau khi tạo hình ống tủy và bơm rửa đã hoàn tất, thời điểm thuậnlợi cho việc tạo hình hệ thống ống tủy được đề cập khi hội đủ các điềukiện :1- Răng không có triệu chứng, không đau, đụng không đau hayvùng quanh chóp không đau và răng trong tình trạng ổn đònh.2- Ống tủy khô, sạch, không có tiết dòch hay rỉ dò. Sự dò rỉ nhiềuhay tiết dòch xảy ra khi ống tủy để trống, thường xảy ra trong trường hợpcó sự hiện diện của nang. Grossman đề nghò trám bằng kẽm lodide vàdung dòch lodine trong 24 giờ, sự dò rỉ sẽ giảm hoặc băng thuốc bằnghydroxyd Ca cũng được và thực dụng.3- Không có lỗ dò, nếu có hiện diện lỗ dò, lỗ dò đã hết.4- Không có mùi hôi, trường hợp có mùi hôi có thể do ống tủy chưasạch hoặc bò hở khi băng thuốc.5- Miếng trám tạm còn nguyên. Nếu bò bể hoặc hở là nguyên nhânsự lây nhiễm trở lại trong ống tủy. Miếng trám tạm phải kín và chòu đượcsức nhai. ZnOE chòu nổi ở miếng trám tạm bờ bên khi không có điểmchạm lúc ăn nhai. Cavit hay IRM là ZnO resin dùng để trám tạm.Sửa soạn xi măng trám bítĐể sửa soạn phần xi măng trám, người ta dùng một tấm kiếng vàmột cây trộn đã khử trùng, không nên dùng quá 3 giọt nước cho mỗi lầntrám. Có 2 test để thử độ quánh đặc của xi măng :1- Test chảy xuống (droptest) : gom xi măng trên cây trộn và nhấclên, xi măng không được chảy trong vòng 10 đến 12 giây. Có thể dùngphía đầu trâm số 25 nhích một lượng nhỏ xi măng và dốc thẳng đứng, ximăng không được chảy trong vòng 5 đến 10 giây.2. Test kéo dài (String out test) : gom xi măng trên cây trộn và nhấcnghiêng lên từ từ, xi măng sẽ chảy dài ít nhất 1 inch mà không bò đứt.- Chloropercha và eucapercha : được tạo bởi GP tan trong dung môichloroform hay eucalyptol dùng để trám bít ống tủy cong không bìnhthường hay trường hợp lủng hoặc có khấc trong ống tủy.Test chảy xuốngTest kéo dàiHầu như tất cả các nha só đều công nhận G.P là vật liệu được chọnlọc trong điều trò N.N. Vài câu hỏi được đặt ra là sử dụng như thế nào.Hiện nay, người ta sử dụng G.P theo một trong 3 phương pháp sauđây :- Phương pháp lèn dọc với G.P được làm nóng.- Phương pháp lèn ngang với nhiều cây G.P.- Phương pháp chloropercha1- Phương pháp lèn dọc với G.P được làm nóng.1a- GP dạng cây côn không chuẩn với bộ nhồi dọc.Dụng cụ :- Bộ lèn dọc khoảng từ 7 - 9 cây đường kính tương ứng từ lỗ tủy đến1/3 chóp.- Máy làm nóng, đồng thời có thể làm nguội ngay tức thì hoặc câydụng cụ được hơ nóng (Head instrument).Bộ lèn dọcCôn GP không chuẩn biểuhiện bằng chữ F, FM, M...Bộ côn GP không chuẩn (trái)tương ứng với bộ côn chuẩn (phải) .Mô tả :- Chọn cây côn chính : cây côn chính thường không chuẩn và khôngsố và được biểu hiện bằng chữ FMđi hết chiều dài làm việc,ngưng tại điểm chặn chóp.- Giai đoạn 1 : Trám bít 1/3 chóp : cắt phần GP dư tại lỗ tủy bằngdụng cụ hơ nóng, nhồi GP về phía chóp, tiếp tục làm mềm GP đồng thờinhích bớt một lượng nhỏ GP và tiếp tục nhồi ... cho tới khi 1/3 chóp kínchặt.- Giai đoạn 2 : Tiếp tục trám 1/3 trung rồi 1/3 cổ theo hướng ngượclại giai đoạn 1. Bằng cách đặt từng khúc G.P vào ống tủy (từ phần dưcây côn chính lúc đầu, cắt từng khúc từ 2 – 3 mm), được làm mềm vànhồi từ 1/3 chóp tới lỗ tủy.Trong phương pháp này không cần dùng xi măng trám bít vì G.Pđược làm mềm và nhồi, G.P sẽ lắp hết các khe hở nơi vách tủy và cảnhững ống tủy bên và ống tủy phụ qua lực nhồi nén. Phương pháp nàyđược áp dụng phổ biến cũng như giảng dạy tại các đại học Hoa Kỳ.Thực hành các bước trong phương pháp lèn dọc(A)(B)(C)(D)(E)(A) Cây nhồi dọc với kích thước tương đương nơi 1/3 cổ răng.