Nụ Tầm Xuân | Phanxipăng

Trèo lên cây bưởi, hái hoa,

Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

Em có chồng, anh tiếc lắm thay!

K

húc ca dao cổ truyền và quen thuộc ấy đầy đủ gồm 10 dòng, đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bản “dân ca mới” tại Sài Gòn vào năm 1956:

            – Trèo lên cây bưởi hái hoa,

            Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.

            Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

            Em có chồng, anh tiếc lắm thay!

            – Đắt gì một miếng trầu cay, (1)

            Sao anh không hỏi những ngày còn không?

            Bây giờ em đã có chồng,

            Như chim vào lồng, như cá cắn câu.

            Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ?

            Chim vào lồng, biết thuở nào ra?

Người yêu văn nghệ còn biết những bài hát khác được sáng tác và biểu diễn thời gian gần đây, như Ôi nụ tầm xuân của Ngô Tùng Vân, Đánh thức tầm xuân của Dương Thụ. Cũng đã xuất hiện những áng thơ, truyện ngắn, tuỳ bút nhắc đến tầm xuân.

Đáng quan tâm là khá đông bạn đọc thắc mắc:

– Hoa tầm xuân ra sao? Có công dụng gì? Lẽ nào tầm xuân trổ hoa màu xanh?

Tầm xuân còn nhiều tên khác như hồng dại, hồng dây, hồng leo, thích hoa, bạch tán hoa, hoà thượng đầu, ngưu cúc, tường mi, dã tường vi, đa hoa tường vi, thất tỉ muội, thập tỉ muội. Tên khoa học của tầm xuân là Rosa multiflora Thumb., thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).

Tầm xuân là cây mọc hoang, cũng lắm khi được người ta trồng cảnh. Tầm xuân trổ lá kép lông chim, thân nhiều gai. Hoa tầm xuân khá đẹp, toả mùi thơm nhẹ, nở thành chùm với nhiều màu sắc khác nhau: hồng, đỏ, trắng, vàng. Thực tế, trong điều kiện tự nhiên, chưa thấy hoa tầm xuân nở những cánh màu xanh. Quả tầm xuân khi chín màu vàng, chứa nhiều vitamin C, A, D, B1, B2.

Tầm xuân hồng ở giáo đường Khoái Đồng, Nam Định. Ảnh: Phanxipăng

Bản thảo cương mục, bộ sách chuyên về dược vật học do Lý Thời Trân biên soạn vào đời Minh, ghi nhận: tầm xuân trổ hoa màu trắng được đánh giá tốt nhất đối với việc làm thuốc. Theo Đông y cổ truyền, tầm xuân vị đắng, chát, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, khu phong hoạt lạc, giải độc, sát khuẩn.

Hoa tầm xuân được dùng để chữa các bệnh cảm nắng, cảm nóng, chảy máu cam, nôn ra máu, sốt rét, u tuyến giáp, tiểu đường. Quả tầm xuân được dùng để chữa táo bón, tiểu tiện khó khăn, đau bụng khi hành kinh, phù do viêm thận. Lá tầm xuân được dùng để chữa ung nhọt, viêm loét. Rễ tầm xuân được dùng để chữa đau răng, lở miệng, vàng da (hoàng đản), rong huyết, kinh nguyệt không đều, khí hư, tiểu tiện không tự chủ, liệt mặt và di chứng liệt nửa người do tăng huyết áp.

Có kẻ sao vàng các cánh hoa tầm xuân để pha nước uống, hoặc tô điểm như gia vị vào một số món ăn thích hợp. Tầm xuân còn được khéo léo cắm thành những bình hoa xinh xắn.

Cắm hoa tầm xuân

Chưa rõ do vô tình hoặc cố ý, người ta gọi một vài loài hoa khác bằng tên tầm xuân. Chẳng hạn đào tuyết / đào Tàu / đào Singapore, trổ những bông hoa trắng ngần và thường được nhuộm nhiều màu để chưng cho bắt mắt. Hoặc đậu biếc / đậu thơm, tên khoa học Lathyrus Odoratus L. thuộc họ Đậu cánh bướm (Fabaceae), loài dây leo nở những đoá hoa nhiều màu khác nhau – trắng, đỏ, hồng, tím – mà ở Việt Nam phổ biến nhất là giống trổ hoa tím phớt trắng và vàng. Màu tím của hoa đậu biếc thiên về xanh. ♥

Đào tuyết / đào Tàu / đào Singapore. Ảnh: Phanxipăng

_________________

(1)   Dị bản: Ba đồng một mớ trầu cay.

● Phanxipăng

Đã đăng Thế Giới Mới 773 (3-3-2008)

Chia sẻ:

  • Facebook
  • X
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Em đi Lấy Chồng Anh Tiếc Lắm Thay