OC EO - Hộ Mệnh
Có thể bạn quan tâm
Óc Eo là tên gọi do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đề nghị đặt cho một địa điểm nằm ở phía nam tỉnh An Giang thuộc đồng bằng sông Cửu Long (huyện Thoại Sơn). Nơi này có thể đã từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7.
Óc Eo đã từng được nối bằng một kênh đào dài 90 kilômét về phía bắc với Angkor Borei, nơi có lẽ từng là thủ đô của vương quốc Phù Nam. Lý do quan trọng nhất cho sự thịnh vượng của Óc Eo là do vị trí của nó trên trục đường thương mại trên biển giữa một bên là bán đảo Mã Lai và Ấn Độ và bên kia là sông Mêkông cùng với Trung Quốc. Vào thời kỳ phồn thịnh của Óc Eo và Phù Nam, tàu thuyền trong khu vực có thể thực hiện những hải trình rất dài mà không phải đi dọc theo bờ biển. Do vậy mà về mặt chiến lược, Óc Eo là một địa điểm trung chuyển rất thuận lợi.
Khai quật
Vào thập niên 1920, nhà khảo cổ học người Pháp đã dùng không ảnh chụp miền nam Việt Nam và phát hiện ra địa điểm này cùng với nhiều kênh đào và các thành phố cổ khác. Một trong những kênh đào này đã cắt tường thành của một khu vực rất rộng. Malleret thử tìm kiếm các cấu trúc này trên mặt đất và vào ngày 10 tháng 2 năm 1944, ông bắt đầu đào các hố khai quật. Malleret đã phát hiện được các di vật và nền móng các công trình chứng minh cho sự tồn tại của một địa điểm thương mại lớn mà các thư tịch của Trung Hoa đã từng miêu tả về vương quốc Phù Nam. Khu vực này rộng ước chừng 450 hécta.
Các kênh đào tách ra từ kênh đào chính tạo nên các hình chữ nhật đều đặn bên trong thành. Bên trong các khu vực hình chữ nhật này còn sót lại những dấu tích của các khu sản xuất đồ nữ trang, trong số các dấu tích tìm thấy các “hình khối” dùng để rót kim loại cùng với các đồ nữ trang. Các khu sản xuất thủ công mỹ nghệ khác cũng được tìm thấy tại đây. Malleret cũng khẳng định những di vật văn hóa ở đây thuộc hai giai đoạn. Cũng có các móng nhà bằng gỗ và các móng nhà bằng gạch của các toà nhà rộng hơn. Các viên gạch được trang trí bằng các hình sư tử, rắn mang bành, động vật một sừng và các động vật khác.
Làm muối
Chạc gốm cho lò nấu muối ở gò Ô Chùa
Sau cuộc khảo sát đầu tiên vào tháng 5 năm 2003 với những kết quả đáng ngạc nhiên sẽ tiếp tục một dự án khai quật mới về vấn đề “Sản xuất muối sớm ở Đông Nam Á” tại địa điểm Gò Ô Chùa.
Trên Gò Ô Chùa có chiều dài 450 m, rộng 150 m, cao 2-4 m đoàn khảo cổ phát hiện được vài mộ táng và nhiều lớp văn hóa của thiên niên kỷ I TCN. Trong khi khai quật những lớp phía dưới vài ngôi mộ các nhà khảo cổ phát hiện tầng đất có độ dày 1 m chứa nhiều nghìn mảnh chạc gốm. Các di vật này nằm dầy đặc và còn tiếp tục xuất lộ cho tới độ sâu 2,50 m dưới lớp đất canh tác hiện đại, có cảm tưởng dường như đây là một “bãi phế thải chạc”. Ở Việt Nam, và ngay cả ở Đông Nam Á cũng chưa có nơi nào đã tìm thấy loại gốm ba chạc nhọn nhiều đến như vậy. Thêm nữa, hình dạng của loại chạc gốm này tất cả đều kỳ lạ. Thế nhưng, ở châu Âu có nhiều khu vực cư trú vào thời kỳ 3000-2000 năm trước đây, người ta đã tạo ra những chạc gốm tương tự loại đã tìm thấy ở Gò Ô Chùa để dùng cho việc làm muối. Hầu như trên thế giới, vào thời cổ nghề sản xuất muối đều có những dụng cụ giống nhau – chạc gốm Gò Ô Chùa cũng là một trong những số đó. Qua nghiên cứu một số mẫu than tro do diêm dân để lại bằng phương pháp cácbon 14, kết quả cho thấy làng cổ này đã tồn tại cách ngày nay khoảng 3000 đến 2000 năm. Địa điểm này là chỗ nấu muối cổ đầu tiên ở Việt Nam. Nhưng những câu hỏi thú vị xuất hiện là, tại sao nó lại nằm cách xa bờ biển ngày nay đến 150 km – đây là điều cần được làm sáng tỏ trong những năm sau. Để giải quyết một số vấn đề về cảnh quan ngày xưa, một cuộc điều tra địa mao học được thực hiện vào tháng 3 – 4 năm 2004 xung quanh Gò Ô Chùa. Khu vực giữa Gò Ô Chùa đến bờ biển không cao hơn mực nước biển nhiều, chỉ vào khoảng vài mét. Trong thế Toàn Tân (Holocene) mực nước biển thay đổi nhiều: khoảng 20.000 năm trước mực nước biển thấp hơn ngày nay 120 m, thế nhưng ở thời điểm 5.000 năm trước, mực nước biển lại cao đến 5 m so với ngày nay. Sau đó, biển thấp xuống một cách dao động từ từ đến mực nước như ngày nay. Vì thế có thể rằng 3.000 năm trước đã có một vịnh biển kéo dài đến gần Gò Ô Chùa. Để kiểm tra giả thuyết trên các nhà khảo cổ Việt – Đức đã nghiên cứu các lớp đất xung quanh địa điểm này để chứng minh tầng trầm tích biển có niên đại bằng với trung tâm nấu muối Gò Ô Chùa. Họ đã làm 11 lỗ bằng một khoan tay có tổng độ sâu là 41 m và lấy 190 mẫu trầm tích để nghiên cứu tại Viện địa mạo học ở trường Đại học Bremen của Đức.
Tượng thần Visnu
Bình gốm có vòi bằng đất nung, văn hóa Óc Eo.
