Phần Thứ Tư BÀI THÀI & VĂN TẾ - Nghi Le Tom Luoc

HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt, Giữa thu ba e tuyết đông về. Non sông trải cánh tiên lòe, Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

3. Nhị Nương

CẨM tú văn-chương hà khách đạo, Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân. Tuy mang lấy tiếng hồng quần, Cảnh Tiên còn mến cõi trần anh thư.

4.-Tam Nương

TUYẾN đức năng thành đạo, Quảng trí đắc cao quyền. Biển mê lắc lẽo con thuyền, Chở che khách-tục Cửu-Tuyền ngăn sông.

5.-Tứ Nương

GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc, Vàng treo nhà ít học không ưa. Đợi trông nho-sĩ tài vừa, Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.

6. Ngũ Nương

LIỄU yểu-điệu còn ghen nét đẹp, Tuyết trong ngần khó phép so thân. Hiu hiu nhẹ gót phong-trần, Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

7.- Lục Nương

HUỆ ngào-ngạt đưa hơi vò diệu, Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong. Nương mây như thả cánh hồng, Tiêu-diêu phất phướn cõi Tòng đưa Tiên.

8.-Thất Nương

LỄ bái thường hành tâm Đạo khởi, Nhân từ tài thế tử vô ưu. Ngày xuân gọi thế hảo cừu, Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên

9.- Bát Nương

HỒ HỚN hoa sen trắng nở ngày, Càng gần hơi đẹp lại càng say. Trêu trăng hằng thói dấu mày, Cợt mây tránh chứt Phật đài thêm hoa.

10.- Cửu Nương

KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ, Bạc-Liêu ngôi cũ còn lời. Chính chuyên buồn chẳng trọn đời, Thương người noi Đạo Phật Trời cũng thương.

Top of Page

11.- Đức Hộ-Pháp (kỷ-niệm 10-4 AL hằng năm)

Trót đã bao năm, ở xứ người, Đem thân đổi lấy phút vui tươi. Ngờ đâu vạn sự do Thiên định, Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi. Nhớ tiếc sức-phàm, thừa chống chõi, Buồn nhìn cội Đạo, luống chơi vơi. Rồi đây ai đến cầm Chơn-Pháp, Tô điểm non-sông Đạo lẫn Đời.

12.- Đức Cao-Thượng-Phẩm (kỷ-niệm 1-3 AL hằng năm)

Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn-tràng, Cõi Thiên mừng đặng dứt dây oan. Nợ trần đã phủi, lòng son sắt, Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng. Cổi tấm chơn thành, lòa Nhựt-Nguyệt, Phơi gan chí-sĩ, nhuộm giang-san. Bốn mươi hai tuổi, sanh chưa phỉ, Để mắt xanh coi, nước khải hoàn.

13.-Đức Cao-Thượng-Sanh (kỷ-niệm 26-3 AL hằng năm)

Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền, Nguyện đem thi thố tấm trung-kiên. Độ đời quyết lánh vòng danh lợi, Trau chí tìm roi bậc Thánh Hiền. Từ ái làm nền an thổ võ, Đức ân dụng phép tạo nhơn-duyên. Những mong huệ trạch trên nhuần gội, Sứ-mạng làm xong giữ trọn nguyền.

14.-Đức Quyền Giáo-Tông (kỷ-niệm 13-10 AL hằng năm)

Càn-khôn quen thú, phướn Linh-Tiêu, Thấy khổ trần-gian, nghịch Thánh Điều. Mượn xác-phàm, rêu cây phất-chủ, Nương cơ tạo, xũ phướn tiêu-diêu. Bầu linh khổ hải, đưa thiêu cạn, Gậy sắc nhơn-sanh, chống dắt dìu. Muôn dặm cửa Tiên, chờ bước tục, Cõi lao trở gót, ruột trăm chiều.

15.- Đức Nguyệt-Tâm (kỷ-niệm ngày 22-5 Dương-Lịch hằng năm)

NGUYỆT rạng đông thiên đã sáng soi, TÂM-linh chiếu thấu bốn phương trời. CHƠN-truyền cứu-thế xa tai-ách, NHƠN-đạo tuần-hườn độ khắp nơi.

16.- Đức Hàm Nghi

Nhìn ra xe ngựa cảnh phồn hoa, Gióng trống Trời Nam hiệp nước nhà. Đem mối cựu-thù tô xã-tắc, Định giềng tận-thế cứu sơn-hà. Vì do quyền-lợi nên đành vậy, Ấy bởi hư-danh mới thế à. Cứu-thế từ đây nhờ Đạo-Pháp, An dân lập quốc tại Kỳ Ba.

