Phân Loại Buồn Nôn Và Nôn Trong điều Trị Hóa Chất Cho Bệnh Nhân ...

10:35 AM 01/04/2020

Buồn nôn, nôn và rụng tóc là 3 độc tính cấp gây ảnh hưởng nặng nề nhất đến tâm lý của bệnh nhân ung thư được điều trị hóa chất. Nếu không điều trị dự phòng phù hợp, 70-80% bệnh nhân hóa trị có triệu chứng buồn nôn và nôn. Nếu buồn nôn và nôn kéo dài có thể ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành phác đồ hóa chất của bệnh nhân, và có đến 20% bệnh nhân đã hoãn hoặc thậm chí từ chối hóa trị liệu do sợ hãi các tác dụng phụ của lần hóa chất tiếp theo. Nếu bệnh nhân bị nôn mức độ nặng, cơ thể có thể xảy ra tình trạng mất nước, rối loạn điện giải và có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Hình ảnh bệnh nhân ung thư nôn do điều trị hóa chất (nguồn getty images)

Buồn nôn và nôn do hóa trị được phân loại thành năm kiểu như sau:

  • 1. Buồn nôn và nôn cấp tính: xảy ra trong vòng 24 giờ đầu tiên sau truyền hóa chất. Các triệu chứng bắt đầu trong vòng vài phút đến vài giờ và thường nặng nhất ở 5-6 giờ. Bệnh nhân có buồn nôn và nôn cấp tính khả năng cao sẽ xuất hiện buồn nôn và nôn muộn.
  • 2. Buồn nôn và nôn muộn: xẩy ra ở thời điểm sau 24 giờ cho đến 6-7 ngày sau điều trị, nặng nhất ở 48-72 giờ. Cơ chế gây buồn nôn và nôn muộn thường liên quan đến sự hoạt động của chất P, trong khi triệu chứng cấp tính liên quan đến serotonin.
  • 3. Buồn nôn và nôn trước chu kỳ hóa chất tiếp theo (Anticipatory Nausea or Vomiting): triệu chứng này được kích hoạt bởi mùi vị, âm thanh, hình ảnh hoặc những lo âu liên quan đến buồn nôn và nôn đã xẩy ra trước đấy. Tỷ lệ xảy ra dao động từ 18-57% và mức độ nghiêm trọng có xu hướng tăng trong chu kì tiếp theo.
  • 4. Buồn nôn và nôn kháng thuốc (breakthrough nausea and vomiting): xảy ra trong 5 ngày điều trị, mặc dù điều trị dự phòng đầy đủ. Triệu chứng này rất khó điều trị và thường phải sử dụng kết hợp nhiều thuốc chống nôn mạnh.
  • 5. Buồn nôn và nôn dai dẳng (refractory nausea or vomiting): xảy ra trong các chu kì tiếp theo sau chống nôn dự phòng hoặc điều trị nôn thất bại trong chu kì trước, thường là sau một vài chu kỳ hóa chất. Thay đổi phác đồ dự phòng buồn nôn và nôn là cần thiết nếu xảy ra kiểu nôn này.

Các yếu tố nguy cơ.

Các yếu tố nguy cơ dự đoán cho buồn nôn và nôn cấp tính hoặc muộn bao gồm liều hóa chất, lịch trình và đường dùng, và các tác nhân hóa trị liệu cụ thể được sử dụng . Các đặc điểm của bệnh nhân liên quan đến nguy cơ gia tăng nôn và buồn nôn bao gồm giới tính nữ, tuổi <50, tiền sử uống rượu hoặc uống rượu trước đó 1 ngày, những người có chất lượng cuộc sống kém hoặc những người có tiền sử đã hóa trị trước đó. Các yếu tố khác bao gồm tiền sử kiểm soát nôn kém như say tàu xe hoặc tăng huyết áp trong thai kỳ.

Những thách thức đối với những triệu chứng nôn muộn.

Các thử nghiệm đã chỉ ra rằng 60 - 90% bệnh nhân được hóa trị liệu bằng cisplatin sẽ bị buồn nôn và nôn nếu không được điều trị dự phòng đầy đủ. Tuy nhiên, ngay cả với các thuốc chống nôn tốt nhất, 40 - 60% bệnh nhân vẫn tiếp tục bị nôn và buồn nôn muộn do cisplatin. Mặc dù buồn nôn và nôn do hóa trị nói chung được quản lý tốt trong 24 giờ đầu tiên, vẫn còn nhiều khó khăn trong quản lý các triệu chứng muộn. Thuốc chống nôn kém hiệu quả hơn nhiều đối với các triệu chứng muộn, khiến việc điều trị và chăm sóc cho những bệnh nhân này càng khó khăn hơn.

