Núi Bà Rá – Wikipedia Tiếng Việt

Núi Bà Rá
Một góc nhìn đẹp về núi Bà Rá
Độ cao724,6m so với mực nước biển[1]
Vị trí
Vị tríPhước Long, Đồng Nai, Việt Nam
Tọa độ11°49′01″B 107°00′03″Đ / 11,816906°B 107,000906°Đ / 11.816906; 107.000906 (Núi Bà Rá)

Núi Bà Rá là một ngọn núi nằm trên địa phận phường Phước Long, tỉnh Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ, Việt Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 160 km về phía tây bắc. Đây là ngọn núi cao thứ 3 ở Nam Bộ.[2]

Địa chất và thổ nhưỡng

[sửa | sửa mã nguồn]

Núi là một khối đá granit khổng lồ là kết quả của các đá xâm nhập granitoid của phức hệ Bà Rá (trước được xếp vào phức hệ Định Quán). Tuổi đồng vị phóng xạ K/Ar trên khoáng vật biotit của monzonit Bà Rá đạt 104 ± 2,3 triệu năm, được xếp tuổi Creta sớm.[3] Loại đất chủ yếu trên núi Bà Rá là đất vàng đỏ trên đá granit.[4]

Núi Bà Rá với tầng rừng vượt tán có thể thấy rõ từ dưới chân núi

Đa dạng sinh học và bảo tồn

[sửa | sửa mã nguồn]

Thực vật

[sửa | sửa mã nguồn]

Khu hệ thực vật của núi Bà Rá thuộc hệ thực vật miền Đông Nam Bộ - khu hệ thực vật núi thấp dưới 1.000 m. Chi phối bởi khí hậu nóng ẩm mưa nhiều và địa hình vùng núi nên khu hệ thực vật là kiểu rừng kín thường xanh nửa rụng lá nhiệt đới ẩm. Tổng số các loài thực vật đã thống kê được (bao gồm cả các loài thuộc lớp 1 lá mầm và một số loài thực vật thuỷ sinh) là 982 loài thuộc 135 họ và 76 bộ trong đó có một số loài cây đặc trưng thuộc dang mục loài nguy cấp quý nhiếm như gõ đỏ, cẩm lai, da đá... Thảm thực vật núi Bà Rá đã bị tác động mạnh, chiếm ưu thế là rừng hỗn giao tre nứa và các loại cây nhỏ. Đến nay, Núi Bà Rá chưa ghi nhận loài nào có tầm quan trọng Quốc tế đối với công tác bảo tồn.[5]

Động vật

[sửa | sửa mã nguồn]

Núi Bà Rá có 260 loài động vật, trong đó lớp thú có 39 loài (chiếm 15% tổng số loài động vật), lớp Chim có 163 loài (chiếm 63% tổng số loài động vật), lớp Bò sát có 37 loài (chiếm 14% tổng số loài động vật) và lớp lưỡng cư có 21 loài (chiếm 8% tổng số loài động vật). Trong số các loài động thực vật ghi nhận được thì có nhiều loài đang ở mức nguy cấp, quý hiếm như cu li chậm lùn, khỉ đuôi dài, cầy giông, mèo báo, sóc đen, rắn hổ chúa…[5]

Hiện trạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Khu Quần thể văn hóa - cứu sinh núi Bà Rá thể hiện sự tác động của con người ở mức độ cao trong một thời kỳ lâu dài trước đây, như việc xây dựng ăng ten của trung tâm truyền hình ở trên đỉnh, phá đất rừng thành làm đất nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng và khai thác lâm sản trái phép cũng như việc cháy rừng.[6] Sự tác động này đã có ảnh hưởng cực kỳ xấu đến các quần thể động vật hoang dã và các sinh cảnh tự nhiên của chúng trong vùng.