17.- Cúng Thánh-Tổ hằng năm

Hằng năm vào ngày mùng 3 tháng Giêng Âm-Lịch tại Báo-Ân-Từ, các Điện-Thờ Phật-Mẫu địa-phương đều thiết-lễ cúng Tổ lập nghi-lễ Chánh-Điện. Linh-vị viết "Tam Vị Thánh-Tổ". Nghi-tiết có Lễ, Nhạc. Đăng điện Lễ-sĩ mặc áo đỏ, không đọc bài "Hổn Ngươn Kinh". Đồng-nhi thài, lạy 3 lạy trơn, mỗi gật niệm: "Nam-Mô Tam-Vị Thánh-Tổ."

Bài Thài: Nhớ ơn Thánh-Tổ đã dày công, Bá nghệ truyền ban các giống dòng. Tô điểm văn-minh ngày tỏ rạng, Muôn dân vạn-quốc thọ ơn hồng.

18.- Bài Thài Chung (Lễ Kỷ-Niệm Thời-Quân Hiệp-Thiên-Đài, 15-10 AL)

Tướng-soái Thời-Quân đã đạt thành, Công-trình lập Đạo sử nêu danh. Ngàn năm để tiếng Đời ca tụng, Không hổ mặt mày với kiếp sanh.

Top of Page

19.- Bài Thài Chung (Lễ Kỷ-Niệm Đầu-Sư Cửu-Trùng-Đài, 15-1 AL)

Tu-thân giáo-hóa chỉnh Đời thanh, Đồng chúc lê dân hưởng phước lành. Cõi-tục cầu an kinh tụng niệm, Lời truyền nguyện thấu đến cao xanh. Mưa nhuần gió thuận Nghiêu thanh-tịnh, Nắng tốt tuyết hòa Thuấn võ thanh. Đồng hưởng Đời-Đời câu thạnh-trị, Tiêu-diêu khoái-lạc chí hùng-anh.

20.- Bài Thài Hiến-Lễ Hàng Thánh

(Tuần Hương) Nghệ hương hiến, nghệ hương tiền, Trầm đoàn khói tỏa năm mây, Mùi hương phưởng phất thơm bay ngút trời. (Tuần Hoa) Thoàn mây thuận gió cánh buồm trương, Phàm Thánh chia-phôi cảnh đoạn-trường. Hoa Quả tinh-vi xin hiến-lễ, Thể lòng thành kỉnh tỏ tình thương. (Tuần Tửu) Thoát trần roi dấu tiếng anh phong, Sớm tối riêng vui cảnh bá tòng. Kẻ ở người đi dòng lệ đổ, Tửu quỳnh kỉnh hiến nghĩa đồng song. (Tuần Trà) Đạo Đời vẹn phận đắc Thiên ân, Lưu để Thánh danh chốn mộ phần. Đầu vọng bái anh-linh chứng hưởng, Trà hương tạm-biệt khách dương trần.

21.-Bài Thài Hiến-Lễ Hàng Thiên-Thần:

Bài thài Hiến-Lễ hàng Thiên-Thần, cũng bài thài hàng Thánh (dâng Tam-Bửu) nhưng tuần hoa, câu 2 "Phàm Thánh chia phôi", đổi lại "Sanh tử chia phôi ..."

22.- Bài Thài Hiến-Lễ Hàng Vong Thường (Nhơn, Địa Thần)

(Tuần Hương) Nghệ hương hiến, nghệ hương tiền, Trầm đoàn khói tỏa năm mây, Mùi hương phưởng phất thơm bay ngút trời. (Tuần Sơ) Hiến tuần sơ, hề hiến tuần sơ, Vân ám đảnh hồ, long viễn tựu. Hạc qui huê liễu, hạc qui trì, Cồn dâu hóa bể, bể hóa cồn dâu. Cơ-tạo biến-dời, người vật đổi, Sanh-ly tử-biệt, mạng nơi Trời. (Tuần Trung) Hiến tuần trung, hề hiến tuần trung, .................................. nghĩa mặn nồng. Ân thâm càng nhớ lụy không ngưng, Nhựt Nguyệt đôi vần soi nhắc bóng, Hởi ơi! Chiếu thấu thảm nơi lòng. (Tuần Chung) Hiến tuần chung, hề hiến tuần chung, Dặm cũ khách đà xa khổ não. Nay . . . hiu quạnh chốn trần-gian, Tiếng dế reo đêm sầu thắt dạ. Nguồn sông lệ chảy, ruột trăm chiều, Oanh khóc năm canh, chiu chít bạn. Ủ ê cảnh cũ vẫn vơ tình. (Tuần Trà) Đơn tiện xin dâng một tất thành, Cõi Thiên khẩn vái có anh linh. Mảnh lòng tha-thiết ai ơi thấu, Ngó liễu trông mây để tượng hình. a. (Tuần-Trung) Câu thứ nhứt: Hiến tuần trung, hề hiến tuần trung, Câu thứ nhì: ............................. nghĩa mặn-nồng. Nếu: - Con tế Cha-Mẹ: Cắn muối trêu cơm .................................................. - Vợ tế chồng hoặc chồng tế vợ: Tình ái cùng nhau .................................................... - Em tế anh chị ruột: Huyết mạch đồng-môn ............................................ - Anh em kết-nghĩa: Huynh-đệ cùng nhau ................................................ b. (Tuần Chung) Câu thứ nhứt: Hiến tuần chung, hề hiến tuần chung, Câu thứ nhì: Dặm cũ khách đà xa khổ não. Câu thứ ba: Nay ...................... hiu quạnh chốn trần-gian. Nếu: - Con tế Cha-Mẹ: Nay con ............................................................ - Vợ tế chồng hoặc chồng tế vợ: Nay em (anh) .................................................... - Em tế anh chị: Nay em ............................................................ (Xem nơi đây mà thay đổi cho trúng câu thài.)