Thương mại
Nhiều loại đá quý, đá nửa quý, kim loại cùng nhiều hàng hóa khác đến từ chính thành phố chứng minh cho nền thương mại phát đạt của nó.
Nhiều loại tiền xu trong đó có tiền xu La Mã cũng được tìm thấy ở đây. Có tiền xu có hình Antoninus Pius và một bản sao của tiền xu Marcus Aurelius với một mặt để trống. Những đồng tiền La Mã cho thấy vị trí quốc tế của Óc Eo.
Phạm vi
Tên gọi Óc Eo ban đầu dùng để chỉ cấu trúc hình chữ nhật trong khu vực nhưng sau đó Malleret dùng để chỉ toàn bộ khu vực. Các nghiên cứu khảo cổ sau này cho thấy không gian của văn hóa Óc Eo có thể vươn rộng ra Núi Sam, Lò Mo (An Giang); Nền Chùa, Cạnh Đền, Mốp Văn … (Kiên Giang) ; Gò Tháp (Đồng Tháp).[1]
Sụp đổ
Trong suốt thế kỷ thứ 6 và thế kỷ thứ 7, các thương thuyền có thể di chuyển ngoài khơi xa với khoảng cách lớn hơn mà không phải dừng lại khắp nơi hay đi dọc theo bờ biển. Ngoài ra sức thu hút của Óc Eo cũng giảm dần vì hàng hóa thương mại của nó cũng không phong phú lắm. Sự trỗi dậy của Chân Lạp và thương mại vùng Mêkông báo hiệu thời kỳ suy vi của khu vực này.
Văn Hóa óc Eo (Tk1 – Tk6)
Khái quát về văn hóa óc Eo :
Văn hóa óc Eo phát triển từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên trên đồng bằng sông Cửu long, là nền văn hóa phát triển rực rỡ ở Đông Nam á vào thời cổ đại.
Những dấu vết của nền văn hóa này được tìm thấy ở khu Ba Thê, óc Eo, Núi Sam, Lò Mo (An Giang); Nền Chùa, Cạnh Đền, Mốp Văn … (Kiên Giang) ; Gò Tháp (Đồng Tháp). Cho đến nay hàng nghìn hiện vật thuộc văn hóa óc Eo đã tìm thấy như : rìu đá, đồ gốm, các tượng bằng gỗ, đá hay đồng ; đồ trang sức bằng đá, thủy tinh, vàng, bạc ; những hạt lúa cổ ; di cốt người, động vật. Đồng thời cũng tìm thấy những dấu vết kiến trúc cổ, mộ táng cổ … Những hiện vật tìm được chứng tỏ văn hóa óc Eo có một nền kinh tế rất phát triển, một trung tâm thương nghiệp phồn thịnh, có quan hệ kinh tế và văn hóa khá rộng rãi với vùng Đông Nam á, Trung Quốc, ấn Độ, Ba Tư và vùng Địa Trung Hải.
Văn hóa óc – Eo có tầm quan trọng rất lớn đối với việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa, tộc người vùng đồng bằng sông Cửu long, cũng như mối quan hệ của nó với thế giới vào những thế kỷ đầu công nguyên.
Các tư liệu và hiện vật trưng bày
Trưng bày một số tư liệu như: bản đồ về vị trí các di tích văn hóa óc Eo ở miền Tây và Đông Nam Bộ (Việt Nam); ảnh một số di vật quý hiếm, độc đáo và các loại hình hoa văn trên gốm óc Eo, tranh sơn dầu minh họa khung cảnh một di tích óc Eo, trong ấy có hình ngôi mộ cổ đã được khai quật.
Cùng với các tư liệu trên, có 244 hiện vật gốc được trưng bày tại đây thể hiện khá sinh động về bức tranh kinh tế – xã hội của vương quốc cổ Phù Nam gồm : 27 hiện vật bằng đá, 30 hiện vật bằng đồng, 39 hiện vật bằng gốm, 5 hiện vật bằng gỗ, 29 hiện vật bằng vàng, 36 hiện vật bằng đá quý, 3 hiện vật bằng thủy tinh, 75 hiện vật là kim loại khác như kẽm, bạc, thiếc . Đó là các loại: bàn nghiền, chày nghiền, khuôn đúc nữ trang, vòng đeo tay bằng đá; các loại đĩa, móc đeo, lục lạc, thần Visnu, bò Nandin bằng đồng; các dụng cụ làm gốm và các sản phẩm gốm như: tô, chén, đĩa, vật trang trí bằng gốm; các loại tượng Phật, cột nhà sàn bằng gỗ; những lá vàng, nhẫn có hình bò Nandin, đồng tiền bằng vàng; các xâu chuỗi, vòng đeo, con dấu bằng đá quý; các loại tiền, phù điêu, bùa đeo bằng các chất liệu kẽm, bạc .
Một số hiện vật tiêu biểu
-
- Lá vàng – TK1-6
Lá vàng dát mỏng nặng 2,28 gram, hình chữ nhật, chiều dài 3,8cm; chiều rộng 2,5cm.
Một mặt để trơn, một mặt được khắc hình phụ nữ đang ngồi quỳ gối chơi đàn. Người phụ nữ trong lá vàng được chạm khắc rất chi tiết: mặt hình trái xoan, miệng tươi cười, tóc rẽ ngôi chính giữa, lông mày cong và cao, hai bên cổ có hai hình tròn giống bông hoa có thể là đồ trang sức? Ngực để trần, căng tròn; tay trái gảy đàn, tay phải cầm cần đàn đang lần theo phím đàn. Cần đàn vươn cao về góc phải của lá vàng.
Lá vàng này được tìm thấy tại di tích óc Eo do L.Malleret – nhà khảo cổ học Pháp – khai quật năm 1944. Sự có mặt của nhiều lá vàng ở di tích óc Eo cho thấy trình độ tinh xảo của cư dân óc Eo trong việc chế tạo đồ kim hoàn trong những thế kỷ đầu công nguyên. Các chi tiết thể hiện trên lá vàng cũng phản ánh phần nào các sinh hoạt văn hóa tinh thần của cư dân óc Eo.
