Phần IV- Những Trang Bình Luận, Hàn Mặc Tử - Hương Thơm Và Mật ...

Trần Thanh Mại, Hoài Thanh - Hoài Chân

Nhờ một nguồn cảm thụ lực

Nhờ một nguồn cảm thụ lực phát triển đến cực điểm, Hàn Mặc Tử là nhà thơ Việt Nam đầu tiên biết nghe ngóng những lời âm thầm của tạo vật. Như nhà đại văn hào Nga Ivan Tourgueniew, Hàn Mặc Tử có một thính giác đặc biệt để nghe được cả hơi thở của một cành lá, hay tiếng va chạm nhau của hai đường tơ ánh sáng:

Đang khi mầu nhiệm phủ ban đêm

Có thứ gì rơi giữa khoảng im,

Rơi tự thượng tầng không khí xuống,

Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim.

(...) Hàn Mặc Tử là người đầu tiên trong thế kỷ XX mở được một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt Nam và thành công một cách vinh quang rực rỡ.

Còn như muốn tổng hợp lại mà phê bình Hàn, thiên tài, thân thế và thi nghiệp Hàn, thì tôi thấy không còn chi đúng hơn là mượn câu của Walt Witman, nhà thi sĩ Mỹ, khi tác giả tập Lá cỏ (Feuilles d herbe) phê bình Edgar Poe:

“Có một lần, trong giấc chiêm bao tôi thấy một chiếc tàu đi giữa biển, lúc nửa đêm, trong cơn bão. Đó không phải là một chiến hạm lớn hay một chiếc thương thuyền nào oai nghiêm, cương quyết lướt phong ba, mà nó lại giống một chiếc ghe mành như tôi đã từng thấy thả neo đưa nhẹ theo làn nước quanh thành Nữu Ước hay trong eo biển Long-ích-lăng, mà bây giờ thì nó vượt vùn vụt, không kể đường tối, buồm tan cột gãy, giữa dông tố dữ dội và gió, và sóng ban đêm. Trên cầu tàu, một hình dáng mảnh khảnh, cao cao, xinh đẹp, hình dáng của một kẻ trầm sầu, hắn hình như đang tìm sự vui sướng trong cơn kinh khủng, trong bóng tối và trong sự tàn phá mà chính hắn là cả vừa trung tâm điểm, cả vừa người bị đưa ra làm mồi. Con người trong giấc chiêm bao ma quái ấy, có thể biểu hiện cho Edgar Poe, cho thiên tài ông, thân thế ông, và thi phẩm ông, những thứ ấy, toàn thị là những giấc chiêm bao ma quái nữa”.

(Trích trong tập Hàn Mặc Tử, thân thế và thi văn)

Hoài Thanh&Hoài Chân-Hàn Mặc Tử

Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: “Hàn Mặc Tử? Thơ với thẩn gì! Toàn nói nhảm”. Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: “Thơ gì mà rắc rối thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!”. Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử trong khi viết đoạn này: “Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây!- Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường và yên lặng mà sống”. (“Thơ của người” (Ngày nay ra ngày 7-8-1938))

Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mặc Tử. Trong ý họ thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mặc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mặc Tử đâu có phải chuyện dễ. Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng ngâm, ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vì giáo chủ. Chế Lan Viên nói quả quyết: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử”. (Người mới số 5 ra ngày 23-11-1940)

Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mặc Tử. Tôi đã theo Hàn Mặc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần tiên hội. Và tôi đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mặc Tử nói trong bài tựa Thơ điên, vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh.

Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi thử xếp đặt lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi.

Thơ Đường luật-Theo ông Quách Tấn, Phan Sào Nam hồi trước xem thơ Đường luật Hàn Mặc Tử có viết trên báo đại khái nói: “Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp bài thơ nào hay đến thế…Oi hồng nam nhạn bắc, ước sao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thoả hồn thơ đó”. Thơ Đường luật Hàn Mặc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không được xem mấy bài. Song trong những bài tôi được xem cũng đã gặp ít câu hay, chẳng hạn như:

Nằm gắng đã không thành mộng được,

Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi.

Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có lẽ không tiện cho sự nảy nở một nguồn thơ dào dạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn Mặc Tử.

Gái quê-Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào khung cảnh những vườn tre những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Ký đề tựa tập thơ ấy là phải lắm: Gái quê và Une voix sur la voie đều bắt nguồn trong tình dục.

Thơ điên-Thơ điên gồm có ba tập:

(1) Hương thơm.

(2) Mật đắng.

(3) Máu cuồng và hồn điên.

Hương thơm-Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình

Yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra thành hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đây. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào.

Mật đắng-Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồng sáng chói cả mắt. Nguồn sáng lạ toả ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì; nhưng thường là một thứ buồn dầu có thấm thía vẫn dìu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt. Lời thơ như dính máu.

Máu cuồng và hồn điên-Đến đây ta đã hoàn toàn ra khỏi cái thế giới thực và cả thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy những gì chung quanh ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm, linh động như một người hay đúng hơn như một yêu tinh. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng nao nức dục tình. Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người…Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đáy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mặc Tử chắc cũng biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với Chúa sẽ không bao giờ cho xuất bản Thơ điên. Một tác phẩm như thế, ta không thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đang đứng trước một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương thơm, hấp hối với tập Mật đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn toả lên nghi ngút.

Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm linh người ta xem tập Máu cuồng và Hồn điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu hơn một nhà phê bình văn nghệ. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay.

Khi tả cảnh đồi núi một đêm trăng có câu:

Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ

Đầy mình lốm đốm những hào quang.

Lên chơi trăng có câu:

Ta bay lên! Ta bay lên!

Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm

Ta ở cõi cao nhìn trở xuống

Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm.

Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó là những cảm giác ta có thể có. Lại có khi những cảm giác ở ta rất thường mà trong trí Hàn Mặc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành ra:

Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng.

Trôi thây về xa tận cõi vô biên.

Cái ý muốn mượn lời thơ để tả tâm sự mình cũng trở nên điên cuồng và đau đớn dị thường:

Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút,

Mỗi lời thơ đều dính não cân ta.

Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,

Như mê man chết điếng cả làn da.

Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết,

Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh;

Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết,

Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh.

Tôi chỉ trích ra vài đoạn có thể thích được. Còn bao nhiêu đoạn nữa tuy ta không thích vì nó không có gì hợp với lòng ta, nhưng ta cũng biết rằng với Hàn Mặc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng của tác giả. Lời thơ có vẻ thành thực, thiết tha lắm.

Xuân như ý-Mùa xuân Hàn Mặc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới dựng lên, có khi ra đời một lần với Chúa Jésus, có khi hình như chỉ là mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân thường với những màu sắc, những hình dáng ta vẫn quen biết. Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy rẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mặc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế mà cũng để nối người ta với Thượng đế, để ban phước cho cả và thiên hạ. Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng-sao lại há miệng?-cho thơ trào ra, là chín từng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao. Người ta sẽ thấy:

Đường thơ bay sáng láng như sao sa

Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc

Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa.

Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không có gì giống vậy. Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy hoàng sang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử.

Với Hàn Mặc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với các di thảo của thi nhân.

Huống chi thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể.

Thượng thanh khí-Một vài bài đặc sắc ghi lại những tình cảm đã thấy trong chiêm bao, ở đâu giữa các vì tinh tú trên kia. Đại khái không khác cảnh Xuân như ý, chỉ thiếu tính cách tôn giáo. Huyền bí nhưng không thiêng liêng.

Cẩm châu duyên-Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến trong đời Hàn Mặc Tử hình ảnh một giai nhân có cái tên khả ái: Thương Thương. Nàng Thương Thương có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mặc Tử và Hàn Mặc Tử hình như cũng không biết gì hơn hai chữ Thương Thương. Nhưng như thế cũng đủ để thi nhân đưa nàng vào “tháp thơ”. Nàng sẽ luôn luôn đi về trong những giấc mơ của người. Có khi người mơ thấy mình là Tư mã Tương Như đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ:

Đã mê rồi: Tư mã chàng ôi!

Người thiếp lao đao sượng cả người.

Ôi! Ôi! Hãm bớt cung cầm lại,

Lòng say đôi má cũng say thôi.

Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao. Tỉnh dậy, người thấy:

Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả?

Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!

Bức thư kia sao chẳng viết cho dài,

Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa.

Ta tưởng nghe như lời than của Huy Cận.

Nhưng rồi cuộc đời đau thương đã đến lúc tàn, và nguồn thơ kia cũng đã đến lúc cạn. Hàn Mặc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào thế giới đồng bóng.

Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội-Mối tình đối với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mặc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần tiên hội viết chưa xong và không có gì. Duyên kỳ ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ tình ái, ngắn ngủi, nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. Thi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ở đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ. Ở đó Hàn Mặc Tử sẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp ở kiếp này. Nàng sẽ nói với người những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đến cái nghiệp nặng nề đang chờ người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã tiếng suối ca.

Trong thi phẩm Hàn Mặc Tử có lẽ tập này là trong trẻo hơn cả. Còn từ thơ Đường luật với những câu:

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;

Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.

Cho đến Gái quê, Thơ điên, Xuân như ý và các tập khác, lời thơ thường vẩn đục.

Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mặc Tử. Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phảI lấy bì thư và giấy nhật trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã…

Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hờ hững bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen . Chê hay khen tôi đều thấy có cái gì bất nhẫn.

Mai 1941.

Trích cuốn Thi nhân Việt Nam 1932-1941, Huế,1942.

Vũ Ngọc Phan

Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí)

Từ ngày Hàn Mặc Tử từ trần đến nay, mới trông khoảng hai mươi năm trời, mà người ta đã nói rất nhiều và viết rất nhiều về Hàn Mặc Tử. Chứng bệnh của thi sĩ, cuộc đời đầy đau thương của thi sĩ, lời thơ thành thực của ông, khi nghẹn ngào, khi hoạt bát, nhưng bao giờ cũng chứa chan tình tứ hay một tin tưởng cao xa, đã làm cho nhiều người chú ý đến đời ông và thơ ông.

Song dư luận bao giờ cũng rất kỳ, đã chú ý đến người và thơ, thì dư luận dường như trộn lẫn người với thơ là một. Cho nên nói một cách công bình, thì gần đây, “người” của Hàn Mặc Tử đã làm quảng cáo cho thơ của Hàn Mặc Tử rất nhiều. Đến nỗi về ông, người ta đã viết một giọng say sưa, ông là một thi sĩ mà trên thế giới không một thi sĩ nào sánh kịp.

Vậy thơ của Hàn Mặc Tử như thế nào? Thơ ông gồm những bài Đường luật đã đăng báo, tập Gái quê (1936) và những thơ ở mấy tập ông chưa xuất bản lúc sinh thời, bây giờ người ta lựa chọn vào một tập, tập Thơ Hàn Mặc Tử.

Cũng như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử là một nhà thi sĩ luôn luôn ca ngợi ái tình, nhưng cái quan niệm về tình yêu của Hàn Mặc Tử không được thanh cao như Thế Lữ. Cái tình yêu của Hàn Mặc Tử tuy diễn ra trong tập Gái quê còn ngập ngừng nhưng đã bắt đầu thiên về xác thịt:

Tiếng ca ngắt. Cành lá rung rinh…

Một nường con gái trông xinh xinh…

Ống quần vo xắn lên đầu gốI,

Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình.

(Nụ cười, Gái quê, trang 7)

Sự gợi tình ấy, không phải chỉ do ở người con gái xinh đẹp. Theo sự tưởng tượng và nhờ sự cảm thông của Hàn Mặc Tử với muôn vật trong trời đất, ngọn gió thoảng qua cũng rất có tình, cho nên ông mới đặt vào miệng một cô gái có chồng những lời lo sợ tình tứ sau đây:

… Vô tình để gió hôn lên má

Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm

Em sợ lang quân em biết được

Nghi ngờ đến cái tiết trinh em.

(Bẽn lẽn, Gái quê, trang 10)

Đến bài Hát giã gạo (Gái quê trang 31) của ông thì lời suồng sã quá, thứ tình yêu ở đây đặc vật chất, làm cho người ta phải lợm giọng.

Nhưng đây mới thật là mối tình man mác, mối tình quê, mối tình ở nơi đồng ruộng. Tôi lấy làm lạ rằng sao từ bài Hát giã gạo mà tác giả đã lên tới sự tuyệt vời như thế. Bài Tình quê (trang 35) tỏ ra ông có một hồn thơ thật đầy đủ, trái hẳn với bài Hát giã gạo là một bài tỏ ra tác giả là một người dễ sa ngã, đắm đuối. Hãy nghe bài Tình quê để thưởng thức lấy cái nhạc điệu êm ái và những lời rất ý nhị, nhẹ nhàng:

Trước sân anh thơ thẩn

………………………..

Lòng xuân cũng não nề (1)

Đối với một thi sĩ đã có một bài thơ mà nhạc điệu du dương đến như thế, không ai lấy làm lạ khi thấy thi sĩ ấy là tác giả nhiều bài Đường luật rất già dặn. Hãy nghe bài này trong quyển Thơ Hàn Mặc Tử:

Buồn thu

Ấp úng không ra được nửa lời

Tình thu bi thiết lắm thu ơi

Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt

Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi

Nằm gắng đã không thành mộng được

Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi

Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt

Chỉ có thông kia chịu với trời.