Từ năm 1996, Ban quản lý khu văn hóa lịch sử đã tiến hành nhiều hoạt động khác nhau như trồng và bảo vệ rừng, xây dựng cơ sở vật chất trong khu vực.[7]

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Bà Rá bắt nguồn từ tên gọi của người Xtiêng là Bnom Brah, có nghĩa là "ngọn núi thần" hoặc Yumbra, tên một vị thần (giàng) được thờ trên núi.[8] Người Khmer gọi tên núi là Phnom Choeung Preai/Preás/Preah (tiếng Khmer: ភ្នំជើងព្រះ) (nghĩa là "núi chân Phật"[9]) hoặc Yok Nam Preah.[10] P. De Barthélémy, một sĩ quan người Pháp, trong chuyến thám hiểm vùng này đã gọi tên núi là Djambra.[11]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời nhà Nguyễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Núi Bà Rá có khả năng đã được nhắc đến trong Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Biên Hòa khi nói về núi Thần Quy như sau:

...Sống chính của núi sức mạnh khí lớn, ngọn Qui Sơn nổi vọt, vị trí ở về tây bắc, đỉnh nhọn cao vót, là núi Thái Tổ một phương, núi non trùng điệp, hình thế chạy dài, hai bên tả hữu làm thành các núi Bào Chinh, Chứa Chan, Lai Sơn, Nục Sơn, Liên Sơn, Tiều Nghiêu, lại làm các núi Mỗi Xoài, Bà Rịa, Thuỳ Vân ra đến tận biển mới dừng. Phía bắc núi là địa giới thuộc man của Thuận Thành; phía nam núi là địa giới thuộc man của Biên Hoà; chi phía hữu quanh từ tây sang nam là núi Có, núi Bà Rá, núi Lấp Vò, gò đống lên xuống, qua eo xuyên ruộng, bỏ xuống thành những ngọn phẳng ngọn tròn, hình dáng bất nhất, lại làm thành núi Bà Đinh, núi Lô Yêm đến sông cái nước Cao Mên mới dừng.[ghi chú 1]

Thời Pháp thuộc

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt thời Pháp thuộc, nhiều nhà nghiên cứu người Pháp như: P.De Barthélémy, P.Raulin, J.Dournes, Bernard Bourotte... đã có những bài viết về người Xtiêng và vùng đất Phước Long cũng như các phái đoàn được cử đi thám hiểm vùng đất phía bắc Thủ Dầu Một và Biên Hòa, trong đó có núi Bà Rá để thiết lập các bộ máy hành chính trong vùng, tiêu biểu như phái đoàn Barthélémy (1900), Paul Patté (1904), Henri Maître (1909).

Sàng gạo
Đánh bắt cá trên sông Bé

Năm 1900, ông P. De Barthélémy khi đi khảo sát vùng núi Bà Rá đã mô tả các làng S’tiêng ở vùng Bà Rá như sau: "người S’tiêng cư trú dọc sông Bé, săn bắn và bắt cá là hai nguồn sống quan trọng đối với họ. Ở một số làng người S’tiêng lúc đó đã biết làm ruộng"[11]

Theo thư của Thống đốc Nam Kỳ François Pierre Rodier gửi Trưởng đoàn thám hiểm Paul Patté, vùng phía bắc hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một “nói chung là địa bàn cư trú của người Mọi, thích sống riêng biệt, tự lập... Khi phong tục, tập quán bị xúc phạm thì họ trở nên vô cùng nguy hiểm... Phía tả ngạn sông Bé, gần núi Bà Rá, có những người thích sống một mình một cõi, theo tục cà răng, đốt tro để làm muối... Đường đi khó khăn, không có đường lớn, toàn là đường mòn quanh co, nhỏ hẹp, ở vùng núi đồi”.[12]

Trong thời gian cai trị vùng này, người Pháp đã đã thi hành những chính sách gây bất bình với công nhân người Kinh và dân tộc bản địa. Trong những năm từ 1915 đến 1925, một phụ tá của N'Trang Lơng là Bu Luk-Amprak (chủ làng người M'Nông ở lưu vực sông Đắk Huýt) đã trở thành người lãnh đạo phong trào chống thực dân Pháp của đồng bào S'tiêng, M'Nông trên địa bàn phía bắc Đồng Nai ngày nay, hoạt động mạnh nhất là ở khu vực xung quanh núi Bà Rá.