(B) Cây nhồi dọc với kích thước tương đương nơi 1/3 trung.(C) Cây nhồi dọc với kích thước tương đương nơi 1/3 chóp.(D) Cây côn chính, loại không chuẩn được chọn vừa khít nơi 1/3 chóp vàngưng tại nút chặn chóp, lỏng nơi 1/3 trung cũng như 1/3 cổ răng.(E) Cắt bỏ phần dư của cây côn chính tại giao điểm xêmăng – men răng(mũi tên) bằng cây nóng và để phần dư sang một bên.(F)(G)(H)(I)(J)(F) Dùng cây nhồi (1/3 cổ), nhồi GP về phía chóp cũng như các ống tủybên.(G) Tiếp tục dùng cây nóng làm mềm GP nơi 1/3 cổ (# 3 tới 4mm).(H) Cây nóng được làm nguội tức thì để có thể nhích lấy đi một lượng GPnhỏ.(I) Dùng cây nhồi (1/3 trung) tiếp tục nhồi.(J) Tiếp tục dùng cây nóng làm mềm GP.(K)(L)(M)(N)(O)(K) Cây nóng được làm nguội tức thì để có thể lấy đi một lượng nhỏ GP.(L) Tiếp tục dùng cây nhồi (tại 1/3 chóp) nhồi GP kín chặt nơi 1/3 chópcủa hệ thống ống tủy.(M) Phần còn lại của cây côn chính lúc đầu được cắt thành từng khúc 2 –3mm. Đặt khúc GP vào ống tủy.(N) Tiếp tục làm mềm và nhồi như trên cho tới khi lắp đầy tới lỗ tủy.(O) Công việc trám bít ống tủy đã hoàn tất.1b- Phương pháp nhiệt cơ học (Thermomechanical tech)GP dạng không chuẩn – cây nhồi là cây trâm quay.Phương pháp này dùng cây nhồi Mc Spadden, cây nhồi có dạngthuôn, bờ cắt 900 hướng về phía đầu trâm (ngược chiều với cây trâm H).Khi trâm quay (# 15.000 vòng/phút) tạo sức nóng do ma sát với côn G.P,G.P mềm chảy. Bởi động tác chêm và vặn vít của trâm đẩy G.P về phíachóp, cùng hai phía bên (Harris 1982). Phương pháp này thiếu những tàiliệu khoa học, phần hướng dẫn lâm sàng luôn thay đổi để xác đònhnhững kết quả trong lónh vực làm thử nghiệm cũng như những ý kiếnphản hồi từ những người áp dụng về việc thay đổi dạng dụng cụ chothích hợp.Cơ bản là phương pháp này không khuyến khích dùng xi măng trámbít. Theo Harris và cs (1982) dùng phim tự động cho thấy trám hở nếukhông dùng xi măng trám bít. Ngoài ra ông còn cho thấy thường trám dưvà cây nhồi dễ bò gãy và làm nóng chân răng.O’Neill và cs (1983) so sánh với các phương pháp khác, phươngpháp này chấp nhận được nếu dùng xi măng trám bít trường hợp ống tủythẳng. Dù sao, cũng còn nhiều vấn đề như gãy dọc chân răng, cắt ngà vàgãy cây nhồi trong lúc trám bít.1c- Phương pháp bơm G.P dạng nóng chảy.Phương pháp này làm G.P nóng chảy, được bơm vào ống tủy doYee và cs (1977) và Marlin (1981). Phương pháp này dựa trên sự nóngchảy G.P đựng trong những capsule và dùng syring (hoặc cây súng) đểbơm G.P vào ống tủy. Những kết quả khởi đầu trong labo cho thấy hiệuquả của phương pháp này chấp nhận được trong giới hạn của giải phẫuống tủy, đông đặc, và sự hở tối thiểu (Yee (1977), Torabijsad (1978)).Tuy nhiên, có nhiều trở ngại trên lâm sàng :- Thiếu sự kiểm soát, hướng dẫn của vật liệu G.P và xi măng trámdư khỏi chóp.- Cần mở rộng lớn ống tủy vì kim bơm phải đặt trong ống tủy.- Thiếu sự hướng dẫn, đo lường để theo dõi tiến trình trám bít. G.Pcó thể đông cứng trước khi được nhồi, bò hở và đòi hỏi phải trám lại.- Vấn đề trang thiết bò : như kim bơm bò gãy, G.P đông cứng trongkim, G.P bò hở v.v...