Thật là những lời sầu não và đầy tình tứ, ai có thể tưởng thi sĩ là một nhà Tây học? Câu 2 thắm thiết và giọng còn ra vẻ một người thiếu niên, còn toàn bài lời chín chắn chẳng khác nào một vị lão Nho.

Thơ Đường luật của Hàn Mặc Tử không phải bài nào cũng được toàn bích như bài trên này. Nhiều bài ý rất sáo và phảng phất có cái giọng thời thế, nửa lối Tú Xương, nửa lối Thanh Quan. Thí dụ bài sau này đăng trong Phụ Nữ Tân Văn (số 97; 27 Aout 1931, trang 16) và ký tên là P.T (Quy Nhơn).

Chùa hoang

Mái sụp tường xiêu khách ngẩn ngơ

Hỏi thăm duyên cớ, Phật làm lơ

Vắng sư bụt đá toan hồi tục

Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa

Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng

Bình phong rêu bám đứng chơ vơ

Tiếng chuông tế độ rày đâu tá

Để khách trầm luân luống đợi chờ!

Thơ Hàn Mặc Tử hồi đầu như thế, mà chỉ bảy tám năm sau đã thay đổi hẳn, thay đổi ý lẫn lời. Trong thời kỳ đổi mới này, ông soạn được rất nhiều thơ và đưa ra nhiều tập: Thơ điên, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội.

Nhưng thơ ở mấy tập trên này có ít bài đã đăng rải rác trong mấy tờ báo trong Nam, còn phần nhiều chưa xuất bản. Tôi sở dĩ biết được một ít thơ trong những tập thơ chưa xuất bản trên này là xem những bài trích lục trong quyển Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại, tập Thơ Hàn Mặc Tử do Đông Phương (Sài Gòn) xuất bản và trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh.

Những người ác cảm với thơ của Hàn Mặc Tử coi hầu hết thơ mới của Hàn đều là ”thơ điên “ cả, tuy Hàn chỉ có một tập mang cái nhan tên này, và có ý nghĩa cũng khác, không phải “điên “ như người ta đã tưởng.

Tuy vậy, những người không ưa Hàn Mặc Tử cũng không phải hoàn toàn vô lý. Trong cái thời kỳ thơ Hàn đổi mới thì ”con người” của Hàn cũng thay đổi vì bệnh hoạn. Bởi thế, lời thơ ông, ý thơ ông, nhiều lúc thật dị kỳ. Hãy nghe:

Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút

Mỗi lời thơ đều dính não cân ta

Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt

Cho mê man chết điếng cả làn da

Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết

Trải niềm đau trên trang giấy mong manh

Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết,

Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh...

(Rướm máu. “Đau Thương” –Hàn Mặc Tử, tr 77)

Thật là những dòng ghê gớm, những dòng tưởng như sắp gây án mạng dưới mắt người đọc. Nhưng cũng chưa ghê gớm bằng những dòng sau đây:

Gió rít từng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.

(Say trăng, “Đau thương”, Hàn Mặc Tử, trang 84)

Người ta thấy bệnh phong đã ảnh hưởng đến tư tưởng Hàn Mặc Tử đến thế nào. Thi sĩ bị rặt những cảnh chết rùng rợn ám ảnh, nên trí não không còn bình thường nữa.

Lúc nào ông ta cũng nhìn thấy máu đến nỗi đối với một bài thơ của người yêu gửi cho ông cũng viết:

…Bởi vì mê mẩn, vì khoan khoái

Anh cắn lời thơ để máu trào …

(Hàn Mặc Tử, tr. 142)

Xác thịt ông bị cắn rứt quá, nên hình như ông đã cố gắng sống vớt vát lại cho nhiều hơn trong phần hồn. Bài ”Hồn lìa khỏi xác” trong tập Đau thương (Thơ Hàn Mặc Tử) là một bài mà ý và lời rất mạnh. Hãy đọc đoạn này:

Vì không giới, nơi trầm hương vắng lặng,

Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao,

Sóng gió nổi rùng rùng như địa chấn,

Và muôn vàn thần phách ngã lao đao.

Thật là buồn thảm và lạnh lẽo vô cùng. Thật là lời của người nằm trong thiêm thiếp mơ màng những giờ hấp hối.

Nhưng không phải lúc nào ảnh hưởng của bệnh cũng làm cho ông muốn thoát ra ngoài xác thịt và chỉ thấy rặt những cái chết ghê sợ, ông cũng có những phút bình tĩnh để lắng nghe những lời năn nỉ của hư vô:

Đang khi mầu nhiệm phủ ban đêm

Có thứ gì rơi giữa khoảng im

Rơi tự thượng tầng không khí xuống

Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim.

(Huyền ảo - Thơ Hàn Mặc Tử)

Lời thơ trong sáng, êm như ru, còn ý thơ nhẹ nhàng man mác, toả ra như mây khói. Mà cảm động, huyền diệu biết bao. Tình tứ đến thế là cùng, cảm động đến thế là cùng, Một người mang bệnh rất đau đớn mà có tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật cũng lạ.

Sự tín ngưỡng đã giúp sức cho Hàn Mặc Tử rất nhiều. Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi thánh nữ Đồng Trinh Maria và chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia Tô một giọng rất chân thành, chẳng khác nào một thi sĩ Âu Tây. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới. (Bài Thánh nữ đồng trinh Maria - Xuân như ý).

Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mặc Tử. Tôi dám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa vào thi ca con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới.

Hàn Mặc Tử có những thi hứng rất dồi dào, nhưng thơ ông phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu trong thơ ông hình như không phải là phần quan hệ, lời thơ ông nhiều khi rất thơ, bệnh ông nhiều khi lại làm cho ông có những ý tưởng khác thường, nên nhiều bài thơ của ông chỉ là bằng chứng rất lạ cho những người muốn khảo sát một tâm trạng, một linh hồn đau khổ. Về sự thành thật, có lẽ Hàn Mặc Tử hơn hết cả các nhà thơ hiện đại. Cũng vì ông rất thành thật nên thơ ông theo sát hẳn tính tình cùng tư tưởng của ông, bên những bài tầm thường, người ta thấy dưới ngòi bút ông những bài tuyệt tác.

Nhân loại chả tạo nên những cái hay và những cái dở là gì?

15-6-1942

Trích cuốn Nhà văn hiện đại, quyển 3, Hà Nội 1942

Quách Tấn

Ảnh hưởng đạo phật trong thơ Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc.

Đó là vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc - nhất là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những cái tế nhị, u ẩn... của một tâm hồn. Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho thanh âm tiết tấu phù hợp với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn - một tâm hồn mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ - mà văn tự chính xác nhiều khi không diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt đúng theo ý muốn của người thơ.

Cho nên xem thơ Hàn Mặc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ, thì phải thưởng thức nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý không ở trong lời mà ở trong nhạc...

Trong tâm hồn Tử không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo.

Vì không có những bức thành ngăn cách giữa tôn giáo mình và tôn giáo người, nênTử đã đi tìm cảm hứng trong Đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng là ”Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo vào dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo nhiều nhất. Như bài Thánh nữ đồng trinh là một.

Bài này là những lời Tử dâng lên đức Maria để ca ngợi “ơn phước cả” mà Thánh nữ đã ban cho Tử trong ”cơn lâm luỵ”. Trong bài có những chữ ”Từ bi“, “Ba ngàn thế giới”, là chữ của nhà Phật, dùng một cách sướng khoái:

Lạy Bà là đấng tinh truyền thánh vẹn

Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi.

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế.

....................

Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ

Ngọc như ý vô tri còn biết cả,

Huống chi tôi là thánh thể kết tinh.

Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh

Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới...

Hai chữ “từ bi” còn thấy dùng trong nhiều bài khác, như trong bài Cao hứng:

Thơ tôi thương huyền dịệu

Mọc lên đạo từ bi...

Trong bài Hãy nhập hồn em:

Bỗng hôm nay trước cửa bóng trăng quì

Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu.

Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu,

Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.

Trời từ bi cảm động ứa sương mờ

Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá.

Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã,

Đoán anh chừng cơn ấy em ngất đi...

Nhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như “hằng hà sa số”,”mười phương”, v.v...cũng thường gặp trong thơ Tử:

Mây vẽ hàng hà sa số lệ

Là nguồn li biệt giữa cô đơn...

(Cuối thu)

Có tin thôn xa đến,

Có điềm lạ đêm nay.

Đóng cửa mười phương lại,

Dồn ánh sáng vào đây...

(Điềm lạ)

Ta cho một dòng thơ rất mát

Mới tinh khôi và tinh sạch bằng hương.

Trời như hớp phải hơi men ngan ngát

Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương...

(Nguồn thơm)

Nhưng đó chỉ là những dấu tích bên ngoài.

Thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo. Ví dụ bài Phan Thiết:

Nhớ khi xưa ta là chim phụng hoàn

Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất...

Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất,

Và lùa theo không biết mấy là hương.

Trở lại trời tu luyện với muôn đêm,

Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả

.........................

Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,

Thơ phép tắc bỗng kêu rêu thống thiết :

- Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết !

- Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu

- Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư !

Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật, như ”thành chánh quả “, “sông Hằng”..., ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời “Đao Ly”, trời ” Đâu Suất” - những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng, - chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hoá một cách tài tình: Con chim phụng hoàng vì Sân Si mà phải đoạn, và khi trở lại trời tu luyện thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn, nên phải trở xuống trần gian, ”nơi đã khóc đã yêu đương da diết” để mà ”chôn hận nghìn thu“ và ”sầu muộn ngất ngư“.

Trong bài Phan Thiết, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ: Những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hoá:

Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,

Trăng tan tành rơi xuống một cù lao

Hoá đài điện đã rất nên tráng lệ ...

Và cõi đời này - mà Phan Thiết là tượng trưng - là nơi đau khổ, là nơi ”chôn hận nghìn thu”, là nơi ”sầu muộn ngất ngư”.

Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà.

Thật vậy: Trong nhiều vần thơ của Tử chúng ta thấy ẩn hiện những hình ảnh trang nghiêm và kiều diễm của cõi Tây Phương :

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền,

Không u ám như cõi lòng ma quỷ.

Vì có Đấng hằng Sống hằng Ngự trị,

Nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh....

(Ngoài vũ trụ)

Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc

Rất trọng vọng, rất thơm tho,man mác,

Rất phương phi trên hết cả anh hoa...

(Ra đời)

Bút xuân thu mùa nhạc đến vừa khi

Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi :

Cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc.

Và đầu hôm một vì sao liền mọc.

Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô !

Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,

Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo...

(Đêm xuân cầu nguyện )

Những “ánh sao vô cùng, sáng láng cả mọi miền”, những tiếng ”nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những điệu nhạc “rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác...”, những “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc”... ở trong thơ Tử là vang bóng của “vô lượng quang”, của “thiên nhạc”, của “hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo”... trên thế giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.

Tinh thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử; nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn át, nên chúng ta không trông thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm. Như trong bài tựa Xuân như ý có đoạn rằng:

“Ôi! Trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao ? Lòng vô lượng đây không phải do phép tắc màu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung ? Đưa ra nào nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn li tao, tranh tuyệt phẩm... Đưa ra nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hương, niềm mộc dược ... vẫn chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao ! Phải mời cho được Xuân Thiên ra đời...

Bình an cả và thiên hạ ...

Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mỹ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho, tinh khiết, khí xuân là mạch trường sanh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê li, tuổi xuân là Ngọc Như Ý, tên xuân là Dạ Lan Hương .

Và Xuân là phong vị thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời, châu lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc cả dải Hà sa, chen lẫn vô tận hồn tạo vật ...”

Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hoá bằng những hình ảnh tượng trưng ?

Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm (Lòng vô lượng), mà biểu hiện màu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan khắp không gian (trời muôn trời), chen lấn vô tận hồn tạo vật, và tồn tại cùng thời gian (năm muôn năm) .

Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Tử đã quan niệm cái tâm bất sanh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô Chung, và coi những hiện tượng do “lòng vô lượng” đã “đưa ra” kia là “công trình châu báu “ của đức Chúa Trời, nênTử “cao rao danh Cha cả sáng”.

Như thế là Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ của đạo Thiên Chúa ? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự tôn giáo mình ?

Thưa không phải.

Tử là một nhà thơ thuần tuý.

Tử tìm vào Đạo - Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật - chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho Thơ thêm giàu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể là ”phạm thượng“ đối với những Đấng Thiêng Liêng Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám nói:

Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ :

Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ.

Bút tôi reo như châu ngọc đền vua,

Trí tôi hớp bao nhiêu khí vị,

Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí,

Và trong tay nắm một nạm hào quang ...

Thật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa, hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứng :

Ta chấp tay lạy quì hoan hảo,

Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian,

Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân

Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế...

(Đêm xuân cầu nguyện)

Nghĩ đến những gì “giàu sang hơn Thượng Đế “, Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn thầm nguyện :

Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giê Su

Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối.

Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi

Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng

Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng ...

Lời xưng tội vẫn không thật nghiêm trang thành kính!Trong khi viết những lời tạ tội, Tử đã nghĩ đến thơ nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử luôn luôn thờ chúa trên thơ.

Còn đối với đạo Phật ?