-
- Tượng Phật – Gỗ – TK5
Tượng Phật làm bằng gỗ sao, tìm thấy ở tỉnh Đồng Tháp (phía Nam Việt Nam). Tượng cao 1m59, được tạc đứng trên bệ sen cũng làm bằng gỗ, nét mặt hiền từ, hơi mỉm cười; tay trái đưa về phía trước, ngón tay bắt ấn “Vetarka”. Trên đỉnh đầu có nhục kế (Unisa), trái tai dài. Thân khoác áo cà sa dài gần tới chân. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đây là pho tượng Phật làm theo phong cách nghệ thuật Amaravati (Nam-ấn)?
Sự có mặt của pho tượng gỗ ở đây cho thấy, ngoài ấn Độ giáo, cư dân Phù Nam còn tiếp thu cả Phật giáo.
-
- Đồng tiền óc Eo – Bạc
Tiền đúc bằng bạc, hình tròn; đường kính 3,5cm. Tâm của đồng tiền dày và mỏng dần ra xung quanh. Tiền không có lỗ xâu cũng như không có đường gờ nổi viền mép như vẫn thường gặp ở những đồng tiền Trung Quốc đương thời. Mặt tiền đúc hình nửa mặt trời, phía trên có 6 tia, xen kẽ mỗi tia có một chấm nổi. Xung quanh đồng tiền đúc 19 chấm nổi, trên đồng tiền có hình 1 người đang đứng dang 2 chân, 2 tay.
Những đồng tiền này thường được cắt nhỏ làm nhiều mảnh để mua bán, trao đổi với nhau. Trong các di tích óc Eo, tiền kiểu này được tìm thấy khá nhiều, cho phép đoán định rằng, ở đây đã có một nền thương mại phát triển.
Rực rỡ cổ vật văn hoá Óc Eo – An GiangNhững di tích văn hoá Óc Eo, dấu vết của vương quốc Phù Nam được biết đến đầu tiên năm 1944, thuộc xã Vọng Thê, Thoại Sơn, An Giang. Óc Eo không chỉ là một di tích mà là một quần thể di tích phân bố trên sườn núi Ba Thê và cách đồng Óc Eo phẳng thấp trải rộng trên địa bàn hai tỉnh An Giang và Kiên Giang.
Hiện tại Óc Eo nằm sâu trong đất liền hơn 20 km nhưng theo các nhà địa chất, vào khoảng đầu Công nguyên, Óc Eo là một cửa biển thông qua vịnh Thái Lan.
Khi mới phát hiện, đa số các học giả nước ngoài đều hiểu sai về bản chất và nguồn gốc văn hoá Óc Eo. Họ thường trình bày nó như sự hình thành các vùng đất thực dân của Ấn Độ. Với những nguồn tư liệu mới, đặc biệt là kết quả của các nghiên cứu khai quật khảo cổ học ở miền Nam VN, Thái Lan, Mianma…đa số các nhà sử học từ Đông sang Tây đều cho rằng không thể hình dung Phù Nam là một đế quốc được tổ chức thống nhất thành một bộ máy cai trị và bóc lột mà chỉ là sự tập hợp của những tiểu quốc. Trong đó, mỗi tiểu quốc vẫn giữ nguyên tổ chức, tên gọi riêng và cả truyền thống của mình.
Sau đợt khai quật Óc Eo của Malleret năm 1994, công cuộc nghiên cứu nền văn hoá nổi tiếng này tạm thời gián đoạn bởi chiến tranh. Từ khi đất nước thống nhất đến nay, việc nghiên cứu, khai quật văn hoá Óc Eo được tiếp tục.
Hằng năm, di tích thuộc nền văn hoá này đã được các nhà khảo cổ học VN phát hiện, hàng loạt các cuộc khai quật với quy mô khác nhau đã được tiến hành tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả khai quật đã đem về cho các bảo tàng ở Nam Bộ hàng vạn hiện vật có giá trị lịch sử và văn hoá, đa dạng về chất liệu cũng như nguồn gốc.
Những hiện vật được tìm thấy cho ta thấy trình độ kỹ thuật khéo léo cũng như độ tinh xảo trong nhiều nghề thủ công của cư dân Óc Eo. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học trong 30 năm qua cũng cho thấy văn hoá Óc Eo đã hình thành và phát triển trên một cơ tầng văn hoá bản địa vững chắc. Hơn thế nữa, các nhà khảo cổ học đã bước đầu lần tìm và chứng minh sự phát triển trực tiếp của văn hoá Tiền Óc Eo tới Óc Eo.
Với hơn 300 hiện vật thuộc các chất liệu đồng gốm, đá, đồng, vàng… được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử đa số là độc bản của mỗi bảo tàng và của văn hoá Óc Eo, du khách có thể thấy được đời sống vật chất, đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng của người Óc Eo.
Đồ gốm trong các di tích thuộc văn hoá Óc Eo rất phong phú về loại hình. Điểm nổi bật của các Óc Eo là có cổ và miệng hẹp, những chiếc ấm có vòi với nhiều loại nắp mang phong cách riêng và hoa văn khắc vạch được vẽ bằng loại bút nhiều răng. Người Óc Eo đặt biệt ưa thích đồ trang sức bằng vàng và đá quý. Số lượng thu được của loại hiện vật này cho đến nay lên tới con số hàng ngàn cho ta thấy sự phồn thịnh của tầng lớp trên trong xã hội.
Đồng thời, sự tinh xảo trên một số đồ trang sức thể hiện rõ nét tài hoa của người thợ kim hoàn đương thời. Sưu tập tiền với nhiều loại chất liệu: Bạc, đồng, kẽm, có những đồng tiền được cắt tư, cắt tám để làm tiền lẻ tìm thấy ở Óc Eo khá phổ biến ở nhiều di tích ven vịnh Thái Lan, bán đảo Mã Lai và Mianma. Điều này cho thấy cả một dòng thương nghiệp nối liền Óc Eo với Ấn Độ Dương bằng đường biển thông qua vịnh Thái Lan và có thể có cả đường bộ theo đường nội địa.
Thông qua phòng trưng bày, ban tổ chức hi vọng người xem sẽ thấy rõ hơn sự phát triển biện chứng và nội tại của văn hoá Óc Eo cũng như quá trình tiếp biến của nó với bên ngoài thể hiện trên những tác phẩm bằng đá và đồng
Chùa Linh Sơn (Ba Thê) còn được gọi là chùa Phật bốn tay núi Ba Thê, là một trong những địa điểm hành hương nổi tiếng của tỉnh. Hiện chùa đang tọa lạc tại xã Vọng Thê (nay là thị trấn Óc Eo), huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam.