Liệu pháp chống nôn chính.

Thuốc chống nôn là rất quan trọng, nếu không dùng thuốc chống nôn trên 90% bệnh nhân được hóa trị liệu liều cao sẽ bị nôn. Với điều trị dự phòng thích hợp, con số này giảm xuống còn khoảng 30%. Ngăn ngừa các triệu chứng thường thành công hơn là điều trị chúng; do đó, theo lịch trình, việc sử dụng thuốc chống nôn phải được bác sỹ và điều dưỡng theo dõi, đánh giá chặt chẽ theo từng ngày, trên từng người bệnh cụ thể.

Một số phương pháp không dùng thuốc cho những bệnh nhân bị buồn nôn và nôn không được kiểm soát tốt. Thảo dược tự nhiên, chẳng hạn như gừng hoặc bạc hà, có thể giúp giảm bớt các triệu chứng khó chịu của buồn nôn và nôn.Các kỹ thuật trị liệu như châm cứu hoặc bấm huyệt, thay đổi lối sống, bao gồm thay đổi chế độ ăn uống và tập thể dục, cũng có thể giúp giảm bớt các triệu chứng. Nên uống đủ nước hàng ngày, ăn thức ăn dễ nuốt vào dạ dày, hoặc thức ăn lỏng, ăn uống chia thành nhiều bữa nhỏ và ăn thức ăn ở nhiệt độ phòng. Bệnh nhân nên tránh các thực phẩm gây buồn nôn và kiểm soát tổng lượng thức ăn tiêu thụ.

Kết luận.

Buồn nôn và nôn do hóa trị liệu là tác dụng phụ rất thường gặp, có thể gây các biến chứng trầm trọng, đặc biệt ở những bệnh nhân bị suy nhược, suy dinh dưỡng hoặc gần đây đã trải qua phẫu thuật hoặc xạ trị kết hợp. Nôn nhiều dẫn đến mất nước và mất cân bằng điện giải cũng làm tăng nguy cơ biến chứng y khoa nghiêm trọng. Kiểm soát kém các triệu chứng nôn và buồn nôn có thể dẫn đến giảm sức khỏe, tăng chi phí điều trị và mức độ lo lắng của bệnh nhân. Để kiểm soát tốt hơn các triệu chứng cấp tính và muộn, trước tiên chúng ta phải hiểu rõ hơn các yếu tố nguy cơ gây nôn buồn nôn. Hiểu được các yếu tố dự đoán sinh học, di truyền và triệu chứng lâm sàng cơ bản của buồn nôn và nôn do hóa trị liệu có thể giúp tăng cường đáng kể khả năng cá nhân hóa phương pháp điều trị và điều trị dự phòng phù hợp với từng bệnh nhân.

Khoa Xạ trị - Xạ phẫu, Viện Ung thư, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, với đội ngũ chuyên môn có trình độ cao và được trang bị các hệ thống máy xạ trị - xạ phẫu tiên tiến là một địa chỉ tin cậy cho nhiều bệnh nhân ung thư trong cả nước. Khoa đã tiến hành các biện pháp phòng chống nôn và buồn nôn cho bệnh nhân ung thư hóa xạ trị đồngthời tại khoa đạt hiệu quả cao với tác dụng phụ tối thiểu.

Bệnh nhân có nhu cầu tư vấn về dự phòng, chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư xin liên hệ với Khoa Xạ trị - Xạ phẫu, Tầng hầm B2 Tòa nhà Trung tâm, Viện Ung thư, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Số 1 Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Hà Nội.Điện thoại: 024.62784163.

Website: https://benhvien108.vn/gioi-thieu-khoa-xa-tri-xa-phau.htm

Fan page: https://www.facebook.com/xatri108.

Người viết: Điều dưỡng Nguyễn Văn Hiến, Khoa Xạ trị - Xạ phẫu, Viện Ung thư, Bệnh viện Trung ương quân đội 108.

Tài liệu tham khảo: Sách Supportive Cancer Care tác giả David Alberts, Stephanie Kha, Maria Lluria-Prevatt, Karen Weihs

Từ khóa » Chống Nôn Tự Nhiên