Hàn Mặc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệu. Tử và Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của một nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái Đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu giống, không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ, và chỉ biết trải lòng hứng lấy những gì có thể hứng được trong cõi thơm thắm mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng tràn ra ngọn bút những lúc thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng..., và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ tưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng.

Và tất cả những gì đã thâu nhập được trong tôn giáo ,- trong Phật giáo cũng như trong Thiên Chúa giáo - một khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thế, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng :

- Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hoà cả hai thể văn tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chỉ là muốn làm giàu cho nền văn chương chung .

Bởi vậy khi đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm thông cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.

Nha Trang, mùa Xuân năm Tân Sửu (1961)

Yến Lan

Đạo và đời trong thơ Hàn Mặc Tử

Xin nói đến cái chất đời trong thơ Tử. Đời thì có niềm vui, nỗi khổ. Đời cũng không phải là cái chung của đa số, tập thể, đời còn là cái riêng, cái cá thể. Cái số phận của mỗi con người. Nếu không có lý do tồn tại thì làm sao gần nửa thế kỷ nay thơ Tử vẫn được truyền giữ cho giờ đây nhờ đổi mới tư duy lại được tung ra, có hàng vạn người vồ vập đón đọc. Đọc người lại gẫm đến ta, đã đành. Nhưng đọc người để cảm xúc về đời mới là điều đáng quý trọng. Nếu hạnh phúc, tai vạ không nhằm vào đời ta mà giáng xuống; thì hãy nhìn vào hạnh phục, tai vạ của người khác mà cùng sung sướng hay cùng đau khổ. Đấy là cây tương quan của cuộc đời. Đấy là sự sống, lẽ làm người. Huống chi ở thời đại nào, chế độ nào mà không có bi kịch.

Cảm ơn các bạn, những ai đang đau đớn với Hàn Mặc Tử.

Tử thường viết trong thơ, trong truyện: tự xưng mình là kẻ điên dại:

Thưa tôi không dám say mê

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lạy cả miền không gian…

Đấy là lời nói của một người tỉnh táo, một người không phải cứ có mỗi khó khăn nào xảy đến thì đã vội cuống cuồng lên. Một người dù có buồn, có giận cũng là “Tôi hoảng hồn lên giận sững sờ”.

Trong thơ Tử, không thấy có tư tưởng đập phá xung quanh. Không nghe đến oán than con người. Anh chỉ la lên như thế để cho hả hê, thoáng dạ. Kẻ thù của anh là bệnh tật, đau thương, không phải là con người cụ thể, nó là cán cân số mệnh đặt ở đâu đó trong không gian mỗi lúc cứ nghiêng dồn trọng lượng về anh.

… Tôi dọa không gian, rủa tới cùng

… Tôi siết thời gian trong nắm tay

… Tôi vo tiếc mến như vo lụa

Anh luôn muốn:

… Ghì lấy đám mây bay…

… Đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy

… Rình nghe tình bâng khuâng trong gió lảng

Nếu thế gian này la do Chúa tạo lập ra, thì đau thương cũng là sản phẩm của Chúa. Cho nên cái gì của Chúa lập ra anh đâu dám đập phá, và cũng chính đau thương là điều Chúa đặt ra để thử thách con người. Những động tác, những ý tưởng được thể hiện trong mấy câu thơ trích ở trên cuối cùng dẫn đến sự chấp nhận và chịu đựng. Bởi vì, anh cũng có cái phép lạ của anh là:

Anh đã thoát hồn anh ra ngoài xác thịt

Một điểm nữa cũng cần chú ý là không thấy anh nói lên sự trào vọt chứa chan của dòng nước mắt. Chỉ có nỗi thổn thức và đó là phần lớn của thơ anh.

Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức

Cùng ngửa nghiêng lặn lội giữa muôn hình

Để gào thét một hơi cho rởn óc

Cả thiên đường, trần gian và địa ngục

Tất cả những dãy dụa mơ ước, những bàng hoàng đó đều do một nhu cầu cấp bách: Giải phóng, giải phóng ra ngoài quạnh hiu, cô độc. Cho nên anh đã nghỉ đến cái chết rất bình tĩnh. Bình tĩnh, sốt sắng như anh dọn mình, chờ đợi:

Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt

Ngó tuy gần nhưng vẫn thiệt xa khơi

Thế là anh còn đón biết cuộc đau thương về thể xác này, còn dẫn đến đau thương về tâm hồn, kéo dài qua năm tháng, kéo dài trầm trọng. Chính vì vậy mà tập thơ của anh trước được mang tên là Đau thương sau đổi lại là Thơ điên. Ở anh Đau thương với Điên đều chung một nghĩa. Cái điên của anh đâu phải điên mất trí. Anh nhớ rõ mồn một từng kỷ niệm, từng vẫy động để khơi ra mừng vui hay đau khổ.

Bị bệnh tật hành hạ đau quá thì anh tìm đến tình yêu. Tình yêu trắc trở, anh dựa vào tình yêu bè bạn. Cô đơn, tù túng quá thì anh dựa vào cái mà thiên nhiên đã cho anh nhiều nhất, dễ dàng tiếp cận nhất, là trăng. Có lẽ trăng đóng vai trò chủ thể trong hơi thơ và tứ thơ của Tử. Trăng làm thức dậy trong anh cái mơ màng của tâm hồn thanh thoát, nhưng cũng khảy dậy trong anh cái ngứa ngáy xót xa của bệnh đau (có người bảo trăng mọc lên thì sâu hủi hoạt động mạnh).

Có một nguồn thơ đặc biệt dự phần đáng kể trong thi ca của Hàn Mặc Tử là thơ về Đạo. Anh một con chiên ngoan đạo tên thánh là PranÇois Trí. Cũng anh Nguyễn Văn Xê, đã nhận thấy trong những ngày ở chung phòng bệnh với Tử:

- “Còn nói đến cử chỉ, hành động bộc lộ ra ngoài mà tôi và mọi ngưòi thấy rõ ràng, nhất là Trí, trong những ngày giờ biết mình sắp chết, thì rất sốt sắng lo về phần hồn của tôn giáo. Trí rất thích nói về Đức mẹ Maria đầy ơn phước”.

Hàn Mặc Tử đang dọn mình để lên đường về với Chúa. Đó là công việc sắp xếp hành trang trong tâm hồn của một người bình thường ngoan đạo. Giai đoạn thơ anh đã nghiêng chảy và như anh đã viết trong bài Đêm xuân cầu nguyện, anh đang tranh thủ thời gian nhìn lại, phán xét, tự giác hơn ai hết:

Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi

Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng.

Tức là đã thấy trong thơ anh chất đời (đau yếu, bệnh tật) đã lấn át chất đạo (thanh khiết, thiêng liêng). Anh đã có ý nghĩ muốn thủ tiêu bằng đốt tan ra khói tập thơ Điên, nếu một ngày nào đó Chúa cho được lành bệnh.

Verlaine có cả một tập thơ Sagesse - Liturgie intime Francis Jammes viết ra những trường ca dài Les Géorgiques chrétinnes, Fioul des Cantiques de Lourdes và L’Alouette, cái đỉnh cao nghệ thuật của tác giả và của cả văn học cận đại Pháp. Và với bao nhà thơ khác đều tìm vào, khai thác đề tài công giáo, bên cạnh mọi đề tài. Vậy mà đâu có phải họ là các nhà thơ của Đạo.

Thơ về Chúa, về Đức mẹ đồng trinh của Hàn Mặc Tử nếu không có những yếu tố khác nữa, cũng khó mà thâm nhập vào tâm hồn người đọc có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng. Cho nên, theo tôi, khi nói đến Hàn Mặc Tử tôi không lướt qua việc giới thiệu, anh là một người ngoan đạo làm thơ, nhưng đồng thời cũng làm thấy rõ cái chất Đời trong thơ anh vừa riêng biệt tưởng không hình dung ra nổi, lại vừa rất thực rất chung, có thể sờ mó lên được. (Đêm xuân cầu nguyện)

Mà thôi, Đạo với Đời trong thơ anh vẫn là những mặt nhỏ trên một viên kim cương, mặt này ánh xanh, mặt kia ánh vàng, mặt khác lại ánh lên đỏ, tím đều làm cho viên kim cương có sức ngời chói lóng lánh.

Hàn Mặc Tử là một con người thanh xuân, bị cách ly ra ngoài hoạt động của gia đình và xã hội. Một con người tuyệt vọng trong tình yêu. Một con người bị chứng bệnh nan y, sống khắc khoải đợi chờ cái chết. Một con người cùng cực đau thương từ thể xác đến tâm hồn, thở bậc ra cân não, nơi hộc ra máu, trào và làm thơ, làm ra những bài thơ tân kỳ ít có trong lịch sử văn học, ở chỗ những bài thơ ấy lay động lòng người. Cho nên khi Chế Lan Viên đặt ra câu hỏi bằng tít lên trong cái tựa của tuyển thơ “Hàn Mặc Tử, Anh là ai”. Tôi xin trả lời, mặc dù anh đã phân tích hết: Hàn Mặc Tử là Hàn Mặc Tử!

Bình Định, 18-4-1988

Chế Lan Viên

Hàn Mặc Tử, anh là ai?

Bây giờ Hàn Mặc Tử đã nằm trên một điểm cao Gành Ráng đối diện với bể Đông, bể chói lòa như thơ Anh và giông bão tựa đời Anh. Nằm với trăng sao như Anh từng mơ ước:

Với sao sương anh nằm chết như trăng

Dưới kia là thành phố Quy Nhơn (những thành phố miền Trung thường có các nhà thơ ở trong và biển ở mé ngoài) - thành phố của mẹ già nuôi Anh “cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế ”, của chị Lễ “chị cũng trăng mà em cũng trăng” của em Hành đem cơm cho Anh trong suốt bốn năm trời Anh phung hủi, và trước khi vào Quy Hòa để qua đời trong đó, nghe đâu, Tử đã sụp lạy cảm ơn em. Quy Nhơn, thành phố của bạn bè, của bóng dáng tên tuổi những người yêu, cũng là nơi Tử phải trốn chui trốn nhủi để khỏi bị bắt đưa vào trại cùi trong núi. Nhưng Quy Nhơn đối với cả nước và nơi Anh viết những trang thơ ngời chói, máu và nước mắt đời Anh đã khúc xạ, đã biến hóa, đã hóa kiếp, thăng hoa, kết tụ thành trăng sao.

Chỉ có trăng sao là bất diệt

Cái gì khác nữa thảy đi qua

Thôi cả cuộc đời bi thảm của Tử kia, dù bi thảm đến đâu cũng đã qua rồi. Cái còn lại là những bài thơ đã từ thời Anh đi thẳng vào “thời đại lớn” chữ của Báctin), rồi hôm này từ “thời đại lớn” ấy về thời đại chúng ta.

Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương anh nằm chết như trăng

Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc

Đến hôn anh và rửa vết thương tâm.

Bậy nào, sao lại không. Hôm nay có hàng vạn hàng chục vạn tấm lòng đến cùng Tử đấy.

Tôi không muốn nhắc lại cuộc đời của Tử, vì người ta đã viết thêm quá nhiều, và cũng viết bớt quá nhiều. Viết bậy càng lắm lắm. Cho dù Hàn Mặc Tử có cuộc đời bệnh tật, cuộc đời tình duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ, dữ dội gấp trăm lần, nhưng ba hòn núi ấy chụm lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng mát thơ nào, ba hòn núi ấy không đẻ được một con chuột nhắt thơ nào, thì việc gì ở đây ta phải dông dài. May thay Tử là một đỉnh cao, chói lòa trong văn học của thế kỷ. Cho nên cũng không mất công đâu khi vì văn Anh mà tìm hiểu thân thế, đời Anh.

Hàn Mặc Tử có tài rất sớm. Tản Đà đã định khen thơ Anh trên báo nhưng rồi tiên sinh qua đời. Làm một bài thơ như bài Cửa sổ đêm khuya đọc lui, đọc ngược sáu cách, Tử rất giỏi.

Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương

Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương

Tha thướt liễu in hồ gợn sóng

Hững hờ mai thoảng gió đưa hương

Xa người nhớ cảnh tình lai láng

Vắng bạn ngâm thơ rượu bẻ bàng

Qua lại yến ngàn dâu ủ lá

Họa đàn sẵn có dế bên đường.

Đọc xuôi, đọc ngược, bỏ hai chữ đầu đọc xuôi, bỏ hai chữ cuối đọc xuôi, bỏ hai chữ đầu ngược, bỏ hai chữ cuối đọc ngược. Tử làm bài ấy lúc 17, 18 tuổi, cũng là một cách xem thường tài vua Tự Đức “chả mấy giỏi” hơn mình. Sau này, có lúc Tử xem mình là “vua nhà Nguyễn (Nguyễn Trọng Trí là tên anh) bay trên mây”, cái nầm mống phạm thượng biết đâu không bắt đầu từ lúc làm thơ thuận - nghịch độc ấy.