- Việc nhồi dễ bò thiếu nơi 1/3 chóp, trường hợp ống tủy có dạngthanh nhỏ, trường hợp nút chặn chóp không chắc chắn như lủng, tiêungót, dễ đưa tới G.P ra khỏi chóp. G.P sẽ chảy vào mô hay vào các cấutrúc giải phẫu quan trọng như xoang hàm, xoang mũi, ống răngdưới.v.v... Như đã biết G.P không tiêu ngót mặc dù có tính tương hợpsinh học và quan trọng là G.P chỉ nên giới hạn trong xoang tủy mà thôi.Một số bất lợi là giới hạn việc sử dụng G.P bơm có hiệu quả trườnghợp những ống tủy tương đối rộng và thẳng để các nhà lâm sàng có thểchủ động được khi trám bít.(A)(B)(A) Máy Obtua II với cây súng làm mềm G.P và G.P sẽ được bơm vào ốngtủy qua cây kim. (B) Từng khúc G.P được cắt sẵn nạp vào súng rồi được làmmềm.(A)(B)(C)(A) R11 chưa trưởng thành, ống tủy và chóp mở rộng với sang thươngchóp. (B) Trám bít bằng phương pháp bơm G.P mềm với kích thước kim bơm lớn,cũng như cây nhồi lớn và được kiểm soát bằng những phim tia X trong lúc trámbít. (C) Sau 2 năm răng ổn đònh, xương phát triển bình thường.1d- Phương pháp nhồi dọc G.P dạng đặc được làm nóngPhương pháp này được mô tả bởi Schilder (1967) – G.P điều chếdưới dạng đặc, kích thước ổn đònh dùng trám bít ống tủy theo 3 chiều.Vật liệu G.P dạng đặc trám bít cả những ống tủy bên được biểuhiện rõ ràng trên phim Xquang và đôi khi có thêm xi măng trám bít.Tuy nhiên, trên lâm sàng phương pháp này chỉ là một phương pháptrám bít bằng G.P. Theo Brothman (1981), phương pháp lèn dọc tạonhững miếng trám dày đặc hơn và trám bít những ống tủy bên nhiều hơn.Tuy nhiên, về mô học những ống tủy phụ này rất ít khi được trám bít bởiGP. Thường người ta thấy xi măng và chất cặn bã. Tại 1/3 chóp thườngchỉ có một cây côn bao bọc lớp xi măng trám bít.Tuy nhiên, trên phim tia X cho thấy những ống tủy bên được trámbít nhiều hơn trong phương pháp lèn dọc, trên thiết diện cắt ngang chothấy tại 1/3 chóp được trám bít tốt hơn với phương pháp lèn ngang so vớiphương pháp lèn dọc.Về mặt lâm sàng cho thấy ống tủy bên và ống tủy phụ biểu hiện rõnét trên phim tia X. Đa số bệnh lý vùng quanh chóp thường khởi đầu từchóp răng. Sang thương nơi ống tủy bên thường hiếm ít và tự lành khỏikhi ống tủy chính được điều trò. Theo De Deus (1975) xác đònh cho thấyống tủy bên thường tìm thấy nơi 1/3 trung 10,4% và 16,4% nơi 1/3 chóp.So sánh những nghiên cứu phương pháp lèn dọc và lèn ngang thường nhưnhau và không khác biệt (Messing, 1970).Lader (1976) cho thấy thường trám dư với phương pháp lèn dọc vàthấy đường nối hiện diện trong khối G.P khi đông cứng, điều này chứngtỏ cho thấy sự mềm dẻo không đồng đều của G.P trong khi trám bít.Các nhà lâm sàng không thể kiểm soát G.P ra khỏi chóp là giới hạnquan trọng nhất của phương pháp này. Việc trám dư là nguyên nhânchung khi chóp bò ảnh hưởng bởi điều trò hay do bệnh lý. Các nhànghiên cứu và nhà lâm sàng đều đồng ý rằng sự đẩy vật liệu ra khỏichóp đều coi là trám dư. Cho nên điểm giới hạn khi sửa soạn ống tủyđều ngưng tại nút chặn từ 0,5 – 1mm ngắn hơn điểm đầu trâm đo trênphim tia X.Tóm lại, phương pháp lèn dọc đòi hỏi ống tủy được mở rộng lớn đủđáp ứng cho việc nhồi dọc trực tiếp G.P được làm mềm.Nhà lâm sàng nên lượng giá các chỉ đònh của bất cứ một phươngpháp nào những đòi hỏi trên cũng như trong mỗi trường hợp để áp dụngđược hiệu quả.2. Phương pháp ChloroperchaG.P được làm mềm bổi dung môiĐược phổ biến 1920 bởi Johnson – G.P được sử dụng dưới dạngmềm, hòa tan bởi dung môi như chloroform (chloropercha) hayeucalyptol (eucha percha) bằng cách nhúng cây côn G.P (cây côn chính)trong dung môi và được nhồi vào ống tủy.Mc Elroy (1965) đã chứng minh cho thấy chloropercha, chloro-resinhay Eucapercha