Chùa Linh Sơn, núi Ba Thê
Lịch sử chùa
Tượng Phật bốn tay và tấm bia đá cổ.
Chùa Linh Sơn được xây dựng vào năm 1913 (và được trùng tu mấy năm gần đây), cách chợ Vọng Thê khoảng 2 km về hướng Đông. Ngôi chùa nằm trên nền một gò đất cao, bên những đại thụ râm mát, bên triền núi Ba Thê, cạnh Khu di tích Nam Linh Sơn thuộc nền văn hóa Óc Eo.
Vào năm 1913, dân địa phương phát hiện một pho tượng Phật bốn tay ở tư thế đứng, cao 1,7 m, nằm sâu trong lòng đất khoảng hai mét, tại khu vực dân cư gần chợ Ba Thê. Trước đó, người dân cũng đã tìm thấy hai tấm bia được làm bằng đá bùn có chiều cao khoảng 1,80m, dày khoảng 0,22m, khắc chữ cổ mà nhiều nhà nghiên cứu nói có thể là chữ viết của dân tộc Phù Nam xưa. Vì vậy, dân quanh vùng khi ấy bèn góp công, góp của dựng lên ngôi chùa đặt tên là Linh Sơn Tự để tôn thờ tượng Phật và gìn giữ bia cổ.
Tượng Phật bốn tay
Các nhà chuyên môn cho biết, tượng Phật bốn tay mang mô típ mỹ thuật Bà-la-môn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ tương tự tượng thờ Bà Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc). Thực chất, đây là tượng tạc theo mô típ tượng thần Vinus có hình rắn naga bảy đầu làm thành tán che phía sau, thường gặp trong các tín ngưỡng chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo.
Nguyên thủy, tượng có màu đen của loại đá cổ. Sau khi khai quật lên, người ta cho đắp thêm phần chân để pho tượng có dáng ngồi theo tư thế kiết già, rồi còn sơn phết màu mè, khiến giá trị của nghệ thuật điêu khắc và vẻ đẹp tự nhiên của loại đá khoảng 2.000 năm tuổi bị mất đi…
Năm 1988, tượng Phật bốn tay được Bộ Văn hóa quyết định công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật. Ngày 24 tháng 5 năm 2009, pho tượng trên cùng 2 tấm bia đá cổ đều đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam trao danh hiệu lâu năm và lớn nhất nước[1].
Nằm trong khu di chỉ Nam Linh Sơn
Chùa Linh Sơn hiện nằm trong khu di chỉ Nam Linh Sơn. Bảng giới thiệu di chỉ cho biết:
Qua các cuộc khai quật vào năm 1998-1999, các nhà khảo cổ trong và ngoài nước đã tìm thấy 2 loại hình di tích văn hóa Óc Eo: Di tích kiến trúc và mộ táng. Di tích Nam Linh Sơn này, chỉ cách chùa Linh Sơn 60 m, có niên đại từ thế kỷ 1 sau C.N và tiếp tục tồn tại cho đến thế kỷ thứ 9. Đây là khối kiến trúc cung đình mang tính tôn giáo, có quan hệ mật thiết với khối kiến trúc và bao phế tích khác, hiện còn nằm sâu trong gò đất dưới nền chùa Linh Sơn.Như thế có thể nói pho tượng Phật bốn tay và hai bia đá cổ[2]vô tình tìm được, chỉ là phần rất nhỏ trong số cổ vật chưa được phát hiện. Nói khác hơn, bên dưới gò núi này, còn ẩn chứa bao điều bí mật về một nền văn hóa của một vương triều đã biến mất: Phù Nam.
| Cổng chùa Linh Sơn. | Một trong hai tấm bia đá cổ. | Một hố khai quật khảo cổ trong khu di tích Nam Linh Sơn, nằm cách chùa Linh Sơn 60m. | Bàn thờ chính trong chùa Linh Sơn. |
Phù Nam
Phù Nam là tên phiên âm Hán-Việt của một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng đầu Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Malaixia.
Quốc gia này tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp. Mãi đến thế kỷ 17–thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay.
Tên gọi
Tượng Phật bốn tay và tấm bia đá cổ thời Phù Nam, hiện ở chùa Linh Sơn (Ba Thê).
Chung quanh cái tên gọi Phù Nam, hiện vẫn còn đang tranh cải. Ý kiến được nhiều người tán đồng, đó là Phù Nam do chữ Fou Nan mà ra (gọi theo cách phát phát âm của người Trung Hoa). Từ ngữ này xuất phát từ ngôn ngữ Môn-Khmer cổ: Bonam, mà ngày nay nó được đọc là phnom, có nghĩa là núi, hoặc đồi.
Theo đó các vua Phù Nam đều lấy vương hiệu là Kurung bonam[1] có nghĩa là vua Núi.
Thủ đô của Phù Nam, theo sách Tân Đường thư là thành Đặc Mục, tiếng Phạn là Vyadhapura (có nghĩa là thành phố của những người đi săn), gần ngọn núi Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay[2].
Lịch sử vắn tắt
Truyền thuyết dựng nước
Theo Khang thịnh sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quí tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà-la-môn tên là Hỗn Điền.[3] Một số học giả phương Tây cho rằng truyền thuyết Hỗn Điền là dị bản của truyền thuyết Ấn Độ về Kaundinya.[4]
Vương triều của Kaundinya tồn tại khoảng hơn 150 năm, trải qua 3 đời vua. Các thư tịch cổ của Trung Quốc phiên âm tên 3 vị vua này là Hỗn Điền, Hỗn Bàn (127-217), và Hỗn Bàn Bàn (217-220).[4]
Hưng thịnh
Vật dụng sinh hoạt của cư dân Phù Nam.