Tử có rất sớm, trong khuôn khổ gò bó trói voi bỏ rọ của thơ Đường luật mà có, cái khả năng Thượng thanh khí, hóa (tên một tập thơ của Anh về sau), tâm tưởng tâm hồn hóa”

Tương tư mộng thấy năm canh mộng

Luyến ái trời vương bốn phía trời

Cái khả năng thế-tục-hóa, da-thịt-hóa

Bóng nguyệt leo song, sờ sẵm gối

Gió thu lọt cửa cọ mài chăng

Khả năng kỳ ảo, ma-quái-hóa cũng xuất hiện rồi:

Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt

Khép phòng đốt nến, nến rơi châu

Đấy không phải là thủ thuật, kỹ thuật, những cách bên ngoài. Hoặc, nếu là thế thì cũng nhờ có một cái cốt thế nào đó, một cấu trúc tâm hồn thế nào đó ở bên trong. Hàn Mặc Tử lúc ấy còn lấy tên Phong Trần, tên Lệ Thanh đi về, qua lại giữa trời và đất, cảnh và người, thực và hư... rất thoải mái. Hơi văn lúc thì thu cả cảnh vật vào trong dúm chữ “Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt”, lúc thì văn chương chữ nghĩa tuột ra khỏi lòng như một tiếng kêu, một ngọn gió, nhát dao: “Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt”. Năng lực đàn hội ấy cũng khá rõ ràng. Nhưng phải có cơn bão máu, trận hồng thủy tai ương, những động đất tâm hồn, những phun lửa tình yêu kinh khủng về sau, thì các khả năng kia mới lên cái thế bình phương như ta thấy. Từ 1936 đến 1940, nghĩa là sau khi rời Sài Gòn, ra Gái quê, về Quy Nhơn thọ bệnh, cho đến lúc ra Quy Hòa và mất, Anh đã làm quá trình một thế kỷ về thơ (1936 - 1940), cũng là thời kỳ tôi học ở Quy Nhơn, giới thiệu dìu dắt tôi vào thơ là công Anh lúc đó. Từ một nhà thơ biền ngẫu theo lối cổ phương Đông, Anh đã hiện đại như những nhà thơ hiện đại nhất châu Âu. (Chỉ so với André Breton, ông tổ siêu thực không thôi cũng đủ thấy rõ). Hơn nữa, thiên hạ hiện đại bằng óc, bằng lời, còn Anh thì bằng máu.

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy diên cuồng mửa máu ra

Văn học cần nói những vấn đề chung, phổ biến cho nhân loại. Nhưng oái ăm chưa, nó lại đòi cái người nói đó là một cá nhân, một bản lĩnh, một sắc thái riêng, không giống ai, chỉ có một bản duy nhất, không lập lại hai lần. (Nói thế chứ trong văn học người ta vẫn na ná nhau khối ra đấy! Hàn Mặc Tử thì không. Anh chỉ có một, thật. Như một Rimbaud của Pháp, một Holderlin của Đức, một Edgar Poe của Mỹ, một Bồ Tùng Linh của Trung Quốc, một Maiakovsky (trước cũng như sau cách mạng tháng Mười) của Liên Xô.

Chúng ta cần có người tả trăng là trăng. Nhưng cũng có người vượt lề thói tập đoàn mà xẻ trăng ra làm hai nửa: Vầng trăng ai xẻ làm đôi (Nguyễn Du). Cần truyền thống lại cũng cần biến dị, cần nói điều chưa ai nói (người ấy không nói thì ta mất đi, ta nghèo đi cái điều đặc biệt, duy nhất người ấy nói ra).

Hôm nay có một nửa trăng thôi

Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi

Ta nhớ mình xa thêm đứt ruột

Không phải ma thuật, kỹ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sử gì làm trữ kim, làm bảo đảm, thì mới có thể phát ra các từ kia.

Người Trung Quốc xưa đánh giá thơ nào thâm, nào chân, nào thiện, nào cao, nào tân, nhiều thứ lắm. Tân là “mới”. Nhưng sau tân, lại còn của tân nữa, đó là kỳ (lạ).

Tóc dài ba nghìn trượng

Vì sầu nên hóa dài

(Lý Bạch)

Bốn dây ứa máu Tỳ bà

(Tương An)

Và đêm nay hồn anh về ngủ thắt lưng em

(Ca dao H’mông)

Mái nhà dài như một tiếng chiêng. Tóc nàng dài đến nỗi thả ra thì xuống tận đất như một thác nước và che bóng râm như một cây knia.

(Dân ca Tây Nguyên)

hay khi Nguyễn Du tả ma

Dấu dày từng bước in rêu rành rành

thì đều là kỳ đấy, đều là siêu đấy! Mà nào ta có mất thực đi đâu. Ta được nó một cách khác, ở một nhiệt độ, cường độ khác.

Người châu Âu đẩy cái kỳ đến cùng, và kỳ cùng chủ thì từ yếu tố nó thành chủ nghĩa. Chủ nghĩa siêu thực còn có tên là romantisme fiesqu’au bout (chủ nghĩa lãng mạn đến cùng), rượu trên 100 độ. Thế thì chết. Chúng ta chống chủ nghĩa siêu thực, chống chủ nghĩa siêu thực ở dạng ấy, ở độ ấy, trương lên thành ngọn cờ tướng chỉ huy ấy. Aragon, Éluard, các vị tổ sư, tướng lĩnh từng phất ngọn cờ ấy, đã vứt nó, để trở thành người lính, rồi chủ soái trên thi đàn hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi đã thành nguyên soái của thi đàn này, các ông vẫn sử dụng các yếu tố siêu thực, sử dụng siêu thực như yếu tố, cho cái hư ảo nó phục vụ, hiện thực mình. Và sung mãn hơn lên vì vậy: Chân chân chân, thật thật thật nhưng lại còn đi với ảo ảo ảo nữa. Diệu ơi! Hàn Mặc Từ không phải là nhà thơ siêu thực. Trước sau anh vẫn là lãng mạn, dùng nhiều yếu tố hiện thực, dùng nhiều yếu tố siêu thực: đó cũng là điều trước đây cha ông đã dùng. Nhưng chưa có ai dùng đậm đặc như Anh. Dù đó là Lê Thánh Tông ở Di thảo, Nguyễn Dữ ở Truyền Kỳ mạn lục, Nguyễn Du ở Chiêu hồn hay lúc tả Đạm Tiên. Sau này không biết có ai thừa kế Anh không? Cho nên nhìn trước nhìn sau, Anh là của hiếm ở đất nước luôn luôn cần tỉnh thức nên hóa ra quá tỉnh táo là đất nước mình. Trên thế giới thì lại khác! Cần chống lại với cái không khí duy lý đến cùng, duy lý quá quắt của thời đại máy móc kỹ thuật, biểu đồ, thống kê, công thức này. Các nhà văn châu Âu hiện nay rất mê chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo của châu Mỹ la tinh, trong đó các yếu tố kỳ, hư ảo, ma quái, huyền thoại, siêu thực đã được phát huy để nuôi hiện thực. Asturias, Carpentier, Marquez đã được đánh giá cao và hâm mộ ở Liên Xô. Tử trong thời gian chúng tôi gần chỉ thấy Anh nói về baudelaire, chớ Lautreamont, Gérard de Nerval. Anh cũng ít nói đến, nói chỉ là Breton. Anh có biết hay không chủ nghĩa siêu thực? Chắc là không. Giờ bảo Anh có xa gần với các họ hàng đầy biến động, thích biến dị, luôn biến hóa đó, có khi anh giận giữ cũng nên! Anh chỉ nói:

Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lại cả miền không gian

Hay

Tôi điên tôi nói như người dại

Van lạy không gian xóa những ngày

Và Anh giải thích vì đâu mà điên, bởi đâu mà dại:

“Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản bội lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá. Tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú”.

Càng chứng tỏ là siêu thực của Anh không phải từ sách vở ra, từ châu Âu đến, mà từ thảm kịch của Anh mà ra.

“Nàng” ở đây không phải là cô con gái nào đâu! Nàng đau thương đấy. Tử thường đọc Baudelaire:

Sois sage ô ma douleur et tiens - toi plus tranquille

(Hãy khoan hỡi em yêu thương và em đứng yên nào!)

Tử bảo Anh khóc, Anh gào, Anh rú. Tử quên mất (và chúng ta cũng quên theo) là Anh cười nữa chứ.

Ha ha! Ta đuổi theo trăng

Ta đuổi theo trăng

Trăng soi lả ngả trên cành vàng

Hoặc

Hôm nay vui quá anh Phùng ơi

Cười nói làm sao cho hả hơi

Mà cười như thế là không điên đâu, chả dại chút nào! Anh chả thèm làm thơ của sự chết, của Hư vô, như những người viện Heiddeger, viện Jaspers, rồi dán cho Anh nhãn hiệu có dấu âm, có hơi âm ấy.

Đầu cân bên này có tiếng cười ha ha, đầu cân bên kia lại là một cuộc đời bi thảm vào bậc nhất. Giá tiếng cười ấy đắt lắm, nặng đồng cân lắm, chứ đâu phải thứ nhở nhơ cười, hể hả cười của chúng ta đâu.

Xin dâng này máu đang tươi

Này đây tiếng khóc giọng cười chen nhau

Ta có chịu nghe tiếng cười đắt giá đó không? Và có khôn lỏi ném tiếng khóc kia đi, hắt cái máu kia đi, chỉ lọc lấy một tiếng cười đưa vào Tuyển tập, đã vô trùng hóa. Nhưng nghe tiếng khóc kia, thì ta có thể bị nhiễm độc không? Ngược lại, giữ gìn bịt tai không nghe nó, thì ta có bị thiệt thòi gì...

Ở mấy chục năm trời đánh nhau với những tên giặc quỷ sứ khổng lồ, ta lắm lúc phải trị lấy ta rồi mới đánh được giặc. Luyện chúng ta từ bùn, từ bún thành sắt thép là vô cùng cần thiết. Nhưng xong giặc rồi, cậu bé Phù Đổng, phải nhanh chóng trở lại hồn nhiên con trẻ chứ. Thế thì mới đủ sức hóa thành sắt thép kỳ sau. Đó là quy luật ức chế và hưng phấn của Pavlov thôi, chả có gì lạ.

Những năm tháng trọng đại đó, ta cần tỉnh giấc nên sợ cả mộng mơ thiếp ngủ. Chỉ chợp mắt một tý thôi, có khi đê vỡ, giặc tràn. Huống nữa là cái đê tư tưởng! Đồng chí Lê Duẩn bảo: “Nhiều người, hai người, một người, cá nhân lứa đôi tập thể”. Những năm ấy không có tập thể, nhiều người thì mất mạng, nên có khi ta cảnh giác chỉ có hai người, lúc trơ trọi một người. Tố Hữu mới viết: “Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn” thì đã có nhiều người không muốn có riêng và một ấy. Con người ta thích nó giữa đội hình đồng đội, tập đoàn, hơn thế lại là đội -hình-đang-chiến-đấu, và tập- đoàn-đang-sản-xuất. Ta ưa nó ở thế đông, hành động, lao động với tất cả ý chí, reo hò, vỗ tay đôn đốp, và ta ngại nó khi tỉnh lặng, khi xúc cảm. Có xúc cảm thì cũng là xúc cảm phấn khởi, chứ hay chi cái xúc cảm buồn! Ôi, Tử ơi, thế mà Tử lại cùng cực đau buồn:

Ta trút linh hồn giữa lúc đây

Gió sầu vô hạn nuốt trong cây

Còn em sao chẳng hay gì cả

Ta không hay, hoặc là không muốn hay, không dám hay. Ta không hay rằng con người gồm các vấn đề xã hội lịch sử mà ta quan tâm trước tiên là rất đúng, lại còn mỗi con người có một thân phận, một cuộc đời riêng. Mác hơn Karl Jaspers chỉ biết con người trong đau khổ, trong chiến đấu, trong tội lỗi, và đối diện cùng cái chết. Theo ông, đó là các điểm cực của kiếp người. Con người theo ông thì dao động thăng trầm giữa yêu thương và thù hận. Mác cũng cao hơn Phật, chỉ thấy sinh, lão, bệnh, tử, và dao động thăng trầm bởi vô thỉ tham sân si. Ôi, chết có tiền thì cũng sướng đấy. Bệnh mà thuộc một giai cấp quý tộc giàu sang thì cũng khỏi bệnh ngay.

Trăm năm trong cõi người ta, “hữu” tại thế, tại cõi thế này thì không phải chỉ sinh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ mà còn không tiền nên khổ. Khổ vì tư bản, và tột cùng của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, là nơtơrôn đó. Nhưng chỉ biết “tổng hòa các quan hệ xã hội” thì không hiểu Mác. Mác bảo: “Cái gì thuộc về người, với tôi đều không xa lạ”. Thế mà Tử yêu, Tử đau, Tử bệnh tật, Tử trong cô đơn, Tử đối diện cùng cái chết, lại xa lạ với ta ư? Thảo nào Aragon hỏi: “Trăm năm sau người ta có biết Baudelaire không nhỉ”. Và ông nổi cáu: “Nếu người ta không biết Baudelaire thì cần cóc gì biết đến người ta”.

Trở lại vấn đề con người một tí. Vì nói gì thì nói, ở đây thơ văn nào, cũng là chuyện về nó đấy thôi. Một quyển sách nổi tiếng trên thế giới tên là “Người, kẻ chưa ai biết ấy”. Cố nhiên là biết, nhưng mới ở vòng ngoài. Nhìn ngoài nói liền một cục. Nhưng mà nó có một câu. Khoa học bảo nó là hai ghép lại. Anna de Noailles thì bảo nó là vô số Coeur Innombrable nữa kia. Cố nhân là nội tâm. Nói Cao Bá Nhạ tìm thấy “trong một mình bảy tám biệt ly” nghĩa là vẫn không phải là một. Ở người, dưới nó còn có nó, bên cạnh nó lại có nó, đằng sau nó còn có nó (mà nó ngờ yêu tinh).