kích thước không ổn đònh khi dung môi bay hơi và phầncòn lại G.P sẽ còn lại 1/3 thể tích ban đầu.Một thuận lợi duy nhất là chloropercha giữ được nguyên hình giảiphẫu ống tủy. Nhưng điểm thuận lợi này bò loại trừ ngay bởi sự thay đổithể tích.Wong (1982) cho thấy chloropercha trám bít, thể tích giảm 4,86%,chloropercha 12,42% và nhúng đầu côn GP vào choloroform là 1,4%.Keane và Harrington (1984) cho thấy sự hở nơi chóp răng, cây cônđầu tiên nhúng trong chloroform trong 1 phút dù có dùng xi măng trámbít hay không. Bởi vậy, phương pháp này không yêu cầu sử dụng trongđiều trò N.N.Tuy nhiên, trường hợp ống tủy to rộng có chóp mở rộng ở nhữngrăng có sang thương chóp, răng bò ngoại tiêu .v.v... chúng ta có thể ápdụng phương pháp này bằng cách tạo cây côn đầu tiên khít chặt tại 1/3chóp với sự can thiệp của dung môi chloroform :1). Chọn cây côn GP đầu tiên và đưa vào ống tủy tới cách chóp # 2– 3mm.2). Đánh dấu chiều dài làm việc trên hai cây côn (đầu kẹp ép chặttại vò trí trên).3). Nhúng đầu côn vào dung dòch chloroform vài giây đến khi cóvết bột tan của cây GP bằng cách gạc nhẹ đầu côn vào miệng chén.4). Đưa côn vào ống tủy vừa chặt, rút côn ra một chút khoảng 1 –2mm và đưa tiếp côn vào lại sâu hơn cho tới khi đủ chiều dài làm việc.5). Để côn tại vò trí trong một vài giây rồi mới rút côn ra, đầu cônlúc này có in dấu của 1/3 chóp.Lưu ý : Trong khi thao tác, ống tủy luôn ẩm ướt để côn không dínhvào thành ống tủy.Tạo cây côn đầu tiên trường hợp ống tủy lớn và chóp mở rộng(A)(B)(C)(A) Cây côn đầu tiên đặt trong ống tủy ngắn hơn chiều dài làm việc từ 2 –3mm.(B) Ngâm cây côn vào dung môi trong vài giây và đưa lại vào ống tủy(bằng cách tới lui) tới đủ chiều dài làm việc.(C) Cây côn đầu tiên (trái) và cây côn sau khi nhúng vào dung môi (phải)có dấu của 1/3 chóp.3. Phương pháp lèn ngangSeltzer (1971) kết luận là không có sự hiện diện của sang thươngchóp trong phương pháp lèn ngang hay phương pháp dùng một cây côn,hiệu quả của 2 phương pháp trên đều như nhau. Tuy nhiên, 6 tháng sauphương pháp lèn ngang hiệu quả hơn phương pháp 1 cây côn. Với sangthương quanh chóp, nói một cách khác, phương pháp lèn ngang hiệu quảcao hơn phương pháp 1 cây côn từ 6 tháng tới 2 năm sau điều trò.Ở Hoa Kỳ, phương pháp lèn ngang với nhiều cây G.P và xi măngtrám bít được nói tới nhiều trong chương trình giảng dạy và được thựcdụng trong môn N.N. Nó vừa đơn giản, cũng như việc tiên lượng và kiểmsoát được.(A)(B)(C)(D)Phương pháp thử cây côn chính.(A) Cây côn chính ngưng tại nút chặn chóp và kín, khít nơi 1/3 chóp,và được đánh dấu chiều dài bằng đầu cây kẹp (tạo vết lõm trên cây GP).(B) Cây côn chính bò vướng kẹt tại 1/3 cổ (mũi tên).(C) Cây côn chính đi qua chóp.(D) Cắt bớt phần dư từng mm.Phương pháp giúp cho nhà lâm sàng chọn lựa cây G.P bằng cáchthử và đo chiều dài nhiều lần. Nếu trong những lần đo thử vẫn giữ đúngmức (chiều dài), kết quả hầu như chắc chắn. Hiệu quả phương pháp nàyphụ thuộc vào việc tạo dạng và sự đồng nhất trong việc sửa soạn ốngtủy.Allison (1979) chứng minh cho thấy việc tạo dạng thuôn và cây lènngang # D11 có thể tới được nút chặn chóp sẽ mang lại hiệu quả và ít kẽhở. Mặc dù tại 1/3 chóp cây côn G.P có phủ một lớp xi măng trám bít.Brothman (1981) cho thấy về mô học phương pháp lèn ngang tốthơn là lèn dọc tại 1/3 chóp. Lèn dọc kết quả 1/3 cổ tốt hơn và hai phươngpháp trên đều cho kết quả ngang nhau tại 1/3 trung (ống tủy