Ngô Văn Doanh (2009) dẫn Lương thư cho biết rằng quốc vương cuối cùng của vương triều Kaundinya làm vua được 3 năm thì mất. Một vị tướng của Phù Nam mà Lương thư của Trung Quốc phiên âm là Phạm Mạn lên làm vua, lập ra vương triều họ Phạm. Theo Lương thư, làm vua được 3 năm thì Phạm Mạn mất. Con ông là Phạm Kinh Sinh nối ngôi, làm vua được khoảng 5 năm, đến năm 245 thì bị người anh họ tên Phạm Chiên giết chết để đoạt ngôi. Một người con khác của Phạm Mạn là Phạm Trường đã nổi dậy lật đổ được Phạm Chiên, nhưng cũng lập tức bị tướng của Chiên là Phạm Tầm giết. Phạm Tầm lên làm vua. Phù Nam dưới vương triều họ Phạm trở nên hùng mạnh. Phạm Mạn đã đem quân đi chinh phạt được tới hơn 10 nước, mở rộng đáng kể lãnh thổ. Phạm Chiên đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Ấn Độ. Còn Phạm Tầm đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với nhà Tấn ở Trung Quốc. Người Phù Nam đã có chữ viết, kiểu chữ viết có nguồn gốc Ấn Độ.[5]
Cho đến giờ chưa phát hiện được tư liệu nào nói về thời kỳ tiếp sau Phạm Tầm. Các nhà khoa học cho rằng vào khoảng giữa thế kỷ 4, quyền cai trị Phù Nam một lần nữa lại vào tay người Ấn Độ. Lương thư và Tấn thư có nhắc tới một người là Thiên Trúc Thiên Đàn đã triều cống Mục Đế. Các nhà khoa học sau này cho đó là người Ấn Độ tên là Chandan hoặc Chandana.[6]
Đến đầu hoặc giữa thế kỷ 5, vẫn là người Ấn Độ nắm quyền cai trị Phù Nam. Lương thư cho biết một người Thiên Trúc là Kiều Chân Như mà các nhà khoa học sau này cho rằng đó có thể là một người Brahman Ấn Độ cũng lại tên là Kaudinya đã thay đổi chế độ nhà nước Phù Nam sang theo kiểu Ấn Độ.[7] Kiều Trần Như ở ngôi khoảng năm 470 đến 514, tự xưng là Người bảo vệ thánh kinh Vê đa. Vào thời kỳ này, nhiều thương gia Phù Nam sang buôn bán ở Quảng Châu (Trung Quốc).[8]
Khi Kaundinya mất, con là Sri Indravarman (Lương thư phiên âm là Tri Lê Đà Bạt Ma) lên thay, và đã cho sứ sang triều cống Tống Văn Đế (nhà Lưu Tống) vào những năm 438, 453 và 438. Cũng theo Lương thư, thì năm 431-432, nước Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu của người Việt, nên có nên yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng Phù Nam đã từ chối.
Khi Sri Indravarman mất, người nối ngôi là Jayavarman (Lương thư phiên âm là Đồ Tà Bạt Ma). Jayavarman đã phái một nhà sư Ấn Độ tên Nagasena đem lễ vật sang tặng vua Nam Tề năm 484, và yêu cầu nhà vua giúp mình đánh Lâm Ấp nhưng bị từ chối khéo. Các nhà khoa học đã phát hiện bia ký viết bằng chữ Sanskrit cho hay dưới thời Jayavarman Phù Nam đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi, biến nhiều vùng đầm lầy rộng lớn ở hạ lưu sông Mê Kông thành những vùng đồng bằng phì nhiêu, trù phú. Năm 514, Jayavarman mất.
Kế vị ngôi là Rudravarman (Lương thư phiên âm là Lưu Đà Bạt Ma), con cả của Jayavarman. Đây là ông vua cuối cùng của Phù Nam. Vào năm 517 và 539, nhà vua đều có sai sứ sang Trung Quốc triều cống.
Diệt vong
Một hố khai quật khảo cổ trong khu di tích Nam Linh Sơn, nằm cách chùa Linh Sơn (Ba Thê) 60m.
Giữa thế kỷ 5, Chân Lạp nổi lên, chiếm thành Đặc Mục kinh đô của Phù Nam, hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp. Nhà vua Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại Na Phất Na (vùng Angkor Borei). Phù Nam diệt vong.
Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam (tr. 20) viết:
Sau một thời rực rở, đế quốc Phù Nam bắt đầu suy thoái vào cuối thế kỷ thứ 6. Nước Cát Miệt [9], một thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ này đã nhanh chóng phát triển thành một vương quốc độc lập và hùng mạnh. Nhân sự suy yếu của Phù Nam, Chân Lạp đã tấn công & chiếm lấy một phần lãnh thổ (tương đương với vùng đất Nam Bộ Việt nam ngày nay) của đế chế này vào đầu thế kỷ 7…Sách Tùy thư chép tương tự:
Nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.[10]Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu & Tống Ký biên soạn cũng đã cho biết đầu niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-649); trong nước Phù Nam có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về Na Phất Na.[11]
Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường, nên có thể suy ra nước Phù nam bị tiêu diệt phải sau năm này.[12]
Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi Thủy Chân Lạp để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ (Việt nam); và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp.[13] Mặc dầu chiếm đoạt được, nhưng trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp rất nhiều khó khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy.
Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam.
Theo những tài liệu bi kí còn lại có thể thấy rằng, vào thế kỷ thứ 8 tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Aninditapura, do một người thuộc dòng dõi vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì.
Và khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở Đông Nam Á nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này, mà nổi bật là vương quốc Srivijaya ở đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở đảo Java, thuộc Indonesia ngày nay.
Từ cuối thế kỷ 8, vương quốc Sailendre hùng mạnh đã xâm chiếm toàn bộ Thủy Chân Lạp đồng thời đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9, Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thuỷ Chân Lạp.
Văn hóa
Văn hóa Phù NamLinga được khai quật tại di chỉ Óc Eo (Bảo tàng An Giang).
Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1944, nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret cho khai quật khảo cổ ở Óc Eo[14], và đã tìm thấy nhiều di vật qúy, có niên đại phù hợp với thời kỳ quốc gia Phù Nam tồn tại ở đây. Tại di chỉ Bình Tả (xã Đức hòa, huyện Đức Hòa, Long An), trong đợt khai quật vào tháng 2 năm 1987 do Lê Trung Khá chủ trì, đã phát hiện một di vật có tên Bhavavarman (tên một hoàng thân Phù Nam) viết bằng chữ Phạn cổ. Đây là một cứ liệu chính xác cho phép gắn liền văn hóa khảo cổ Óc Eo với Vương quốc Phù Nam trong lịch sử.[15]
Sau năm 1975, thêm nhiều lần khai quật khảo cổ ở Óc Eo và nhiều nơi khác nữa, thì thấy nền văn hóa này phân bố rất phong phú trên địa bàn các tỉnh như Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh…[16]. Tất cả theo sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Nền văn hóa này phát triển trên nền tảng văn hóa Đồng Nai, có quan hệ mật thiết với nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, và có quan hệ giao lưu rộng rãi với các nước ở bên ngoài (qua dấu tích vật chất, cho thấy có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải).[17]
Từ điển Văn hóa Đông Nam Á cho biết chi tiết:
Ở di chỉ Óc Eo đã phát hiện ra nhiều di chỉ khác nhau như di chỉ cư trú, di chỉ kiến trúc tôn giáo, di chỉ mộ táng… cùng rất nhiều hiện vật quý như tượng thờ, linh vật, phù điêu, con dấu, tiền tệ, di vật bằng vàng, đồ trang sức bằng đá quý, vật dụng bằng đá, đồ gốm, vật dụng bằng gỗ, cốt động vật, cốt thực vật… Qua phân tích các mẫu vật, đã xác định được niên đại của di chỉ Óc Eo là cuối thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 5. Các hiện vật khảo cổ đã nói lên tầm quang trọng rất lớn trong nền văn hóa được mang tên là Óc Eo ở Đông Nam Á. Theo các nhà nghiên cứu, Óc Eo đã từng là một cảng quan trọng của nhà nước Phù Nam.[18]Và qua kết quả xét nghiệm những cốt sọ cùng nhiều hiện vật quý của cư dân Phù Nam, phần lớn các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số ý kiến, có thể tóm tắt vào mấy điểm chính như sau[19]:
- Hai nhà nghiên cứu là Võ Sĩ Khải & Lê Trung Khá, sau khi tìm thấy hai sọ cổ (cư dân của nền văn hóa Phù Nam) ở Gò Tháp (Đồng Tháp) & Óc Eo năm 1984, đã cho biết rằng: “Hai sọ cổ này mang những đặc điểm thường gặp phải ở số đông người Thượng hiện nay; và thường được xếp vào tiểu chủng hay loại hình nhân chủng Indonésien.[20]. Trong quá trình phát triển, có sự tiếp xúc và cộng cư với những yếu tố nhân chủng khác.
- Chế độ nhà nước là chế độ phong kiến. Vương quyền được kết hợp chặt chẽ với thần quyền, tôn giáo được sử dụng như một công cụ hữu hiệu của giai cấp thống trị.
- Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ.
Đồ trang sức của cư dân Phù Nam.
- Thuế là nguồn thu nhập chính của quốc gia. Thuế có thể đóng bằng vàng, bạc, châu ngọc, hương liệu…
- Pháp luật được thi hành theo quan niệm “thần đoán” (xem đoạn trích sử Nam Tề ở phần Trong thư tịch cổ).
- Về tín ngưỡng chủ yếu là đạo Ba-la-môn và đạo Phật.
- Đặc điểm hình thể và cách ăn mặc của cư dân Phù Nam có những nét giống với các dân tộc bản địa ở miền cao nguyên Đông Dương.
- Chữ viết là loại chữ Phạn (sanskrit) có nguồn gốc từ bộ chữ cái của người Pallava, ở Ấn Độ.[21].
- Đa phần Cư dân của Phù Nam chủ yếu là người Mã Lai-Đa Đảo [22], nói tiếng Mã Lai-Đa Đảo (Malayo-Polynésien) hay Nam Đảo (Austrron ésien). Ý kiến này phù hợp với ghi nhận của Lương thư (sử nhà Lương, Trung Quốc).[23]
- Ăn ở: Lương thực chính là lúa gạo. Cất nhà trên cọc gỗ, mái lợp bằng lá thốt nốt hoặc ngói. Louis Malleret khi đã tiến hành khai quật ở Óc Eo đã nhận xét rằng: phần lớn kiến trúc ở đây được lợp mái bằng ngói, một kiểu khác hẳn ở Angkor.[24]
- Tang lễ: người chết được chôn cất theo 4 cách: thủy táng, hỏa táng, điểu táng và chôn cất. Theo Tấn thư thì tang lễ và hôn lễ của Phù Nam gần giống với Lâm Ấp (tức Chămpa).
- Nhiều ngành nghề khá phát triển, như: luyện kim, nấu thủy tinh, chế tác ngọc, gốm màu, gạch, kim hoàn, xây dựng, tạc tượng, nghề cá, trồng lúa nước (lúa sạ), đóng tàu lớn, dệt vải, thêu thùa, làm muối, làm giấy (bằng bông gòn)…
- Có kinh nghiệm & tài nghệ trong việc làm thủy lợi để cải tạo đất đai.
- Có nền thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương khá phát triển.
- Giỏi săn bắt & chăn nuôi (biết thuần dưỡng cả voi).
- Thú tiêu khiển: Ca múa (loại hình nghệ thuật này rất phát triển), săn bắt, chọi gà…
Đúc kết lại, sách Lịch sử Campuchia viết:
Trên đây là những nét phát họa của một nền văn minh xuất hiện sớm nhất ở miền Nam bán đảo Inđôchina. Văn minh đó của Phù Nam tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh Ấn Độ. Nhưng tất cả những điều mà chúng ta biết đều chứng tỏ rằng ngay từ thuở ban đầu, văn minh Ấn Dộ chỉ là đến ghép trên miếng đất cũ của nền văn hóa Đông Nam Á bạn địa vốn có sẵn, để hình thành một nền văn minh và một nền nghệ thuật hết sứ độc đáo.[25]Trong thư tịch cổ
Một trong hai tấm bia đá cổ ở chùa Linh Sơn (Ba Thê), có khắc chữ viết của người Phù Nam.
Quyển sách đầu tiên đề cập đến Vương quốc Phù Nam là Dị vật chí của Dương Phù thời Đông Hán (25-220).
Kế đến là Ngô thư thời Tam Quốc (220-280). Theo sách này thì vào tháng Chạp năm Xích Ô thứ 6 (243), vua Phù Nam là Phạm Chiên có sai sứ đến dâng nhạc công và phương vật cho vua Ngô là Tôn Quyền (182 – 252).