Thiếu nữ S'tiêng ở núi Bà Rá
Thiếu nữ Khmer ở núi Bà Rá

Từ năm 1925, thực dân Pháp dùng lực lượng quân sự lớn do thiếu tá Carrier chỉ huy tiến hành càn quét vùng Bà Rá, vừa nhằm dập tắt phong trào kháng chiến, vừa để mở con đường thuộc địa 14 nối từ Sài Gòn đến cao nguyên và miền duyên hải Trung Kỳ. Trong hai mùa khô 1925-1926 và 1926-1927, những cuộc càn quét liên tục của quân Pháp làm xáo trộn cuộc sống của cư dân tại địa phương, nhà cửa và nương rẫy bị phá, nhiều thanh niên bị bắt đi làm lao dịch...Bất bình và căm phẫn trước hành động của người Pháp, người S'tiêng lại nổi dậy dưới sự chỉ huy của R’Đing. Chiến công tiêu biểu là trận phục kích tiêu diệt tên Gatille - phụ trách đại lý Snuol, kiêm chỉ huy trưởng công trường làm đường 14 vào tháng 1-1931.[13][14]

Ông Auguste Morère, khoảng năm 1928-1930

Tháng 10 năm 1933, hai người S'tiêng là Điểu Môn và Điểu Mốt đã vận động người dân Xtiêng tiêu diệt ông Auguste Morère, thống chế của lực lượng hiến binh địa phương.[15][14]

Nhà tù Bà Rá được thực dân Pháp xây dựng tại chân núi Bà Rá vào năm 1925, đến ngày 31 tháng 7 năm 1940 thì đổi tên thành “Trại tập trung đào tạo những người lao động đặc biệt” để giam giữ tù nhân chính trị, chủ yếu là những người tham gia vào Nam Kỳ khởi nghĩa mà họ cho là “các cá nhân nguy hiểm đối với quốc phòng và an ninh công cộng”. Nhà tù gồm một nhà tù lớn với 3 camp (trại): Camp A giam giữ bọn trộm cướp, lưu manh; camp B giam giữ thường phạm, những người bị tình nghi là cộng sản nhưng không thành án; camp C, giam giữ tù chính trị, nổi bật như Tô Ký, Trần Văn Giàu, Nguyễn Thị Định. Số lượng tù nhân bị giam giữ tại đây vào năm 1941 là hơn 1.300 người, trong đó có 51 tù nhân là nữ và 150 tù nhân là người thuộc các tỉnh Kampong Cham, Kampong Thom, Kratié, Battambang, Prey Veng, Phnôm Pênh thuộc Campuchia.[16]

Thời Chiến tranh Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1963, núi còn có tên là núi Phước Sơn.[11] Núi là một trong những cứ điểm quan trọng của cả hai bên trong Chiến dịch đường 14 – Phước Long.[17]

Ở thời điểm này, các vị trí trên đỉnh núi ở Việt Nam chủ yếu do quân Mỹ kiểm soát, trong khi chân và giữa các ngọn núi do quân Giải phóng kiểm soát. Núi Bà Rá được mô tả trong hồi lý của lính Mỹ như sau:[18]

Đỉnh núi Bà Rá, rộng khoảng 50 đến 75 yard vuông và có hình dạng gần như vuông vức, được bao quanh bởi một bức tường tre rộng khoảng 4 feet, phủ đầy đất và có dây thép gai, được xây dựng gần mép vách đá dốc đứng xuống khu rừng rậm rạp phía dưới, cách đó khoảng 20 đến 30 yard. Bên trong chu vi đơn sơ này có một bãi đáp trực thăng, một vài túp lều tre và một số chiến hào cùng các vị trí chiến đấu. Dọc theo bên ngoài hàng rào dây thép gai, hệ thống phòng thủ bao gồm một hệ thống cảnh báo sớm bằng pháo sáng và vũ khí chống bộ binh như lựu đạn, mìn Claymore và mìn Bouncing Betty, loại mìn bật lên khỏi mặt đất khi bị giẫm lên và phát nổ trên không, gây sát thương tối đa ở độ cao ngang thắt lưng hoặc đầu.

Năm 1968-1969, theo quy trình hoạt động tiêu chuẩn mới, Đại đội E, Trung đoàn Bộ binh 52 (LRP) của Hoa Kỳ đang tác chiến tại khu vực sẽ cung cấp cho mỗi lữ đoàn một đội liên lạc Lurp gồm một trung sĩ và một người vận hành máy vô tuyến. Các Lurp sẽ thiết lập và duy trì hai đội tiếp sóng vô tuyến trên đỉnh hai ngọn núi lớn nhất trong khu vực tác chiến Núi Bà Đen gần Tây Ninh để phủ sóng nửa phía tây khu vực của sư đoàn và núi Bà Rá gần sông Bé để phủ sóng nửa phía đông.[19]

Thời kỳ thống nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Di tích lịch sử núi Bà Rá đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia vào ngày 20-4-1995.[16] Hiện núi là một trong những điểm du lịch sinh thái - tín ngưỡng nổi tiếng ở khu vực Đông Nam Bộ.