Bóng ai theo dõi bóng mình

Bóng nàng yêu tinh

Nụ cười như tiếng vỡ pha lê

Hãy đi sâu và thơ Tử, vào một tế bào của thơ Anh một chút. Gần năm mươi năm nay, ta đã động gì đến Anh đâu. Không khéo thì đây là dịp đầu tiên mất. Về vấn đề mình và ai, một mình hay hai mình đó, có lúc Tử viết:

Lụa trời ai dệt với ai căng

Ai thả chim bay đến Quảng Hàn

Kìa ai gánh máu đi trên tuyết

Và ở một bài khác

Ai đi lẳng lặng trên làn nước

Với lại ai ngồi khít cạnh tôi

Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng

Không nói không rằng nín cả hơi

L’homme cet inconnu, người, cái kẻ bí mật ta chưa biết hết ấy rồi đây. Hàn Mặc Tử đã kể cho Quách Tấn, Quách Tấn đã viết lên trên báo. Và đây là một hiện tượng rất thật. Một đêm khuya vắng, một mình Tử còn ngồi ngắm trăng trên bể. Bỗng Anh thấy có ai đó ngồi khít rịt bên anh. Rồi từ người đó lại hiện ra người nữa. Rồi biến đi. Rồi thấy mặt bể đông lại như tuyết. Trên bể có một người vạm vỡ mặc áo lông gánh hai thùng thiếc chạy băng băng. Từ hai thùng tung tóe ra những máu là máu. Tử hoảng sợ chạy về nhà.

Rainer Maria Rilke, thi hào Tiệp và của cả thế kỷ này, khi viết Bi ca đờ Đuy-nô (Élégie de Duino) đã chú thích: “đọc bởi một kẻ vô hình”. Hoàng Trung Thông năm ngoái bảo tôi: “Mình uống rượu nhiều nên bị bệnh huyễn tưởng, mình nghe ai nói trong quạt máy” (Xin nói là anh vẫn cứ viết như thường, hay như thường). “Bệnh tâm thần”, ta vội kết luận. Và đưa nó cho các nhà y học, phân tâm học. Hãy dừng lại đã. Tôi nhớ đến một ví dụ mà các nhà hiện tượng luận đồ đệ Husserl hay nhắc. Có một bệnh nhân nghe tiếng nói kiểu ấy. Bác sĩ không tin. Người bệnh cáu: “Tin hay không mặc ông, nhưng rõ ràng tôi nghe thấy”. Các vở kịch viết về Jeanne d’Are của Pháp đâu có loại việc nữ Anh hùng “nghe” như trên. Mặc kệ y học, về thơ ta hãy thử đếm xỉa đến hiện tượng ấy. Nó là gì? Vì Tử đau yếu chăng! Không, theo tôi chính là Anh rất khỏe, cái hồn thơ Anh rất khỏe. Chả là cô đơn, chả là hư vô, chả là cái chết dập dờn ở trong phòng bệnh, và ở giữa đêm trăng này muốn thủ tiêu Anh mà không được. Anh là Một. Nó muốn zéro hóa anh, hư vô hóa Anh cho không còn dấu vết. Nhưng Anh đâu có chịu thua. Anh hóa hai, hóa ba, mình ngồi cạnh mình, hơn thế mình lại vạm vỡ ra, nở nang lên, gánh chạy, gánh cái gánh máu đời mình, chạy trên cái bể thảm kịch của đời mình. Cũng là một cách đối chọi! Hơn gấp trăm lần cái phương pháp ngâm bóng mình dưới giếng của Narsisse đến héo mòn, hủy diệt đi không còn tồn tại ở kiếp Người.

Nếu ta hiểu cho sự đối phó ấy của Tử thì hồn Anh chả có gì hồn ma, bóng quỷ, hay là cái linh hồn của Chúa thổi vào, trong đất sét là ta: “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng”. Hồn, đó là sản phẩm của Anh tạo ra. Tạo ra, lại còn dắt nó đi chơi nữa: “Dắt hồn đi ròng rã một đêm nay”. Anh có bạn. Hàn Mặc Tử không còn thụ động là sản phẩm trong bàn tay Thượng đế, tự anh, Anh đã chủ động, đóng vai Thượng đế hơi phạm thượng đấy, nhưng vui chứ, đỡ cô đơn chứ. Khạc hồn ra, “cho hồn cao văng lên muôn trượng” bằng Miệng, cái cơ quan sử dụng Lời, Ngôn ngữ, Anh lại còn khạc ra nhan sắc, người yêu:

Cả miệng ta là trăng là trăng

Cả lòng ta vô số gái hồng nhan

Ta nhả ra đây một Nàng

Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây

Và bỗng dưng từ thơ, tôi nhớ đến khoa học, đến nhà khoa học vĩ đại của nhân loại Einstein. Ông nói: “Cái điều đẹp nhất mà ta có thể cảm giác được chính là cái khía cạnh huyền bí của cuộc đời. Đó là tình cảm sâu xa ở trong nôi của nghệ thuật và khoa học thật sự”. Nhà khoa học thật sự tương đối yêu sự diệu huyền và nuôi đứa trẻ ấy trong nôi, thế sao ta, nhà văn nghệ còn bấp bênh lại muốn tuyệt đối chỉ yêu cái gì một là một, hai là hai rõ ràng, chứ không thể một vẫn là hai được?

Tôi đã có một kết luận kỳ cục, ngược đời nữa. Hình như trước cách mạng, cả nước đau thương, mà thêm một giọt đau thương của Tử thì thuyền đau thương ta nặng quá, và chìm vào bể đau thương mất! Cả cuộc đời ở trong vòng nô lệ, thì cái huyền diệu cần thiết, cần kíp nhất lúc ấy là phá cái vòng ấy để giải phóng mình, chứ huyền diệu, diệu huyền “lên bến sông Ngân giật lụa chơi”, nước biến thành trăng trăng ra nước” thì là thoát ly nguy hiểm... Ấy, nhưng bây giờ, bây giờ thì khác. Thập vạn hùng binh của ta đã quét sạch các thứ đế quốc đến đây. Ta quyền lực, ta oai hùng mà bịt tai lại không nghe tiếng khóc kia, khép mắt lại không nhìn sự diệu huyền kia thì nguy hiểm! Biết đâu ở đầu đường chỉ là sự tự tin ở sức khỏe mình, sức lực mình, mà rồi chủ quan, mà rồi lãnh đạm, mà rồi vô tâm, mà rồi quan liêu... và cuối đường là sự xơ cứng động mạch bạo tàn. Con mắt chớp chớp để ngạc nhiên, con mắt long lanh để khóc cần lắm chứ. Chứ phải đâu chỉ có con mắt tỉnh thức, tỉnh táo, cảnh giác, trừng trừng. Nhà tiểu thuyết lớn Liên Xô, Bôndarev nói về sứ mạng của nhà văn là: “bằng những dây thần kinh lòi trần, họ cảm nhận nỗi đau của những người khác và truyền cho đồng loại những tín hiệu về sự khốn cùng phải cứu giúp nhau”. Tín hiệu S.O.S của Tử không phải chỉ cứu Hàn Mặc Tử ! Chết rồi, Anh cần gì! Cứu chúng ta đấy chứ. “Người dưới vực sâu vẫn cứu kẻ trên bờ”. Cứu ta khỏi sự chết cứng dày da, giảm sút xúc cảm, giảm sút nhân tính, nhân tình... Đừng sợ nó làm cho ta thoát ly. Đọc đi, bạn sẽ thấy nó làm cho ta thoát chứ không thoát ly, ta thanh thoát, ồ, phải đấy, nó có tác dụng tẩy rửa và thanh lọc.

Có nhiều ngộ nhận cho đến nay về Tử. Rằng Anh là tiếng nói của tôn giáo, của Thiên Chúa giáo. Có thì cũng chả sao! Các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, đứng đầu là Liên Xô, khi tiếp thu di sản của quá khứ thì ba phần tư các tác phẩm xưa là của những nhà văn hay nói đến Thượng đế. Và ta chả tiếp thu thơ các nhà sư, sư tổ nữa, đời Lý, Trần đó sao? Cố nhiên là Hàn Mặc Tử yêu Chúa, nguồn động viên lớn, vô cùng lớn với Anh trong bước ngặt nghèo. Nhưng khi Anh viết bài Thánh nữ đồng trinh Maria:

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế

là Anh vừa viết cho mẹ trên trời vừa viết cho Mẹ Anh dưới đất. “Mẹ ơi, con sắp chết nay mai. Con không sợ chết mẹ ạ. Nhưng nghĩ rằng con phải rời bỏ mẹ, con đau lòng quá”. Tôi nhớ cái lời thư ấy. Tử là người con rất có hiếu. Tử cũng từng ví chị Lễ trong bài văn xuôi tuyệt vời như thủy tinh Chơi giữa mùa trăng: chị “thanh thoát tinh khôi, uy nguy và tươi tốt như pho tượng Đức bà Maria”. Chuyện dưới đất thành ra chuyện trên trời. Một người công giáo chính tông không thể viết: “Ở đời chỉ có một hạnh phúc làm chi có hai cảnh Tịnh độ và Niết bàn”. Lên cao trên Thượng thanh khí, Tử ít gặp thiên thần mà hay gặp các nàng tiên đang tắm “Và đôi môi biểu lộ hết xuân tình”. Đừng đưa Anh lên cao, nhưng cũng xin đừng lợi dụng Freud lợi dụng phân tâm học, hạ Anh xuống một nhà thơ xác thịt. Chính thế tục trong anh, cái sức nặng của sự sống có hồn và có thân thế ấy đã níu Anh lại, không cho Anh đứt dây bay vút vào cõi Siêu hình. Vả chăng anh thế chứ đâu có tục ! Khi ta thích “Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” của Nguyễn Du, ta phải thích “Ơ kìa bóng nguyệt trần truồng tắm” của Anh. Chả lẽ cô Hồ Xuân Hương có quyền mà bóng trăng Anh thì bị cấm!

Cũng không nên nấp sau lưng của Heiddeger, nói Anh là nhà thơ của vô vọng thời gian, con người bị cuốn hút vào hư vô, vào cõi chết. Ai mà chả là nhà thơ của thời gian, vì ai mà không bị cuốn hút trong dòng sông âm thầm hay chảy xiết đó? Nhưng ngược đời chưa, Hàn Mặc Tử lại bước vào không gian đấy:

... Chắp tay tôi lạy cả miền không gian

... Van lạy không gian xóa những ngày

Băn khoăn của Anh không phải là lúc nào, mà ở đâu:

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?

Còn Hư Vô, còn sự chết? Biết mình đang chết, sẽ chết, thế mà:

Ta đi bắt nắng ngừng nắng reo nắng cháy

Trên sóng cành, sóng lá trên sóng áo cô gì má đỏ hây hây

Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió lãng

Với là hơi thở nồng nàn của tuổi thơ ngây

Hỡi những người đang sống, đang thừa sức sống, đang dồi dào sinh lực như chúng ta, có “làm” được dăm câu như vậy không?

Vạn tuế, bay ơi, nắng rợp trời

Tung hô nắng, ma bay ơi, đủ biết Anh không đứng vào hàng các cụ già đang sắp hàng lụ khụ chờ giờ báo tử. Kìa Anh đang chạy reo trong sân, trong nắng ngoài kia! "Bay ơi, nắng”.

Ai đó bảo “Người ta không giải thích một người đang giận” (hay đang điên thì cũng thế), người ta hiểu Anh ta thôi”. Có khi chỉ hiểu cũng chưa đủ. Phải cảm. Dùng ý thức để giải thích, để hiểu chưa được thì phải huy động cái vốn liếng tiềm thức, kinh nghiệm, trực giác, kỷ niệm... mà bao trùm cảm một cái xem sao.