Thời gian sau, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Ngô cũng đã sai người đến các nước phương Nam; thì các nước là Phù Nam, Lâm Ấp (Chămpa), Minh Đường thảy đều sai sứ đến dâng cống.[26]
Sách Lương thư còn cho biết vua Ngô là Tôn Quyền đã sai Chu Ứng (Tchou Ying) và Khang Thái (Kang Tai) đi sứ các nước phía Nam, trong số đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục còn gọi là Phù Nam truyện.
Các sách có liên đại muộn hơn vào các thế kỷ 6 và 7 như Trần thư, Tùy thư, Thông điển, Tân Đường thư… đều có ghi chép về đất nước Phù Nam. Trích một vài đoạn:
- Sử Nam Tề:
Bộ xương của người cổ được khai quật ở Gò Cây Tung (An Giang, Việt Nam) năm 1994-1995.
- Sử nhà Lương:
- Tấn thư:
- Phù Nam thổ tục:
Nơi di chỉ
Giới thiệu một vài di chỉ tiêu biểu[30]:
Di chỉ Gò Cây Thị (Óc Eo)
Nhà trưng bày di chỉ Gò Cây Thị.
Di chỉ Gò Cây Thị thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; là một di chỉ cung đình mang tính tôn giáo, gồm tiền điện, chính điện và 4 ô ngăn; đã được nhà khảo cổ Pháp Louis Malleret khai quật đầu tiên vào năm 1944 (từ tháng 2 đến tháng 4). Di chỉ có diện tích 488,8m2, có dạng gần vuông, quay mặt về hướng Đông, nằm trên cánh đồng Óc Eo, cách di tích khu di tích Nam Linh Sơn (núi Ba Thê) khoảng 1600m về phía Đông. Ở quanh khu di chỉ này, Louis Malleret còn tìm được 8 ngôi mộ táng. Hiện vật tìm thấy trong mộ hoặc xung quanh mộ, gồm những thỏi đất nung, mảnh gốm mịm, hạt chuỗi, đá quý, vàng lá, xương răng lợn, xương trâu bò, sừng hươu, than củi…
Di chỉ Gò Tháp
Di chỉ Gò Tháp thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, được thám sát vào năm 1931, 1943 và 1984. Đây là khu di chỉ có các loại hình: cư trú, mộ táng và kiến trúc.
Di chỉ Gò Thành
Di chỉ Gò Thành thuộc ấp Tân Thành, xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Được, L. Malleret phát hiện năm 1941. Trong nhiều lần khai quật tiếp theo vào những năm: 1979, 1988, 1989, 1990, đã phát hiện ở độ sâu khoảng 1,5 đến 3 m, có nhiều gốm cổ bị vỡ; nhiều vòi bình; nhiều di cốt trâu bò, heo và xương cá; nhiều dấu vết tro, than, vỏ trái cây, lá dừa nước; cùng với vài cọc gỗ có dấu vết gia công. Nơi đây, cũng đã phát hiện được 5 kiến trúc bằng gạch và 12 ngôi mộ xây bằng gạch có kích thước lớn nhỏ khác nhau. Trong và quanh mộ, ngoài những hiện vật bằng vàng, bằng gốm, đất nung còn có hai tượng thần Visnu bằng đá có kích cỡ khá lớn…
Bằng kỹ thuật chuyên ngành, các nhà khảo cổ đã phân tích một số mẫu vật & kết luận rằng khu di tích khảo cổ Gò Thành có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8. Đây là một khu di chỉ đặc biệt vì nó còn lưu giữ khá nguyên vẹn và phong phú về nhiều loại hình di chỉ như: di chỉ cư trú, di chỉ mộ táng, và nhất là di chỉ kiến trúc với nhiều đền tháp ở cạnh nhau có quy mô khác nhau, rất hoành tráng, tuy chỉ còn phần nền…[31]
Di chỉ Gò Cây Tung
Di chỉ Gò Cây Tung thuộc ấp Thới Thuận, xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, được phát hiện và khai quật vào năm 1994 và 1995. Tại đây, người ta đã phát hiện nhiều ngôi mộ cổ với 23 bộ xương người, trong đó có 9 nam, 7 nữ, còn 7 cá thể chưa rõ giới tính… Ngoài ra, người ta còm tìm được nhiều hiện vật phong phú, bao gồm đồ gốm có vẽ màu, hơn 40 chiếc rìu đá (có hình tứ giác) cùng bàn mài, chày nghiền…
Cùng với những di chỉ trên, những di vật và mộ táng được phát hiện rất nhiều ở nơi khác như: Bình Tả (Long An), Đá Nổi (Kiên Giang), ND 11 (Khu kinh tế mới Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, TP. HCM), Di chỉ Cây Gáo (Đồng Nai) v.v…đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam.
Phù Nam & Chân Lạp
Bộ cọc gỗ nhà sàn của cư dân Phù Nam (Bảo tàng An Giang).
Sách Lịch sử Campuchia viết: Cho tới nay, vẫn còn không ít người cho rằng nước Phù Nam là tiền thân của nước Chân Lạp. Quan điểm nhầm lẫn này được nêu ra đầu tiên trong các công trình nghiên cứu của các học giả của Trường Viễn Đông bác cổ từ nửa đầu thế kỷ 20.
Sau, nhờ những nguồn thư tịch cổ của Trung Quốc và các cuộc khai quật khảo cổ[32], các nhà nghiên cứu mới có đủ bằng chứng để xác định hai quốc gia này không phải là một.
Tùy thư chép:
Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp. Nguyên trước là thuộc quốc của Phù Nam. Sau họ ngày một hùng cường, vua Chân Lạp là Ksatriya Citrasena chiếm được Phù Nam và bắt thần phục…[33]Sử nhà Lương chép:
Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biển. Nước cách Nhật Nam chừng 7.000 lý và cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lý…Tân Đường thư mô tả tương tự:
Nước Phù Nam ở cách quận Nhật Nam bảy ngàn lý về phía Nam…, đất thấp như Hoàn Xương, có thói quen lập những thành phố bọc tường…Vua của họ đóng đô ở thành Đặc Mục. Thành ấy bị Chân Lạp đánh bất ngờ, phải dời đến thành phố Na Phất Na ở phía Nam…[34]Từ đó, rút ra được hai điểm chính:
- Vị trí của mỗi nước đều đã được xác định khá rõ ràng, tuy hai nước này có những mối quan hệ với nhau về nhiều mặt.