Lễ hội miếu Bà

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo lời của nhân dân địa phương, năm 1943 miếu được xây dựng để tưởng nhớ bốn tù chính trị bị chôn sống ở gốc cây cầy hiện nay, do những tù nhân chính trị ở nhà tù Bà Rá bí mật xây dựng và làm bài vị thờ tượng trưng có ghi 4 chữ Hán "Chúa Xứ Nương Nương" (主處娘娘) nhằm che mắt thực dân nên đặt tên là miếu Bà để cho chúng công nhận ngôi miếu này.

Năm 1956-1957, tỉnh Phước Long được thành lập, một số người dân đã tiến hành dời miếu lên sát đường lộ (cách nơi cũ 500 mét) để bà con tiện đi lại thờ cúng, và cũng từ lúc này Miếu Bà mới có 3 bức tượng thờ. Miếu Bà Rá là một công trình kiến trúc tín ngưỡng thờ Mẫu, nằm trong quần thể di tích lịch sử Bà Rá đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, nó không chỉ là nơi thờ cúng tín ngưỡng của nhân dân mà còn là một trong những chứng tích về sự xâm lược của thực dân Pháp trên vùng đất Phước Long.[20]

Hàng năm vào ngày mùng 1-4 tháng 3 âm lịch, đông đảo khách thập phương trong và ngoài tỉnh hành hương về đây để "Vía Bà".

Diễn biến lễ hội

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ngày mùng 1 tháng 3 ÂL: Ban tổ chức tiến hành làm lễ thay y phục, tắm tượng đến 12 giờ đêm cùng ngày làm lễ rước Bà về.
  • Ngày mùng 2: Tối làm lễ tế Bà khoảng 1 giờ đồng hồ, sau đó để khách hành hương vào làm lễ dâng hương, lễ Bà và xin lộc.
  • Ngày mùng 3 tiếp tục khách thập phương dâng lễ.
  • Ngày mùng 4 Ban tổ chức làm lễ tạ Bà vào buổi trưa, kết thúc lễ hội.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Bản dịch của Nha Văn hóa thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa năm 1959 chép là "núi Bà Dã (󰜏野)"