Trăng, trăng trăng là trăng, trăng, trăng

Thế là tận cùng của sự dễ hiểu rồi, có gì, còn gì để giải thích nữa ? Ấy thế nhưng cảm cho được cái nhịp điệu tăng, tăng, tăng, như tiếng trăng chạm vào tâm hồn, tăng, tăng, tăng như cái ngân vang của tâm hồn không dứt, thế là lại bí mật, lại huyền diệu rồi! Đọc Hàn Mặc Tử là như vậy. Có khi đọc từng câu, từng ý, cầm từng bộ phận lên ta không hiểu. Nhưng ào đi, đọc một hơi cả bài, để cho nó cuốn ta đi trong dòng chảy của nó, cảm cho hết cái hồn, cái khí lực, cái không khí, cái nhịp điệu toàn bài, vâng toàn bài, thì ta lại “ngợ” ra. Cái rung động nhờ cảm toàn bài giúp ta quay lại hiểu được từng chữ, từng câu, từng bộ phận. Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả, dồn dập, sáng tạo chứ đâu có làm văn! Anh trút đời mình, lòng mình từng trận, từng hơi chứ đâu có ngồi điêu khắc, chạm trổ từng câu, từng chữ. Ta phải hiểu Anh không phải từng câu từng chữ mà phải từng hơi. Các nhà thơ khác ta tìm hiểu, rồi làm quen, quen cho đến thuộc, càng thuộc, nhập tâm ta càng khám phá ra và yêu họ. Nhưng với Hàn Mặc Tử có khi lại cứ phải yêu Anh trước, thuộc Anh trước, nhờ thế ta quen với những kỳ, những siêu, những điên, những dại, những điều ta không nghe:

Người lắng nghe, lắng nghe trong đáy giếng

Tiếng vàng rơi chìm lỉm xuống hư vô

thấy được các màu ta không thấy:

...Chết rồi, xiêm áo trắng như tinh

... Bóng em chờn chợ trong bao nhiêu máu

Anh có những tầm nhìn ta chưa quen thuộc:

Anh đứng cách xa hàng thế giới

Lặng nhìn trong mộng miệng em cười

Mặc những thứ ta ít mặc:

Áo ta rách rưới trời không vá

Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng

Cho đến lương thực của Anh cũng khác:

Gió trăng có sẵn làm sao ăn

Ta hãy để cho ta cuộn đi trong dòng nhạc, cái nhạc mới nghe chưa hiểu nó nói gì, chỉ cảm được nó ru ta, nhưng đừng sốt ruột, son (âm thanh) đi trước và sens (ý nghĩa) sẽ lần theo sau, lần theo sau, đừng sốt ruột.

Sang chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai

Thu đây rồi! Bước lên cầu Ô thước

Sao vàng rơi đầy trên sóng nước

Đứng ngửa tay mà hứng máu trời sa

Rồi lại

Để chơi vơi này bóng trăng là gió

Để phiêu diêu này tờ thơ vàng vọ

Để dầm dề hạt lệ đôi ta

Beethoven bảo rất đúng: “Âm nhạc là một sự thiên khải cao hơn mọi khôn ngoan, mọi triết học”. Để cho cái nhạc dại dại của đoạn thơ này ru ta, nghe những máu kia, sao trời kia, tờ thơ kia, giọt lệ nọ, bỗng dưng ta thấy lóe ra như được khôn ra, được thiên khải và nhận ra rằng: Hàn Mặc Tử đây rồi. Máu ra sau, chơi vơi và vàng vọ, phiêu phiêu trăng gió và hạt lệ dầm dề.

Cái cấu trúc nghịch lý của Hàn Mặc Tử ! Hồn tráng lệ của Anh đấy, mà thảm kịch đời Anh đấy. Hiểu rồi.

Đi công tác ở các nước phương Tây tôi thường gặp anh chị em Việt Kiều xa nước lâu ngày, gặp anh chị em di tản nữa. Các anh chị em hỏi: “Cách mạng đối với Hàn Mặc Tử ra sao?” Ra sao ư? Cách mạng đã đón di hài vua Duy Tân về nước vừa rồi, Cách mạng cũng đón thơ của Tử như vậy. Cách đây từ những ba mươi năm tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai năm 1957, lúc đất nước mới chỉ có tự do một nửa, thù trong giặc ngoài làm cho Tổ quốc ta ở trong thế ngặt nghèo, thế mà bàn về vấn đề tiếp thu di sản, đồng chí Trường Chinh đã nói:

“Cần nhận ra rằng văn nghệ cách mạng của chúng ta là kẻ kế thừa tất cả những giá trị văn nghệ do các thời đại trước tạo ra. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả các di sản của dân tộc và cũng chỉ có chúng ta mới làm nổi công việc đó”.

Hai lần đồng chí dùng đến từ tất cả. 57-87! Ba mươi năm, chiến tranh cũng chiến tranh rồi, hòa bình cũng hòa bình rồi, nếu không tiếp thu Tử bây giờ còn đợi đến lúc nào! Giao cho con cháu tiếp thu thì con cháu sẽ lên án chúng ta thôi. Sao cái gì cũng dồn cho chúng nó. Chúng ta còn bao nhiêu việc. Huống nữa tiếp thu Tử là có lợi cho chúng ta chứ lợi gì cho Tử đã chết cách đây nửa thế kỷ. Anh Trường Chinh dặn tiếp: “Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc đối với những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa những thái độ bất công đối với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời”. Thực là chí tình đạt lý.

Và tôi tin là việc tiếp thu Tử, như anh Trường Chinh nói, với văn nghệ hiện thời, sẽ có tác dụng mở rộng con đường, hỡi những người mỗi bước đi cứ sợ nhầm đường.

Sự thừa kế các tác phẩm như của Tử sẽ làm cho tim ta nhân tính hơn, óc ta co dãn đàn hồi hơn, và cái nhìn ta không đơn giản mà trở nên đa dạng và phong phú.

Ô kìa, bây giờ đối diện với bể đông, trên điểm cao Gành Ráng, mộ Tử bỗng dưng ngời chói. Cách không xa mộ Trí, lâu đài của một tên vua nhà Nguyễn gần đó đang lụi tàn. Nguyễn Trọng Trí là Tử đâu có thừa nhận thứ vua ấy. Dù cơ cực đến mấy, Tử vẫn tin ở cái ngôi sáng tạo của mình, Anh mới là vua chứ.

Ta đi tìm mộng tầm xuân

Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây

Rượu nắng uống vào thì say

Rực rỡ như một vị vua:

Đầy mình lốm đốm những hào quang

Nghĩa là anh không chấp nhận sự hủy diệt, sự cát bụi, tro bụi hóa Anh như lời nguyền rủa: “Từ cát bụi mi trở về cát bụi”. Nghĩa là anh tin ở sức sáng tạo “bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng” của Anh. Đồng thời tin chúng tôi sẽ đánh giá đúng tài năng “siêu” ấy.

Gành Ránh... Quy Nhơn... tôi nhớ lại bao nhiêu hình ảnh, kỷ niệm một thời. Nhớ Anh, nhớ không khí gia đình Anh, bác gái thân sinh ra anh, chị Lễ... Nhớ những người bạn gần xa đã dính líu đến Tử, bao bọc, đùm bọc lấy Anh – Quách Tấn, Trần Thanh Địch, Trọng Quị (Thanh Nghị bây giờ), Trọng Miên, Bích Khê, Yến Lan, Hoàng Diệp, Nguyễn Viết Lãm, v.v... Nhớ tên những người con gái từng đi qua hay ở lại trong đời anh, có người là bóng hình, có người chỉ là cái tên thôi. Anh chưa gặp mặt: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Thương Thương và cái tên:

Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối

Sương ở cung thiềm giỏ chẳng thôi

Nhưng lạ chưa, nhớ nhất vẫn là tôi nhớ chú Hành, cậu bé có tên mà hóa vô danh, nhưng mà bốn năm trời cậu vẫn hàng ngày chăm sóc, đem cơm cho Tử. Gặp Hành lúc nào cũng thấy Hành cười! Quá chú ý đến tri kỷ, tri âm mà quên người ân nhân này đi là một điều không phải đâu, hỡi các sách sau này về Hàn Mặc Tử.

Viên Tĩnh Viên, 2-9-1987

Nguyễn Quân (Họa sĩ)

"Tôi vẫn còn đây"

(Thơ Hàn Mặc Tử)

“Vì nếu ta đây là trích tiên/ Lãng Tử ơi – mi là tiên khách khất”/... “Gió trăng có sẵn làm sao ăn?” (Câu đầu do ý một người đương thời gọi Lý Bạch là tiên trên trời rơi xuống, câu tiếp là Hàn Mặc Tử thêm vào hai từ hành khất). Có người yêu quý (tôi) bảo: Hàn Mặc Tử cứ tưởng là huyền thoại, xem ảnh, xem chữ mà ngỡ ngàng phải tin có một người thực như thế. Hàn Mặc Tử bảo: “Có tôi đây, hồn phách tôi đây. Tôi nhập vào trong xác thịt này”. Ông còn viết: “Ngoại cảnh đã xâm lấn xác thịt và tâm hồn tôi. Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào rút hết tình tiết của tôi”. Lại “Mộng tàn rồi, nghĩa là mộng biến đi, những điều tôi vừa thấy đều là huyền hoặc cả! Có lẽ nào?... Nhưng phút giây trong sáng đây không phải là phút giây mê sảng nữa. Có ai nhận thấy hai dòng nước mắt rưng rưng của tôi?... Tôi đương sống ngày hôm nay. Mà ngày qua là một giấc chiêm bao, có ai bảo giấc chiêm bao ấy là vu vơ, có ai bảo tôi có xác mà không có hồn”. Không nên đổ cho Hàn Mặc Tử là mộng mị, là siêu thực, là vì bệnh hoạn mà kỳ lạ, là triết lý hay cảm xúc. Ở thơ ông không có sự phân biệt ấy, không chỉ có sự chẻ nhỏ giải phổ ánh sáng nhìn thấy được từ đỏ đến tím của Thơ Mới cùng thời. Thơ ông “vắt vẻo” thở hít, sờ thấy cái ấm lạnh của cả vùng cực đỏ và cực tím ở tâm hồn người, đời sống tình tiết người và thiên nhiên. Hàn Mặc Tử cũ hơn Thơ Mới và mới hơn những người làm ra phong trào ấy. Ông gần các nhà thơ cổ điển hơn và gần hôm nay hơn. Nếu được kể mười nhà thơ tiếng Việt (chữ Nôm) được biết tới, tôi dám kể Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du... và cuối cùng là Hàn Mặc Tử. Chính nhà thơ rất gần ta và chết rất trẻ này là nhà thơ cổ điển mới nhất. Một “cô láng giềng bên chết thật rồi”, một “áng mây buồn ở trong khe”, một vườn cây, giếng nước đầy trăng, một người “chị ấy năm nay còn gánh thóc”, một “tiếng hờn trong lũy tre”, một cô gái “ống quần vo xắn lên đầu gối” với đôi bụng chân “trắng rợn mình”, một chuyến đò ngang có người mới quen nhớ tiếc “Xa tít quê nhà chỉ một tay”, một quả dưa ban trưa “Chán chường bóng mát nằm phơi bụng” (như người), một cánh “Buồm trắng phất phơ như cuống lá”, một cái lều tranh, một cái chõng tre, trên đó có một người “kéo mền ủ kín toàn thân lại”. Hàn Mặc Tử gần Tú Xương ở sự kể đời thường, việc thật mà tẩm vào đó cái huyền bí “đêm gì” của Nguyễn Gia Thiều. Mặt khác ông gần Nguyễn Khuyến, Tản Đà ở cái vu vơ trong vắt: “Hôm nay trời lửng trời” và “chỉ có ao xuân trắng trẻo thay..." Có cái tự hỏi: nhớ ai mà đứng mãi đây? Có cái tiếc công bác mẹ như diều đứt dây. Thơ ông cổ điển một cách tân kỳ, trong một toàn thân sặc mùi, sặc sắc. Nó đặc sắc ở chỗ ngũ quan và tứ chi của người thơ không tách bạch ra được khỏi hồn và phách, ý và từ thơ. Có thể ông là một thể tinh hồn chứ không phải là bình đựng linh hồn. Hàn Mặc Tử vận động toàn thân với xúc cảm ngũ quan (đặc biệt các giác quan “hẹp” như xúc giác, khứu giác và vị giác) và không phân biệt người hữu tình với vật vô tri. Chủ đề, đối tượng, hình tượng, lời nói và ẩn dụ tan hòa đến không phân biệt được người với thơ nữa. Do vậy các khái niệm siêu hình, hiện thực, siêu thực... đều không bao nổi, không chồng khít với thơ ông. Và ông cũng không phải là sự kết hợp, tổ hợp các yếu tố đó một cách tài tình, (Các nhà phê bình thức giả sắp sửa quy vào cho gọn như thế) để mà khác ra, ngoài ra các trường phái, các thời khoảng lịch sử. Tính phi thời gian là bản chất thơ của ông, giống như Anđecxen, Sagan lạ với mọi trường phái, phong trào, chủ nghĩa cùng thời và địa lý, song nhìn kỹ, đọc kỹ vẫn thấy sâu sắc rằng chỉ có ngẫu nhiên biện chứng ấy mới sinh ra văn ấy, tranh ấy, thơ ấy.