- Ban đầu, nước Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam, sau dần lớn mạnh, không những cởi bỏ được ách thống trị và còn bắt Phù Nam thần phục lại mình. Sự kiện này xảy ra vào khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627). Từ đấy trở đi, có thể nói Phù Nam đã bị diệt vong và đất nước của họ bị sát nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp.
Mãi sang tới thế kỷ 17 – thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi đế quốc Ăngco (tức Chân Lạp) để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay.[35]
Bí ẩn về sự tiêu vong
Chạc gốm dùng để nấu muối ở gò Ô Chùa.
Chu Đạt Quan, một sứ thần nhà Nguyên trên đường sang kinh đô Ăngkor vào khoảng tháng 7 năm Bính Thân (1296), đã miêu tả cảnh Thủy Chân Lạp trong sách Chân Lạp phong thổ ký như sau:
Từ chỗ vào Chân Bồ[36] trở đi, hầu hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm dặm cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở trong đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng họp nhau thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm. Loại tre đó, đốt có gai, măng rất đắng.[37]Vì sao nền văn hoá đa sắc và rực rỡ này biến mất, hiện vẫn chưa có lời giải thích nào có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, một vài ý kiến sau đây đang được người quan tâm chú ý:
Bài Phế đô của vương quốc Phù Nam, đã đăng trên báo Tuổi Trẻ[38]nêu ba giả thuyết:
- Thứ nhất: do thiên tai (một trận hồng thủy). Nhưng theo nhiều nhà khoa học thế giới thì kỷ tan rã băng hà cuối cùng cách đây ít ra cũng đã 8.000 năm. Những trận động đất hay những cơn sóng thần cục bộ như xảy ra ở Nam Á vừa rồi khó có khả năng xóa được cả một vương quốc như Phù Nam.
- Thứ hai: do đại dịch bệnh. Nhưng qua các cuộc khai quật, thì thấy những bộ hài cốt cổ, không có dấu hiệu bị nhiễm dịch bệnh và đều được táng đàng hoàng trong mộ.
- Thứ ba: do những cuộc ngoại xâm tàn sát. Và nghi vấn ngoại ban ấy chính là người Java (Mã Lai). Nhưng thư tịch cổ không thấy ghi như thế và cũng chưa tìm được chứng cứ để xác định…
Tượng Phật gỗ thời Phù Nam (Bảo tàng An Giang).
Theo nhóm tác giả sách Lịch sử Campuchia, thì:
Vào khoảng giữa thế kỷ 6, nước Phù nam nhanh chóng bước vào thời kỳ tàn tạ. Nền văn minh Phù Nam cổ kính trước sau chỉ được nảy nở ở một số đô thị lớn tập trung dân cư, còn ở các vùng nông thôn rộng lớn thì cuộc sống ở đây không có ai quan tâm đến. Công tác thủy nông không được coi trọng nữa, khiến cho những vụ lũ lụt của sông Mê Kông gây những tai họa khủng khiếp cho các cánh đồng ruộng trũng, biến những vùng đồng bằng vốn phì nhiêu thành những vùng đồng lầy vô dụng ở miền hạ lưu sông Mê Kông; và làng mạc tiêu điều, cư dân xơ xác phải di cư đến những rẻo cao. Ngoài ra, việc Ruđravacman lên ngôi bất hợp pháp khiến xuất hiện nhiều nhóm phái chống đối, ly khai cát cứ thành những vùng độc lập. Để rồi, Phù Nam bị Chân Lạp chinh phục, và hợp nhất tạo thành quốc gia Khmer, mà Bhavaraman I có thể coi là người sáng lập.[39]Trích ý kiến của Võ Sĩ Khải:
Những chuyển biến trong cơ cấu cư dân (Phù Nam), sự không thích ứng với những điều kiện chính trị, kinh tế và văn hóa dưới thời (lệ thuộc) Chân Lạp, tình trạng chiến tranh triền miên giữ Chân Lạp (trong đó có Phù Nam) trên địa bàn Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, và những ảnh hưởng của các cuộc tấn công của đế quốc Nguyên Mông vào các nước Đông Nam Á vào thế kỷ 13 đã là “những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp đưa quá trình hoang hoá của vùng đất Gia Định và đồng bằng Nam Bộ nói chung”. Các cộng đồng dân tộc bản địa (Phù Nam) sinh sống trên đồng bằng châu thổ từ nhiều thế kỷ đã từ từ rút về sống co thủ ở miền cao trong những điều kiện hoang sơ, chỉ giữ lại trong ký ức hình ảnh của biển cả và một thời “hoàng kim” mà ngày nay chỉ còn tìm lại được qua một số tập quán, trong huyền thoại và những truyền thuyết dân gian.[40]Bài viết: OC EO (https://www.homenh.vn/blog/oc-eo/) được biên tập bởi công sức của BTV Hộ Mệnh (https://www.homenh.vn). Vui lòng liên kết tới web của chúng tôi khi tái sử dụng thông tin. Chân thành cảm ơn.
Để lại một bình luận Hủy
Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *
Bình luận * Tên * Email * Trang webTừ khóa » đá óc Eo Là Gì
-
Chiêm Ngưỡng đồ Trang Sức Óc Eo 2000 Năm Tuổi - Báo Tuổi Trẻ
-
Độc đáo Trang Sức Trong Văn Hóa Óc Eo - Travellive
-
Vài Nét Về Nền Văn Hóa Óc Eo
-
[Top Bình Chọn] - đá óc Eo Là Gì - Hoàng Gia Plus
-
Văn Hóa Óc Eo – Wikipedia Tiếng Việt
-
Phòng 7 - Văn Hóa Óc Eo (Thế Kỷ 1 - 7) - Bảo Tàng Lịch Sử
-
Văn Hóa Óc Eo – Một Nền Văn Hóa Cổ ở Nam Bộ
-
Những Câu Chuyện Văn Hóa Óc Eo Mới Phát Hiện: Trung Tâm Sản ...
-
Vương Quốc Phù Nam: Cánh đồng Vàng Óc Eo - Báo Thanh Niên
-
Cận Cảnh Trang Sức Vô Giá Của Thiếu Nữ Óc Eo
-
Vòng Cổ đá óc Eo | Shopee Việt Nam
-
ÓC EO - #GÓC_SẢN_PHẨM_ÓC_EO Vòng Tay Mệnh Thổ
-
Óc Eo | Cổ Vật Việt Nam