dạng dải tốtcho lèn ngang, ống tủy dạng “hội tụ” tốt cho việc lèn dọc).Với phương pháp lèn ngang, nhà lâm sàng có thể theo dõi suốt tiếntrình trám bít cũng như điều chỉnh các thiếu sót. Hơn nữa, phương pháplèn ngang dễ hướng dẫn và dễ học.Tuy nhiên, một số chỉ trích hay những báo cáo cho thấy những giớihạn của phương pháp lèn ngang bởi những sự lạm dụng sai hay thiếu sótsự chuẩn mực. Như các nha só dùng những cây lèn rộng (lớn) trường hợpống tủy hẹp, dùng lực nhiều sẽ gây nhiều nguy cơ nứt, bể chân răng.Mặt khác, sửa soạn ống tủy không đủ thoát nên khó cho việc lèn. Nếusửa soạn nơi chóp dạng thắt nhỏ cây lèn không thể tới nút chặn chópđược.Như việc chỉ trích về khả năng làm bể, nứt chân răng. Pitts (1982)thử nghiệm làm nứt, bể chân răng cửa giữa trên răng khô với sức 7,2kg,điều này không thực tế trong lâm sàng.Harvey và cs (1981) cho thấy ống tủy sửa soạn không thuôn, đầucây lèn sẽ đục, khoét thành ống tủy và tạo sự tập trung stress. Tạo dạngthuôn đáp ứng tốt cho việc phân phối đều stress suốt dọc thành tủy. Sựkhuếch tán đều stress có thể được thu hút bởi răng và cấu trúc của nó.Với phương pháp lèn ngang chúng ta cần phải dùng xi măng trámbít, vì nếu chỉ dùng những cây G.P lèn đầy trong ống tủy, chúng khôngđủ kín và không đạt một bản sao G.P ống tủy đã sửa soạn. Bởi việc lènnguội nên nhiệt độ trong xoang tủy không đủ nén G.P dính với nhau. Bởivậy, việc sử dụng xi măng trám bít là rất cần thiết, tạo sự dính chặt giữanhững cây côn G.P với nhau và với thành tủy.(A)(B)(C)(A) Máy làm nóng sử dụng trong phương pháp lèn ngang hay trong phươngpháp lèn dọc : nhiệt độ có thể điều chỉnh và ổn đònh ở nhiệt độ lèn ngang là 420.Khi lèn dọc thì ở nhiệt độ 590 và phòng ngừa nhiệt độ cao hơn dễ gây nguy cơphân hóa G.P khi nhiệt độ trên 590.(B) Phương pháp lèn ngang nóng, không dùng xi măng trám bít với thiếtdiện cắt ngang cho thấy khối G.P đồng nhất.(C) Phương pháp lèn ngang nguội (lạnh) không dùng xi măng trám bítvới thiết diện cắt ngang cho thấy những khoảng trống giữa những cây G.P vàthành tủy.Tiến trình phương pháp lèn ngangỐng tủy đã sẵn sàng trám bít bằng G.P khi đáp ứng các điều kiệnsau :1- Đủ rộng, vừa với cây côn G.P có kích thước của trâm sau cùngsửa soạn ống tủy. Cây côn đưa vào ống tủy đủ chiều dài vừa chặt mộtcách thoải mái và ngưng tại nút chặn chóp.2- Chọn 1 trong số 4 cây lèn (A, B, C, D “Dentsply”) đưa vào theosuốt chiều dài cây côn cho tới khi chặt (tại 1/3 chóp).3- Bệnh nhân không đau cấp hay sưng, răng không đau.4- Xi măng trám tạm còn nguyên, băng thuốc khô, sạch.Dụng cụ và vật liệu :-Khay bộ đồ khám : trâm, kẹp, gương-Côn giấy-Syring – kim – thuốc tê-Côn G.P có số (chuẩn)-Côn G.P không số (không chuẩn hay bộ côn phụ A, B, C, D)-Bộ lèn A, B, C, D “Dentsply”-Xi măng trám bít – kiếng trộn – cây trộn xi măng-Syring bơm rửa-Gạc 2 x 2 tẩm alcool.Bộ dụng cụ và vật liệu trong phương pháp lèn ngang(A)(B)(A) Hộp côn phụ ABCD và hộp bộ cây lèn ABCD.