Ngũ quan ông tinh nhạy và thông thoáng đặc biệt với “Ánh trăng sờ sẫm gối. Gió thu cọ mài chăn”. Gió xuân “sột soạt trên tà áo biếc”, “Áo xiêm nhuộm trắng hồng hào chưa khô” “Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến” với những cảm giác “sường sượng, tê tê”... cái cụ thể ngũ quan ấy áp dụng cả với cái vô hình, vô lượng, vô thanh, vô vị “Tôi gò mây lại. Tôi vo trìu mến như vo lụa, Lòng thiếp buồn như một tấm nhung, ôm ngang lấy gió, nắm trong tay một nạm hào quang”... và ngũ quan chuyển hóa lẫn nhau, cái nhìn thấy có sức nặng: “Có chở trăng về kịp tối nay?” Làn da trinh, trắng, mỏng, tinh, khôi nguyên của nhà thơ hấp thụ và “bài tiết” tất cả những gì ta quen (vì da ta dầy, tục, thô...) gọi là “trừu tượng”. Có phái ẩm thực nhấm nháp làm cao trong văn chương, song cơ quan tiêu hóa và hô hấp của nhà thơ Hàn Mặc Tử, cũng như mắt và tai ông không chỉ được dùng để thưởng thức, cảm nhận hay phân tích thế giới bên ngoài mà chúng được huy động hết cỡ để hóa thân cơ thể nhà thơ, làm nội ngoại đồng hóa, giao hoan với nhau: “Trí tôi hớp bao nhiêu khí vị, và trong miệng ngậm câu ca huyền bí, cả miệng ta trăng là trăng. Uống mây, hớp ráng trời, hớp cả tiếng cười trong khe” v.v... và v.v... Ông bảo mây: “Mau bay vào cuống họng ta đây!”. “Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm, chúng tôi nói chuyện bằng hơi thở. / Dần dần hoa cỏ biến ra thơ” v.v... và v.v... để cuối cùng luôn là “Mùi yêu đương vấn vít cả tâm hồn”, “Sặc sụa cả mùi trăng” và “Nước mây thì hổn hển” như luôn có quả tim và lá phổi người. Thường thơ hay trừu tượng hóa, thi vị, khái quát, điển hình hóa cái cụ thể, còn thơ tuyệt vời thì có nhiều chiều ngược lại: cụ thể, sờ nắn, hít thở... vật chất hóa người hóa cái bị văn minh và ngụy tạo đẩy thành trừu tượng, làm cho cái xa lạ, dửng dưng... trở lại nồng nàn, chung chạ không cưỡng lại được. Mùa thu “ấp úng chẳng ra lời”, vì “Tình thu bi thiết lắm thu ơi”. Cây cối thì “Ngây tình không muốn động” và thú nhận “Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi”. Tình con gái thì với ngày xuân càng “chín ửng”. Hoa gió thì “thì thào”, mây nước thì “nôn nao”, gió thì có khi “sau lướt mướt trong màu sáng”, không gian thì có khi “đặc quánh toàn trăng cả” và lòng em thì “thơm tho như ánh trăng”. Trăng (cái biểu tượng khô cứng trữ tình) có hơi thở, có mùi, có vị, có sức nặng, có cả “tứ chi” để “ngã ngửa, nằm sóng soài, sấp mặt, uốn mình, vướng vào cành cây, chết đuối: ở sông và chết rồi có cả xác: “thây trôi về xa tận cõi vô biên”, trăng biết ghen, giận, có dung mạo “Người trăng ăn vận toàn trăng cả, Gò má riêng thôi lại đỏ hườm”... Kể sự kỳ lạ về thơ trăng Hàn Mặc Tử đáng là hậu duệ ưu tú của Lý Bạch dù ông say tỉnh và vật lộn với thân xác mình nhiều hơn Lý Bạch say rượu thảnh thơi với hồn linh.

Cái tót vời của Hàn Mặc Tử là: tất cả những gì cục bộ là gào kêu, động đậy, phát sáng, bốc mùi, tỏa hương, ấm mềm... (tức là sống vậy) ở mỗi chữ, câu, mô típ, ý hay tứ đều được nhấn chìm, trong tổng thể, trong một không gian êm, lặng, rộng và “bàng quan”. Cái bao bọc vũ trụ ấy nâng thơ ông tới tầng triết mỹ. Thái độ ấy chỉ có ở các nhà thơ đã và sẽ trở thành cổ điển. Đó cũng là lý do làm ông vượt lên những người cùng thời đua nhau thở hít tế nhị và động đậy hăng hái. Thơ phương Đông có tứ ẩn càng vừa sâu vừa rõ càng tốt. Hàn Mặc Tử có điều đó sau cái kỳ lạ về chữ, về nhạc về vần vốn hấp dẫn người đọc sành và làm thơ sành. Nhờ vậy thơ ông như từ đâu bất ngờ tới, không chuẩn bị, như hơi thở tự ra vào, như được “khạc” ra “thổ” ra, thở hắt ra, trào ra chứ không phải được làm ra. Nó sinh hoạt với ta bằng ngôn ngữ nhưng sống với hồn ta ở tầng tiền ngôn ngữ. “Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ/Nước trong nổi bật dung hình cô/Nụ cười dưới ấy và trên ấy/Không hẹn, đồng nhau nỡ lẳng lơ”. “Có em anh sống gượng/Hồn anh về thôn quê/Theo em trong giấc ngủ/Theo em bên bánh xe”. “Ai cho châu báu thinh sắc/Miệng lưỡi khô khan hết cả thèm”... “Hoa thơm thì uốn lặng/Hương thơm thì bay lan/Em tôi thì hổn hển/Áo xuân lấm tấm vàng”. “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò/Thơm như tình ái của ni cô”. “Nhớ làm sao bải hoải chân tay”/Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng/Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều”. Còn âm nhạc thì “Tinh hơn đồng trinh/Hừng quá hừng đông/Em mình nghe không/Em chưa nên đông/Say chưa ra lòng/Đều ngâm ngấm cả”. Gió thì “Rao rao gió thổi phương xa lại” và làm cho “Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai". Mùa xuân làm cho cả cây cỏ (các bậc vua chúa thực sự của bốn mùa) cũng phải ngạc nhiên “Chim khuyên hót tiếng đầu tiên hết. Cây cỏ hồ nghi sự lạ đời”. Cái giếng lạnh không biết, không ai biết, còn nhà thơ thì dò tìm “Nghe nói mùa thu náu chỗ này” và vầng trăng đã chết đuối, đã tự tử ở giếng ấy. Nhờ cái không gian lớn lặng (phi thời gian, không gian và không vụ lợi) và cái tứ chìm sâu mà cả những ý, hình cổ, cũ như “Mây trắng ngang trời bay vẩn vơ”. Cô gái “ngày ngày giặt lụa bến sông con”, những cảnh, những tình tiết rời rạc, thô vụng, giản dị: sao anh chẳng về thôn Vĩ để mà “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”... “Thôi em chán quá, em buồn quá / Anh của em giờ cười với ai?”. “Khi hương thơm kề lỗ miệng / Khi tình mới chạm vào nhau? / Em ơi, thì nghĩa là sao?”. “Trăng nằm trên sóng cỏ/ Cỏ đùa trăng đến ao. Trăng lại dẫm mình xuống nước... Đôi ta bắt chước thì sao?” v.v... đều mới tinh hết.

Không phải sự đau đớn, bi quan hay thờ ơ ngạo mạn mà là sự huy động toàn thân, tự tại để hòa nhập đến phát hiện ra mình và thế giới cùng lúc dẫn tới những khẳng định thơ “Lòng tôi chưa kịp nói / Giấy đã toát mồ hôi” hoặc “Ô ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại/ Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta.../ Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta” hoặc “Chỉ có trăng sao là bất diệt, cái gì khác nữa thảy đi qua” (một câu tầm cỡ sơn hà tại của Đỗ Phủ). Không phải sự ngông cuồng, rồ dại, điên loạn mà là sự nồng nàn và hoang mang chân thực của con người trước tự nhiên dẫn ông tới cái vô cùng “Vỡ toang ra từng mảnh cả không gian/Cả thời gian từ khai thiên lập địa/Đều trộn trạo, điều hòa và xí xóa”.

Thơ Hàn Mặc Tử cũng có những tình cảm nhỏ bé như ánh lân tinh ở biển, song sự quên mình như biển cả, và một nhân sinh quan thiết tha mà lạnh lùng làm cho thơ ông như hương trầm thấm mãi, - bí ẩn chăng? Lo sợ chăng? Tin cậy gửi gắm chăng? Cầu mong, an ủi chăng? - ... tạo nên một thế giới thơ để (như ở các thi nhân thật lớn) ta có thể sống trong đó chứ không phải chỉ để xem đọc, bình thơ, học làm thơ. Ông hô lên “Tôi vẫn còn đây” trong “xác thịt này” nhỏ bé, song mai sau, bao giờ dù thân xác ấy đã tan rã, người thơ và thơ Hàn Mặc Tử... lúc nào cũng sẽ Vẫn còn đây.

N.Q 1990

Hàn Mặc Tử, một hồn thơ dị biệt

Biết nói gì về Hàn Mặc Tử, khi biết bao người đã mến mộ ông, ca ngợi ông, tìm và lấy ra những gì mà người trước chưa đề cập đến hết. Đương thời không ai yêu Hàn Mặc Tử hơn Chế Lan Viên, Hoài Thanh yêu cả phong trào Thơ Mới, yêu Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, lại cũng là người cảm nhận ở Hàn Mặc Tử một vị trí khác hẳn mọi người. Ông là người xác nhận ở Hàn Mặc Tử có một tâm hồn, một tài năng dị biệt mà cả “khen hay chê đều là bất nhẫn” (Thi nhân Việt Nam) Quách Tấn, Yến Lan đều yêu thương, mến mộ Hàn Mặc Tử mặc dù yêu mỗi người theo một cách. Xưa kia những người làm thơ yêu nhau như thể tình nhân, và bởi thế họ mới hiểu nhau đến ngọn ngành và bảo vệ nhau mãi mãi.

Gần đây, thơ Hàn Mặc Tử lại xôn xao khơi gợi trong lòng lớp các nhà thơ trẻ. Họ cảm nhận ở Hàn Mặc Tử có một điều gì gần gũi với họ, muốn vươn tới một điều gì ở sự đổi mới nội tại của thi ca.

Nghiên cứu lại cuộc đời Hàn Mặc Tử, chắc cũng có nhiều điều thú vị. Về tuổi tác, Hàn Mặc Tử sinh năm 1912, so với Huy Cận, Xuân Diệu ông đều hơn tuổi. Và khi phong trào Thơ Mới, sau Phạm Huy Thông, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, nổi tiếng một loạt, rồi mới đến Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử. Chế Lan Viên kém Hàn Mặc Tử đến 8 tuổi. 16 tuổi tức là năm 1936, Chế Lan Viên xuất hiện với Điêu Tàn, và lập tức nổi tiếng như một tài hoa độc đáo và đặc biệt. Còn Hàn Mặc Tử khi xuất hiện đầu với tập Gái quê, là sự hình thành giữa cái hồn thơ Á Đông với phong trào tình cảm mãnh liệt của Thơ Mới. Xuân Diệu thích Rimbaud và Verlaine, Chế Lan Viên mê Edgar Poe, còn Hàn Mặc Tử thì không tuyên bố mình thích một nhà thơ phương Tây nào. Hình như ông đọc các thi nhân nổi tiếng ở thời ấy để tìm cho mình một lối thơ mà ông thích. Ông có thể chơi với tác giả Mùa cổ điển, tức Quách Tấn, và rất thích những bài thơ Đường luật có tứ rất mới, rất trau chuốt của Quách Tấn ấy, nhưng đột nhiên chuyển hẳn sang một bước mới. Thơ của ông bước vào trận xoáy lốc, hòa trộn giữa đời người, đời thơ; giữa sự cảm nhận tận đáy lòng về khổ đau và hạnh phúc; giữa cứu cánh, cầu mong những thứ siêu hình và những khát vọng riêng tư, của chính cuộc đời sống hết mình trong bệnh tật, trong đắm đuối thi ca, và trong những cảm nhận linh thiêng chỉ ông mới có giữa cõi huyền vi và cuộc đời trần thế...

Ở Hàn Mặc Tử, lúc chưa mắc bệnh hiểm nghèo, thơ đã là cứu cánh. Hàn Mặc Tử sống ở đời tức là sống cho Thơ. Thơ với ông là tất cả. Thơ nhằm gửi gắm những cái đẹp nhất, say nhất, phút thăng hoa nhất, cảm nhận sảng khoái nhất, những yêu thương si mê cuồng nhiệt nhất, những giao lưu huyền thoại nhất giữa vũ trụ và tâm linh, giữa đơn độc và bao la, giữa khao khát và phía bên kia là hạnh phúc no đầy không vươn tới được.

Thơ Hàn Mặc Tử tự nội tâm mà vọt ra, từ cái thế giới riêng trong nhận thức của ông mà ông viết, do đó tự ông có một phong cách, không giống bất cứ một nhà thơ nào. Ông mới mẻ, ông xúc động đến tột độ đến mức người ta không theo kịp những sự vận động nội lực mà chỉ một tâm hồn ông mới giải thích nổi. Một người tài hoa, phóng khoáng, mê nghệ thuật như Hoài Thanh, phải thốt lên rằng: “Ngót một tháng trời, tôi đã đọc thơ Hàn Mặc Tử. Tôi đã theo Hàn Mặc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần tiên hội, và tôi đã mệt lả...”. Ông lại viết “Trời đất (trong thơ) thực của riêng Hàn Mặc Tử ta không hiểu được và chắc chắn cũng không bao giờ hiểu được!”. Thấy chưa đủ, Hoài Thanh nhấn mạnh thêm “Lại có khi ở ta rất thường mà trong trí Hàn Mặc Tử rất dễ sợ!”.