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 - thị xã Phước Long
  2. ^ Hồng Khanh (ngày 2 tháng 10 năm 2024). "Khám phá 3 ngọn núi cao nhất Nam Bộ". Báo điện tử VTC News. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2025.
  3. ^ Địa chí Bình Phước, tập 1. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2015. tr. 20. ISBN 978-604-57-1979-4.
  4. ^ Địa chí Bình Phước, tập 1. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2015. tr. 119. ISBN 978-604-57-1979-4.
  5. ^ a b "Một vài nét về khu rừng bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh Núi Bà Rá". Cổng thông tin điện tử Chi cục kiểm lâm tỉnh Bình Phước. ngày 25 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2025.
  6. ^ "Cháy dữ dội rừng đặc dụng núi Bà Rá giữa trưa". TUOI TRE ONLINE. ngày 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2025.
  7. ^ "Khu VH-LS Núi Bà Rá". thiennhienviet.org.vn. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2025.
  8. ^ "Di tích lịch sử, danh thắng núi Bà Rá – Thác Mơ - Niềm tự hào của tỉnh Bình Phước". Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Bình Phước. ngày 15 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2025.
  9. ^ Maître, Henri (1912). Les jungles moï: exploration et histoire des hinterlands moï du Cambodge, de la Cochinchine, de l'Annam et du bas Laos (bằng tiếng Pháp). E. Larose. tr. 259.
  10. ^ "Monographie de la province de Bien Hoa – THƯ VIỆN TỈNH ĐỒNG NAI" (bằng tiếng Anh). tr. 13. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2025.
  11. ^ a b c MEDIATECH. "Huyền thoại miếu Bà Phước Long (Bài 1)". baobinhphuoc.com.vn. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2025.
  12. ^ Địa chí Bình Phước, tập 1. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2015. tr. 348–349. ISBN 978-604-57-1979-4.
  13. ^ Địa chí Bình Phước, tập 1. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2015. tr. 352–353. ISBN 978-604-57-1979-4.
  14. ^ a b Hickey, Gerald Cannon (1964). The Major Ethnic Groups of the South Vietnamese Highlands (bằng tiếng Anh). Rand Corporation.
  15. ^ Địa chí Bình Phước, tập 1. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2015. tr. 357. ISBN 978-604-57-1979-4.
  16. ^ a b Địa chí Bình Phước, tập 1. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2015. tr. 668. ISBN 978-604-57-1979-4.
  17. ^ "Chiến dịch Đường 14-Phước Long - đòn trinh sát chiến lược". Báo Quân đội Nhân dân. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2025.
  18. ^ Blehm, Eric (ngày 28 tháng 4 năm 2015). Legend: The Incredible Story of Green Beret Sergeant Roy Benavidez's Heroic Mission to Rescue a Special Forces Team Caught Behind Enemy Lines (bằng tiếng Anh). Crown. ISBN 978-0-8041-3952-6.
  19. ^ Jorgenson, Kregg P. (ngày 18 tháng 12 năm 2007). LRRP Company Command: The Cav's LRP/Rangers in Vietnam, 1968-1969 (bằng tiếng Anh). Random House Publishing Group. tr. 69. ISBN 978-0-307-41592-9.
  20. ^ MEDIATECH. "Di tích miếu Bà Rá và đường tới Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia". baobinhphuoc.com.vn. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2025.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện về Núi Bà Rá.
  • Cổng thông tin điện tử Bình Phước
  • Lễ hội miếu Bà Rá Phước Long-Sơn Giang-Bình Phước Lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Wayback Machine
  • x
  • t
  • s
Du lịch Bình Phước
Thắng cảnhVQG Cát Tiên • VQG Bù Gia Mập • Thác Số 4 • Thác Đăk Mai • Thác Voi • Thác Mơ • Thác Đứng • Trảng cỏ Đồng Nai • Trảng cỏ Bàu Lạch • Hang Bà Bảy Tuyết • Núi Bà Rá • Hồ Dầu Tiếng
Lịch sử-Văn hóaBệnh viện Lộc Ninh • Đình thần Hưng Long • Sóc Bom Bo • Chùa Sóc Lớn • KDL ST Mỹ Lệ • Mộ tập thể 3000 người
Lịch sử-Cách mạngChiến thắng Tàu Ô • Căn cứ Quân giải phóng miền Nam  • Nhà giao tế Lộc Ninh • Căn cứ Bộ chỉ huy miền Tà Thiết • Bến đò Thôn 1 • Phú Riềng Đỏ • Căn cứ Quân uỷ - Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam • Căn cứ Cục hậu cần Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1973–1975) • Kho xăng Lộc Quang - VK98 • Kho xăng Lộc Hòa - VK99 • Nhà tù núi Bà Rá • Sân bay Lộc Ninh
Lễ hộiLễ hội Quả Điều Vàng Việt Nam • Tết mừng lúa mới (Người M'Nông)
Di sản UNESCOĐờn ca tài tử Nam Bộ
Du lịch Việt Nam

7 khu du lịch quốc gia • An Giang • Bà Rịa – Vũng Tàu • Bạc Liêu • Bắc Giang • Bắc Kạn • Bắc Ninh • Bến Tre • Bình Dương • Bình Định • Bình Phước • Bình Thuận • Cà Mau • Cần Thơ • Cao Bằng • Đà Nẵng • Đắk Lắk • Đắk Nông • Điện Biên • Đồng Nai • Đồng Tháp • Gia Lai • Hà Giang • Hà Nam • Hà Nội • Hà Tĩnh • Hải Dương • Hải Phòng • Hậu Giang • Hòa Bình • Thành phố Hồ Chí Minh • Hưng Yên • Khánh Hòa • Kiên Giang • Kon Tum • Lai Châu • Lạng Sơn • Lào Cai • Lâm Đồng • Long An • Nam Định • Nghệ An • Ninh Bình • Ninh Thuận • Phú Thọ • Phú Yên • Quảng Bình • Quảng Nam • Quảng Ngãi • Quảng Ninh • Quảng Trị • Sóc Trăng • Sơn La • Tây Ninh • Thái Bình • Thái Nguyên • Thanh Hóa • Thừa Thiên Huế • Tiền Giang • Trà Vinh • Tuyên Quang • Vĩnh Long • Vĩnh Phúc • Yên Bái

Từ khóa » Núi Bà Rá Thác Mơ