(B) Những cây lèn ABCDCây nạo ngà sử dụng để cắt GP khi được hơ nóng.Bộ cây nhồi GP.Diễn tiếnChọn cây côn chính (có số bằng số trâm cuối cùng sửa soạn ốngtủy), đưa côn vào ống tủy đủ chiều dài và ngưng vừa chặt tại nút chặnchóp. Đánh dấu bằng cách bóp chặt đầu cây kẹp, để lại vết trên cây côn(tương ứng trên mặt nhai hay bờ cắn).Chọn cây lèn ngang (A, B, C, D “Dentsply”) đưa vào ống tủy dọctheo chiều dài cây côn chính và tốt nhất là ngưng tại nút chặn chóp(ngắn hơn 1mm hoặc > 1mm có thể chấp nhận được). Nút chặn cao suhoặc silicon đặt tại chiều dài tương ứng.Lưu ý : Lúc thử côn, ống tủy luôn ướt, để côn không bò gấp, kẹttrong ống tủy.Nếu những bước trên không đạt ta phải coi lại, sửa soạn lại nếucần.Thấm khô buồng tủy bằng gòn, làm khô ống tủy, đầu tiên bằngcách dùng syring bơm rửa, đưa kim vào ống tủy hút bớt nước và sau đómới thấm bằng côn giấy.Trường hợp chảy máu trong khi làm khô ống tủy, có thể côn giấyđưa ra khỏi chóp. Trong lúc làm khô ống tủy bằng các cây côn giấy,chúng ta có thể xác đònh lại chiều dài làm việc lần nữa trước khi trámbít.- Trộn xi măng trám bít- Dùng cây trâm sau cùng sửa soạn ống tủy đã đánh dấu, nhích mộtlượng nhỏ xi măng phía đầu và đưa vào ống tủy tới đủ chiều dài và xoayngược chiều kim đồng hồ để lại phần xi măng dính đều trên thành tủynơi 1/3 chóp.- Cây côn chính được nhích 1 giọt xi măng phía đầu côn, đưa cônvào từ từ theo vách tủy vừa đủ chiều dài.- Đưa cây lèn ngang (đã chọn) với động tác lách xoay qua lại dọctheo phía bên cây côn chính với một lực nhẹ để tạo một khoảng trốnghở. Giữ cây lèn tại chỗ # 10 – 15 giây để G.P có thời gian nén lại, từ từđưa cây lèn ra với động tác ngược lại.- Chọn cây côn phụ tương ứng, nhích một giọt xi măng phía đầu cônvà đưa vào ống tủy vừa chặt.- Sau mỗi lần lèn nên lau chùi sạch xi măng dính trên cây lèn bằnggạc. Những cây côn phụ luôn phải đạt tới phần 1/3 chóp hoặc ít nhất quagiới hạn của 1/3 trung.- Chụp phim kiểm soát và nếu thiếu sót điều chỉnh và trám bít lạinếu cần.Việc trám bít đạt hiệu quả khi ta dùng những dụng cụ cắt (cây nạongà được hơ nóng) và cắt ngang G.P dư ngay tại lỗ tủy. Dùng cây nhồidọc nhồi phần G.P còn lại cho tới khi kín chặt (lèn dọc tại 1/3 cổ).Tóm lại, với phương pháp này 1/3 trung và 1/3 chóp được kín chặtbởi phương pháp lèn ngang nguội. 1/3 cổ được lèn dọc bởi cách làmmềm Gutta sau khi cắt bỏ phần dư bởi dụng cụ hơ nóng.Sơ đồ phương pháp lèn ngang và lèn dọcLèn ngang :(A)(B)(C)(D)(E)(A) Thử cây lèn ngang vào trong ống tủy, tới đủ chiều dài.(B) Phết một lớp xi măng phía đầu cây trâm sau cùng sửa soạn ống tủy,đưa vào ống tủy đủ chiều dài, xoay ngược chiều kim đồng hồ để ximăng dínhvào thành ống tủy nơi 1/3 chóp đồng thời rút trâm ra.(C) Phết một lớp xi măng phía đầu cây côn chính.(D) Đưa côn vào ống tủy đến hết chiều dài làm việc (điểm chặn của kẹptiếp xúc bờ cắn).(E) Lách cây lèn ngang bên hông cây côn chính, tạo chỗ cho cây côn phụ.(F)(G)(H)(F) Đưa cây côn phụ vào vò trí cây lèn ngang vừa rút ra.(G) Tiếp tục lèn ngang với vài cây côn phụ cho tới kín chặt ống tủy.(H) Công việc lèn ngang đã hoàn tất.Lèn dọc phía 1/3 cổ răng :(I)(J)(K)(L)(I) Phần GP dư của các cây côn trên được cắt bỏ bằng dụng cụ hơ nóng(cây nạo ngà, bay trám ...).(J) Tiếp tục cắt bỏ phần GP trong xoang tủy bằng cây nạo ngà hơ nóng.(K) Dùng cây nhồi, nhồi phần GP về phía lỗ tủy.(L) Công việc trám bít ống tủy đã hoàn tất.Hai cas lâm sàng trám bít ống tủy bằng phương pháp lèn ngangR46 hai chân gần tách rời nơi1/3 chóp. GP trám bít hoàn tất,GP luôn nằm ngay tại lỗ tủy.R46 hai chân gần trùng lấp.Trám kết thúc bằng compositetrường hợp răng bò bể nhiều.Phần 8.LIÊN HỆ GIỮA NỘI NHA VÀ NHA CHUSự tương quan của tủy và vùng nha chu luôn luôn ở trạng tháichuyển động. Một nhà lâm sàng kinh nghiệm phải biết là sang thươngnội nha và quanh chóp thường xuất hiện sau giai đoạn viêm và thoái hóacủa cả hai mô trên.Chức năng của răng tùy thuộc vào sức khỏe và sức sống của vùngnha chu chứ không phải dựa vào tình trạng của tủy. Do đó răng và cơ cấunâng đỡ nó hợp thành một bộ sinh học.