Thơ của Hàn Mặc Tử là sự giằng xé của một con người khát yêu, khát sống, có khả năng giao lưu, trò chuyện với mây, gió, sao trăng, với Chúa và Thánh nữ đồng trinh bằng những tình cảm chói sáng nhất, ngây ngất nhất, dâng hiến trọn vẹn, lại là kẻ bất hạnh nhất, bệnh tật nhất, cô quạch nhất. Cái điên cái cuồng trong thơ Hàn Mặc Tử, chính là tiếng đập phá đầy sức mạnh và cũng là bất lực của sự ngăn cách ấy, của cảnh trí trên ấy. Yêu thương, điên loạn trong yêu thương, nên trong cái loạn, cái điên vẫn có cái thực. Ai nhận ra cái thực ấy thì thấy được lối viết nhất quán nội lực của Hàn Mặc Tử, nhận ra một tài năng dị biệt của thơ ông. Còn ai không nhận ra, thì chính là người bị ràng buộc trước những cảm quan thông lệ, của những kẻ người trần mắt thịt. Chủ tướng của phong trào Thơ Mới Xuân Diệu, người đã được coi như niềm tự hào của thi ca thời đó, trước Hàn Mặc Tử, ,mà lạ thay lại chưa hiểu được ông... Tuy nhiên Xuân Diệu không dẫn đích danh, mà chỉ xa xôi bóng gió: “Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống!”.

Thế mới biết hiểu thơ nhau thật khó. Xuân Diệu còn thế, huống chi ai bây giờ chưa hiểu được thơ Hàn Mặc Tử, không nên lấy thế làm buồn.

Là một người làm thơ Nhà quê, chủ trương chân thật giản dị, nhưng càng đọc thơ Hàn Mặc Tử, tôi càng thèm khát những lúc cái khuấy lộn của suy tư, tình cảm được diễn đạt thấu đạt nhất bằng thơ, và những ngôn từ lúc ấy chính là máu, là thịt, là hồn, là xác của người thơ.

Sống hết mình cho thơ, thơ viết hết mình. Đó là Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử là một chủ tướng trong cuộc đổi mới thi ca, nhưng chính ông chỉ cần mình có nhu cầu riêng cho Thơ ca. Kiểu của mình ông không khoa trương, không cần biết đến các chuyện khen chê. Ông chỉ viết theo tâm hồn mình, trí não mình, cảm hứng của mình đòi hỏi... Ông trẻ và mới cho đến tận bây giờ.

1990

Vương Trí Nhàn

VẺ ĐẸP KỲ DỊ HAY LÀ: HÀN MẶC TỬ TRONG NHỮNG LIÊN HỆ VỚI NGHỆ THUẬT HIỆN ĐẠI

Trong bài thơ “Thương ngô trúc chi ca” số XIII, Nguyễn Du từng tả cây liễu “Tối điên cuồng xứ tối phong lưu” (dịch nôm: Lúc càng điên càng đẹp, càng khiến người ta say mê).

Chỗ xứng đáng để đặt câu thơ mang tinh thần hiện đại ấy có lẽ là một phòng tranh nào đó của các họa sĩ lớn thế kỷ XX.

Nhưng cũng sẽ là rất thích hợp nếu người ta dùng nó, cái quan niệm mỹ học phóng túng đó, để soi sáng cho một hiện tượng kỳ lạ của thi ca Việt Nam: Những tập thơ “Gái quê”, “Đau thương”, “Xuân như ý”.. của Hàn Mặc Tử (1912-1940).

Không kể thơ cổ điển mà ngay thơ Việt Nam hiện đại cũng có cái giọng thiên về chừng mực. Với phong trào thơ mới, tâm hồn dân tộc đã làm một cuộc bộc bạch khá cởi mở, ở đó, càng lúc người ta bắt gặp cái say đắm nồng nàn của Xuân Diệu, những giây phút ngà ngà ngớ ngẩn ở Lưu Trọng Lư, những phen chếnh choáng lảo đảo cố ý của Vũ Hoàng Chương. Nhưng bằng ấy sự say sưa đều dừng lại khá xa trước ranh giới của sự điên dại. Chỉ riêng có một mình Hàn Mặc Tử - do những may mắn ngẫu nhiên mà cũng là bất hạnh trời đày (như mọi người đều biết) xui khiến - đã phiêu lưu vào khu vực ấy - khu vực của những kích động tình cảm lên tới cùng cực, khu vực của những mê man quyến rũ gần như mất trí. Và trước mắt chúng ta là một giọng thơ độc đáo không chia xẻ âm hưởng với ai hết.

Trung thành với một tập quán đã thành truyền thống, ở Xuân Diệu, Huy Cận cũng như ở nhiều người khác, thi sĩ bao giờ cũng hiện ra như một người tinh tế, dịu dàng, chỉ sợ mỗi cử động mạnh của mình làm kinh động cả đất trời. “Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ - Im lìm không dám nói năng chi” (Trăng - X.D) hoặc “Chân bên chân hồn bên hồn yên lặng” (Đi giữa đường thơm - H.C). Đến Hàn Mặc Tử thì nói cách tiếp nhận đời sống khác hẳn, người làm thơ không có thì giờ nghĩ về mình nên cách bộc lộ có sỗ sàng, sống sượng, thậm chí bệnh hoạn cũng không quản ngại. Người quen tìm thấy ở thơ một sự ru rín vuốt ve, một lời vỗ về thông cảm hẳn không thể chịu được khi thấy ở đây thơ rặt một giọng “ái tình bắt đầu căng” “ô hay người ngọc biến ra hơi” với lại “khi hương thơm kề lỗ miệng - khi tình mới chạm vào nhau”. Trong thơ Hàn Mặc Tử, gió heo may cũng rên xiết, thu héo nấc thành những tiếng khô và những cây cối mảnh khảnh cũng run lên cầm cập. Đi ngược với quan niệm về sự tế nhị, trong thơ Hàn Mặc Tử, những từ ngữ có liên quan đến động tác của cái miệng luôn được sử dụng, nhà thơ rất hay nói đến máu huyết.

- Mây bay vào cuống họng

- Hơi đắng dịu ... liếm cặp môi trần

- Tôi cắn lời thơ để máu trào

Sau khi bảo mình “thương giơ tay níu ngàn mây - đi lại lang thang trên ngọn cây”, sau khi thú nhận “tôi toan hớp cả váng trời - tôi toan đớp cả miếng cười trong khe”, nhà thơ tự hiểu:

- Đêm nay ta lại phát cuồng

- Tôi điên tôi nói như người dại

Thật ra, một người điên không bao giờ biết mình điên, không bao giờ nói to lên rằng theo sự đánh giá thông thường, thì mình bị coi là đã hóa dại rồi. Chẳng qua, Hàn Mặc Tử buộc phải “gào lên, rú lên” như vậy mới nói hết ý mình. Trên đại thể, nhà thơ Việt Nam mất từ năm 1940 này có thể ký tên sau những phát biểu kỳ lạ sau đây của một người đương thời với chúng ta và chỉ mới mất đầu năm 1989 - họa sĩ Tây Ban Nha vĩ đại Salvador Dali.

- Tôi chỉ khác những người điên ở chỗ tôi không điên.

- Mọi hành động sáng tạo đều là hành vi của chứng hoang tưởng tự đại. Người nghệ sĩ chẳng khác gì thượng đế. Với động tác của bàn tay họ, họ sáng tạo ra các thiên thể và bản thân họ cũng trở thành một thiên thể. Hành động sáng tạo bao giờ cũng là một hành động mạo hiểm.

So với những thi sĩ đương thời, có một đóng góp của Hàn Mặc Tử mà không ai phủ nhận được là đóng góp vào việc mở rộng biên giới của thơ. Dù có xôn xao chộn rộn trong những tưởng tượng phong phú đến đâu thì những Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư... vẫn còn nặng nợ nhiều với cuộc sống trần tục. Không ai dám mê man đi trên con đường tới cái hư vô như Hàn Mặc Tử, đúng hơn là không ai buộc phải làm vậy. Về phần mình, vốn nặng cảm giác tôn giáo lại được sự điên dại hỗ trợ, Hàn Mặc Tử sống với thế giới siêu hình một cách tự nhiên đến mức ông bảo “hư thực làm sao phân biệt nổi”. Tiếng thơ trong Đau thương, Xuân như ý đôi khi phải gọi là “lời năn nỉ của hư vô” mà chỉ Hàn Mặc Tử mới nghe được. Nhưng đây mới là một phía, phía thứ hai của biên giới cảm xúc cũng được Hàn Mặc Tử mở rộng: nhà thơ hóa lạ ngay chính mình: Chân tay thân thể da thịt con người, những thứ tưởng ai cũng thấy, những thứ không ai để ý vì chẳng có vẻ gì nên thơ, trong con mắt Hàn Mặc Tử bỗng trở nên thiêng liêng bí mật. Chúng luôn luôn mời mọc kích động, chúng làm nhà thơ nôn nao cả lên, bỡ ngỡ như gặp được cái gì cả đời mới thấy. Đọc đi đọc lại những “Trăng đang nằm trên sóng cỏ - Gió đưa trăng đến bờ ao - Trăng lại đẫm mình xuống nước - Trăng nước đều lặng nhìn nhau - Đôi ta bắt chước thì sao?”, những “ống quần xo xắn lên đầu gối - Da thịt, trời ơi ! Trắng rợn mình”, những “ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm - Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”, người ta có thể bảo là sống sượng quá. Nhưng thành thực với mình một chút, phải nhận những câu thơ gợi nhục cảm dó chỉ phóng to lên những rung động mà ta vốn có, chẳng qua ta gạt ngay đi, thành ra ngỡ như chúng không tồn tại. Chính Hàn Mặc Tử cũng từng bị giam hãm trong vòng cương tỏa của thói quen, ông cũng là người bị mặc cảm đè nặng và nhiều câu thơ buột ra như một sự dứt bỏ, tự giải phóng, nếu không làm sao cái cảm giác bẽn lẽn ngượng ngập, thèm khát sự trong trắng lại thường xuyên đi về trong thơ ông đến vậy.

- Mới lớn lên em đã thẹn thò,

- Em sợ lang quân em biết được

Nghi ngờ đến cái tiết trinh em

- Quên cả hổ ngươi cả thẹn thùng

Khi cho mỗi người đọc cảm thấy rằng sự e lệ ở mình cũng như ở mọi người chẳng qua là một sự e lệ rất tà tâm, quả thật Hàn Mặc Tử đã tiếp cận với nhiều cách hiểu tinh vi về con người hiện đại.

Không có gì thực hơn gần gặn hơn mà lại hư vô hơn với mỗi kiếp người là cái chết. S. Dali từng kể ông không ngừng nghĩ đến nó, ông coi nó như bạn đường trung thành nhất của ông, nó ở ngay trong nội tâm ông. Rồi họa sĩ nói tiếp: “cái chết vận hành trong tôi, không ngưng nghỉ, giống như cát chảy trong đồng hồ cát”. Ông hiểu rằng “có một sự hủy diệt tuần tự xảy ra trong đó”, bởi vậy, với ông cuộc sống “lại tỏ ra đẹp đẽ hơn bao giờ hết”. Tưởng như với những lời thú nhận đó của Dali được viết để cắt nghĩa thơ của Hàn Mặc Tử, nhất là ở những tập thơ ông đã biết rằng ngày tận thế của mình không xa nữa. Có điều lạ là cái chết hiện diện ngay trong cả những câu thơ Hàn Mặc Tử viết về vẻ đẹp. Ở vào ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, vẻ đẹp trong thơ ông là một vẻ đẹp lạnh, ma quái nhưng lại hết sức quyến rũ, giống như sự bùng nổ mạnh mẽ của những gì sắp tàn lụi mà người ta biết là không sao cưỡng nổi. Ai đó đã than “Phải vì tất cả đều đang đi đến cái chết, nên tất cả mới hiện lên rực rỡ đến thế ?!”

Theo Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 cho biết, ngay từ 1940, Xuân Diệu đã từ chối thẳng thừng Hàn Mặc Tử và bản thân Hoài Thanh cũng cảm thấy rằng chỉ nên nói về Hàn Mặc Tử một cách dè dặt. Sự từ chối đó, sự dè dặt đó là rất thành thực. Đặt trong hoàn cảnh thơ Việt Nam trước 1945, phải nhận thơ Hàn Mặc Tử là một cái gì độc đáo vươn ra ngoài thói quen cảm nhận thông thường như tranh của những S. Dali, H. Miro, J. De Chirico...khi mới xuất hiện đã là không bình thường và ngay ở châu Âu cũng phải rất lâu mới được chấp nhận. Tuy nhiên, khoa nghiên cứu nghệ thuật hiện đại cũng đã chứng minh rằng những tìm tòi lúc đầu bị coi là phi lý, trừu tượng đó đã có mầm mống từ lâu trong tư duy của nhân loại. Ngay từ thời trung thế kỷ, có một họa sĩ Hà Lan là Jerome Bosch (khoảng 1450-1460/1516) đã vẽ nên những bức tranh rất gần với Dali, Miro. Nói như một nhà văn Liên Xô, ông V. Tenđriakov thì trong Bosch “vẻ dịu dàng ở cạnh phút hấp hối, nét trinh bạch ôm ấp sự trụy lạc, cảm giác hứng khởi xen lẫn cơn tởm lợm”, khiến người xem tranh của Bosch “vừa sảng khoái vừa ớn lạnh”. Khi đã xem tranh của những Dali, Miro và lần về tới Bosch như thế người ta không có lý do nào để nói rằng Hàn Mặc Tử đơn độc nữa.

1990

Từ khóa » Hoài Thanh Nhận Xét Về Hàn Mặc Tử