Phân Loại Gãy Xương Hở Của Gustilo – Wikipedia Tiếng Việt

Bài viết này là một bài mồ côi vì không có bài viết khác liên kết đến nó. Vui lòng tạo liên kết đến bài này từ các bài viết liên quan; có thể thử dùng công cụ tìm liên kết. (tháng 7 2018)
Bài viết này cần thêm liên kết tới các bài bách khoa khác để trở thành một phần của bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia. Xin hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách thêm các liên kết có liên quan đến ngữ cảnh trong văn bản hiện tại. (tháng 11 năm 2016)

Hệ thống phân loại gãy xương hở thông dụng nhất là do Ramon Gustilo và Anderson đề xướng, sau đó được mở rộng bởi Gustilo, Mendoza, và Williams.[1]

Cách phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]
  • I Chấn động nhẹ, vết thương nhỏ hơn 1 cm
  • II Vết thương lớn hơn 1 cm với tổn thương mô nhẹ đến vừa
  • III Vết thương lớn hơn 10 cm với tổn thương phần mềm nặng
    • IIIA Tổn thương phần mềm tương xứng với vùng xương gãy
    • IIIB Tổn thương phần mềm không tương xứng
    • IIIC Có tổn thương động mạch

Độ I

[sửa | sửa mã nguồn]

Rách da  < 1 cm.

Vết thương hoàn toàn sạch, hầu hết do gãy hở từ trong ra.

Đụng giập cơ tối thiểu.

Đường gãy xương là đường ngang đơn giản hoặc chéo ngắn.

Độ II

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổn thương phần mềm rộng, có thể là tróc da còn cuống hoặc tróc hẳn vạt da.

Vết rách da  > 1 cm.

Cơ đụng giập từ nhẹ đến vừa, có khi làm nên chèn ép khoang.

Xương gãy với đường gãy ngang đơn giản hoặc chéo ngắn với mảnh nhỏ.

Độ III

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổn thương phần mềm rộng bao gồm cả cơ, da và cấu trúc thần kinh mạch máu. Tốc độ tổn thương cao đưa tới giập nát phần mềm nhiều và hợp thành chèn ép dữ dội. Loại này gồm 3 nhóm:

IIIA: Vết rách phần mềm rộng, với màng xương bị tróc ra và đầu xương gãy  lộ ra ngoài. Vùng xương gãy hoặc vết thương trong tầm đạn bắn gần.

IIIB: Vết rách phần mềm rộng, với màng xương bị tróc ra và đầu xương bị gãy lộ ra ngoài. Vùng gãy xương bị nhiễm bẩn nhiều.

IIIC: Vết thương giập nát nhiều, xương gãy phức tạp và có tổn thương mạch máu cần phải phục hồi.

Nói chung phân chia theo Gustilo cũng như Tscherne đều lấy tổn thương mô  mềm là chính, kết hợp với mức độ của xương gãy (đơn giản hay phức tạp). Trong đó gãy hở độ IV là một hình thái đặc biệt.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Rüedi, etc. all & Thomas P. Rüedi, Richard E. Buckley, Christopher G. Moran (2007). AO principles of fracture management, Volume 1. Thieme. tr. Page 96. ISBN 3131174420.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)

Từ khóa » độ Gãy Xương