Ảnh hưởng bệnh tủy trên bộ phận bám dính (Attachementapparatus).Bệnh tủy là bệnh do vi khuẩn. Khi tiến trình bệnh tủy vượt quáphạm vi của nó, viêm xâm lấn tới mô bám dính. Một số lộ trình xuấthiện trong việc xâm lấn của bệnh tủy.Foramen chóp răng.Những tế bào viêm và những sản phẩm của viêm tủy sẽ thế chỗcho các dây chằng nha chu cũng như vùng xương quanh chóp. Hậu quảcủa sự mất xương từ nhiễm trùng tủy luôn xuất hiện tại foramen chóprăng khi tiến trình nhiễm trùng vẫn tồn tại. Sự viêm tiêu ngót cuối cùngcó thể làm thay đổi hình thể và vò trí của foramen ở răng bò viêm nhiễm.Những ống tủy bênVới cùng sự đáp ứng thấy được tại foramen cũng xảy ra tại các ốngtủy bên và ống tủy phụ của mô tủy. Viêm nhiễm kết hợp với những ốngtủy bên có thể thấy được trên phim tia X, phía bên của bề mặt chân răng(trong phần này ngoài ống tủy chính ra tác giả còn sử dụng từ ống tủybên và ống tủy phụ thay đổi cho nhau để chỉ sự tuần hoàn tủy và nhachu. Một nghiên cứu lớn trên 7275 răng, tỷ lệ lớn nhất của ống tủy bênthường xuất hiện tại 1/3 trung của chân răng và răng cửa giữa trên làrăng thường bò nhiễm trùng nhiều (11,9%).(A)(B)(C) Quan sát qua kính hiển vi điện tử quét.bên.(A) Với độ phóng nhỏ tại chóp Foramen và mạch máu nhỏ trong ống tủy(B) Với độ phóng lớn với hai mạch máu nhỏ của ống tủy bên.(C) Thiết diện mô học của răng cửa bên, tủy hoại tử và ống tủy bên vớiviêm đáp ứng nơi dây chằng nha chu. Ghi nhận biểu mô tăng sinh.(A)(B)(C)(A) Thiết diện mô học răng cối nhỏ dưới, được làm sạch, loại bỏ calci chothấy hai ống tủy bên.(B) Trám bít R21 với hai ống tủy bên mở ra tại vò trí sang thương bên.(C) Một năm sau lành thương.Tỷ lệ của ống tủy bên tại vùng chẽ chân răng : 46% trên răng cốilớn thứ nhất và 50% tới 60% tại bất cứ các răng nhiều chân. Một nghiêncứu khác cho thấy cả hai răng cối lớn trên và dưới có ít nhất là 2foramen nơi vùng chẽ chân răng.Mới đây sự đánh giá về mô học trường hợp bổ đôi răng và cắt bỏchân răng còn tồn tại bệnh nha chu và bệnh tủy cho thấy những ống tủybên không được điều trò có chứa đựng mô tủy, vi khuẩn và các chất cặnbã hoại tử. Và đưa đến kết luận những chất cặn bã của mô tủy ở nhữngống tủy không được điều trò có thể dẫn tới bệnh lý vùng quanh chóp.Những ống ngàNgoài ra những ống ngà là đường mòn có khả năng trong việc vậnchuyển giữa tủy và vùng quanh chóp. Năm 1963, dựa trên thuyết về thủylực học đưa ra để giải thích cơ chế của sự nhậy cảm của ngà. Các chuyêngia, họ tin rằng sự di chuyển của dòch ống ngà là nguyên nhân của sựkích thích những sợi thần kinh của mô tủy. Tiếp đến, khi những mặt chânrăng được điều trò làm lộ những ống ngà, mà nơi đó có sự di chuyển dòchvà hậu quả gây nhậy cảm của tủy. Khi tủy chết, dù có sự thoái hóa tếbào tạo ngà và sợi collagen xảy ra, nhưng vẫn tiếp tục làm gia tăng độngấm của những ống ngà và mang theo những độc tố từ tủy tới mô bámdính.Quan sát dưới kính hiển viđiện tử quét cho thấy những ốngngà trống rỗng, không có tế bàotạo ngà.Xê măng chân răng được lấy đi hay việc xử lý ngà bằng acid trongthủ thuật nha chu cũng làm gia tăng khả năng của vi khuẩn và những sảnphẩm của bệnh tủy hay viêm nha chu xâm nhập vào những ống ngà.Bởi vậy, hậu quả của bệnh tủy lên mô nha chu là đường viêm trựctiếp.
