Phân Loại Giáo Dục ở Việt Nam đang Lệch "chuẩn" Quốc Tế

Từ đầu năm 2017, công tác quản lý Nhà nước đối với hệ cao đẳng không còn do Bộ Giáo dục và Đào tạo đảm nhiệm. Nhiều chuyên gia cho rằng chính sự thay đổi này đã tạo nên những xáo trộn trong hoạt động giáo dục và đào tạo.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho biết, quan niệm: “Giáo dục nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng” (Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014) đã xóa mất ranh giới giữa giữa giáo dục nghề với giáo dục chuyên nghiệp. Cũng từ đây, hoạt động phân luồng học sinh sau trung học cơ sở gặp phải nhiều trở ngại.

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. (Ảnh: Tùng Dương)

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. (Ảnh: Tùng Dương)

Hệ quả là, các cơ sở giáo dục cao đẳng không được coi là cơ sở giáo dục đại học, quản lý giáo dục nghề nghiệp bị chia sẻ. Các cơ sở giáo dục phổ thông, các đại học, trường đại học, các trường cao đẳng sư phạm do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý Nhà nước, phần còn lại thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Việc này đem đến nhiều hệ lụy không mong đợi.

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến cho biết, theo thông lệ chung hiện nay, để đáp ứng hội nhập quốc tế, các nước cần tuân theo “Phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế” do UNESCO ban hành, phiên bản mới nhất là ISCED -2011, được ban hành năm 2011.

Văn bản này có hiệu lực trên toàn thế giới từ 2014 cho tất cả thành viên UNESCO, trong đó có Việt Nam, để xác định trình độ của các chương trình giáo dục và đào tạo cụ thể.

Căn cứ này giúp chúng ta xác định được các chương trình giáo dục của quốc gia này, quốc gia kia có tương đương với nhau hay không? Có phù hợp với thông lệ quốc tế hay không?

“Phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế” - ISCED 2011 được chia thành 9 cấp độ, cụ thể: Cấp độ 0 cho giáo dục mầm non; Cấp độ 1 cho tiểu học; Cấp độ 2 cho trung học bậc thấp, tách ra theo hai luồng là trung học cơ sở dành cho giáo dục phổ thông và một luồng theo hướng dạy nghề được gọi là sơ học nghề; Cấp độ 3 cho trung học bậc cao (bên giáo dục phổ thông là trung học phổ thông, còn nhánh theo hướng nghề là trung học nghề); Cấp độ 4 cho giáo dục sau trung học, nhưng chưa phải đại học; Cấp độ 5 cho cao đẳng; Cấp độ 6 cho trình độ cử nhân và tương đương; Cấp độ 7 cho thạc sĩ; Cấp độ 8 cho tiến sĩ.

Cũng theo ISCED-2011, các cấp độ 2,3 thuộc về bậc Giáo dục trung học, các cấp độ 5,6,7 và 8 thuộc về bậc Giáo dục đại học. Không có khái niệm “bậc Giáo dục nghề nghiệp” như ở Việt Nam.

Các chương trình thuộc hệ cao đẳng – cấp độ đầu tiên của giáo dục đại học đều thuộc cấp độ 5 theo ISCED-2011 và thường được thiết kế nhằm cung cấp cho người học các kiến thức, kỹ năng và năng lực chuyên nghiệp.

Thông thường, những chương trình này có các nội dung định hướng thực hành, gắn với đặc thù nghề nghiệp và chuẩn bị cho người học bước vào thị trường lao động. Đồng thời, những chương trình này cũng mở ra con đường chuyển tiếp/liên thông lên các chương trình giáo dục đại học khác (các cấp độ 6, 7 và 8).

Để vào học các chương trình thuộc bậc giáo dục đại học, người học bắt buộc phải hoàn thành cấp độ 3 (trung học phổ thông hoặc tương đương). Ngoài ra, mỗi cấp độ có các tiêu chí đánh giá bằng số năm học tích lũy, cấu trúc nội dung chương trình, hướng liên thông, …và phải hoàn thành đầy đủ tất cả các tiêu chí trên thì người học mới được cấp văn bằng tương ứng với cấp độ (ví dụ: bằng trung học phổ thông, bằng trung học nghề, bằng cao đẳng, bằng cử nhân,...).

Còn nếu chỉ hoàn thành một phần các tiêu chí thì trong trường hợp đó người học thường chỉ được cấp các chứng chỉ/bằng nghề nghiệp (ví dụ: bằng trung cấp y, bằng giáo viên trung học cơ sở 10+3, bằng cao cấp ngân hàng, bằng kỹ thuật viên cao cấp, bằng trung cao cơ điện,...). Ở Việt Nam hiện đang còn lẫn lộn quy định này.

Luật Dạy nghề năm 2006 quy định dạy nghề gồm sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề với mục tiêu “đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo” (Điều 4).

Năm 2014 Luật Giáo dục nghề nghiệp thay cho Luật Dạy nghề. Các trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề viết lại thành trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp và trình độ cao đẳng.

Dẫu vậy, mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp vẫn viết theo Luật Dạy nghề năm 2006; còn mục tiêu cụ thể của trình độ cao đẳng được thiết kế theo cấu trúc “cộng dồn” với mục tiêu của các trình độ sơ cấp và trình độ trung cấp (Điều 4) mà không theo cấu trúc “đồng tâm”.

Về bản chất trình độ cao đẳng trong Luật Giáo dục nghề nghiệp là giáo dục sau trung học nhưng chưa phải là giáo dục đại học, nó chỉ tương đương cấp độ 4 hoặc cấp độ thấp hơn của ISCED 2011.

Trong khi đó các chương trình cao đẳng “đích thực” phải được thiết kế nhất quán theo hướng nâng cao học vấn để bảo đảm tương đương cấp độ 5 của ISCED 2011 - cấp độ đầu tiên thuộc giáo dục đại học, như chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo trước đây.

Rõ ràng, bậc cao đẳng của Việt Nam hiện nay có chương trình thuộc giáo dục sau trung học nhưng không phải thuộc giáo dục đại học, vậy mà Bộ Lao động Thương binh và Xã hội vẫn gán cho đây là cấp độ 5 theo ISCED-2011.

Đây là nhầm lẫn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phân luồng học sinh cũng như hoạt động đào tạo trình độ cao đẳng.

Phạm Minh

Từ khóa » Cấp Bậc Bộ Giáo Dục