Tài liệu liên quan
- NỘI NHA LÂM SÀNG
- 10
- 7
- 174
- Tài liệu slides lien ket noi nha lam sang pdf
- 5
- 1
- 55
- BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP : CƠ CHẾ, DỊCH TỄ, LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐOÁN - PHẦN 2 pdf
- 22
- 700
- 2
- CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM CẬN LÂM SÀNG ỐNG TIÊU HOÁ – Phần 1 pot
- 12
- 475
- 1
- CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM CẬN LÂM SÀNG ỐNG TIÊU HOÁ – Phần 2 potx
- 10
- 367
- 1
- Xét nghiệm cận lâm sàng trong bệnh đường hô hấp
- 33
- 725
- 5
- Bức tranh “Việt Bắc ra quân” là một bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí thế. Phân tích đoạn sau để làm sáng tỏ: Những đường Việt Bắc của ta ... Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
- 2
- 1
- 0
- TUYỂN TẬP NỘI DUNG TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG PHẦN KIẾN THỨC TỰ CHỌN MODUNLE 1 ĐẾN MODUNLE 5 ĐÃ ĐƯỢC CHUYỂN THÀNH FILE WORD VÀ CHẮT LỌC NỘI DUNG NGẮN GỌN CHO GIÁO VIÊN HỌC TẬP THEO THÔNG TƯ 22/2016.
- 75
- 860
- 0
- TUYỂN TẬP NỘI DUNG TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG PHẦN KIẾN THỨC TỰ CHỌN MODUNLE 6 ĐẾN MODUNLE 10 ĐÃ ĐƯỢC CHUYỂN THÀNH FILE WORD VÀ CHẮT LỌC NỘI DUNG NGẮN GỌN CHO GIÁO VIÊN HỌC TẬP THEO THÔNG TƯ 302014
- 72
- 977
- 0
- TUYỂN TẬP NỘI DUNG TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG PHẦN KIẾN THỨC TỰ CHỌN MODUNLE 16 ĐẾN MODUNLE 20 ĐÃ ĐƯỢC CHUYỂN THÀNH FILE WORD VÀ CHẮT LỌC NỘI DUNG NGẮN GỌN CHO GIÁO VIÊN HỌC TẬP THEO THÔNG TƯ 302014
- 120
- 889
- 0
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(1.93 MB - 43 trang) - Nội nha lâm sàng Bùi Quế Dương phần 7,8,9,10 Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Cây Lèn Ngang
-
Lèn Ngang Spreaders Mani (15-40) - Nha Việt Dental
-
Lèn Ngang Finger Spreaders Mani - Nam Dũng Medical
-
Cây Lèn Ngang FINGER SPREADERS MANUAL
-
Lèn Ngang Spreaders Mani - Web Vật Liệu Nha Khoa Hà Nội
-
Lèn Ngang - Mani - 49P Dental Market
-
Cây Lèn Ngang FINGER SPREADERS MANUAL - Hộp 4 Cái
-
Lèn Ngang ABCD Finger Spreader Cán KL (4cây/vĩ)
-
Phương Pháp Lèn Ngang Nguội Trong Nội Nha - YouTube
-
Spreader Cây Lèn... - Tiếng Anh Răng Hàm Mặt | Facebook
-
Cây Lèn Ngang FINGER SPREADERS MANUAL - Hộp 4 Cái
-
Cây Lèn Ngang - Tiếng Anh Răng Hàm Mặt - Facebook
-
Nơi Bán Lèn Ngang Giá Rẻ, Uy Tín, Chất Lượng Nhất - Websosanh
-
ĐIỀU TRỊ TỦY RĂNG VÀ HÀN KÍN HỆ THỐNG ỐNG TỦY BẰNG ...