23.- Đáo Tuế

(Từng Phạn) Trai phạn xin dâng thọ phước lành, Nghìn-thu hạnh-đức rạng thanh-danh. Thủy-chung vẹn-giữ gương nhơn-nghĩa, Trọn hưởng hồng-ân buổi Đạo thành. (Từng Tửu) Hồng-tửu kính dâng chúc thọ trường, Tinh-thần quí thể đặng an khang (khương). Tâm thành đức vẹn nêu gương Đạo, Đất Việt trùng hưng hưởng thái-bường. (Từng Trà) Thanh trà mỹ vị lễ xin dâng, Đáo tuế ngươn sanh chí lục tuần. Hạnh ngộ Tam-Kỳ thiên tứ phước, Đạo thành đời rạng hưởng phong thuần.

Top of Page

B.- VĂN TUẾ

1.- Khánh Chúc Đáo Tuế

Mừng nay đáo tuế chi kỳ,

Kỉnh dâng khánh hạ lễ nghi trang hoàng.

Cầu cho thọ “tỷ” nam san (1),

Miên trường bá tuế hân-hoan tinh-thần.

Tận-tâm ái-quốc ưu-dân,

Đạo Đời vẹn phận nghĩa-nhân vẹn toàn.

Hưởng nhờ hồng phước rưới chan,

Thông-minh Đạo-lý dìu đàn . . . (2) nhi.

Phải trang cách vật trí tri,

Tửu trà thực-phẩm lễ nghi chúc mừng.

Ngày nay đáo-tuế chi tuần,

Chúc cho quí thể tinh-thần an-khang.

Chúc cho vạn-sự thái-bường,

Đạo thành Đời rạng miên trường bá niên.

Chú ý:

1- Nếu người hưởng-thọ là phái nam thì đọc “Cầu cho thọ khảo nam san”, nếu người hưởng-thọ là phái nữ thì đọc “Cầu cho thọ Tỷ nam san.”

2- Nếu người hưởng-thọ là phái nam thì đọc Nam nhi”, nếu người hưởng-thọ là phái nữ thì đọc “Nữ nhi”.

2.- Đức Nguyệt Tâm

Bạch-Vân-Động đèn hồng chói tỏa,

Thanh-Sơn Đài Diệu-Võ Tiên-Ông.

Bấy lâu tu-luyện thành-công,

Đắc-thành chánh-quả độ trong Tam-Kỳ.

Nguyễn-Bỉnh-Khiêm tầm Tiên âu dạng,

Trình-Quốc-Công là Trạng Nhà Nam.

Sớm khuya ở chốn thanh-am,

Tu-tâm luyện-tánh chẳng ham mến trần.

Tìm chơn-lý ngỏ gần Tiên Thánh,

Học vô-vi để lánh phàm-gian.

Thú vui hai chữ thanh-nhàn,

Thung-dung tự-toại chẳng màng đai-cân.

Dạy đệ-tử ân-cần mối Đạo,

Truyền phép thần Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm.

Ân ban trần-thế giáng-lâm,

Victo là họ tên là Hugo.

Nhà văn-sĩ bày-phô lẽ chánh,

Nắm kinh-luân mang gánh cơ-đồ.

Nhà nhà có phước hàm phô,

Cũng nhờ kinh sách Hugo dạy truyền.

Đầu vọng-bái Tiên Hiền Chưởng-Đạo,

Chứng lễ thành lòng thảo chúng-sanh.

Ban ơn nhỏ phước dân lành,

Vun trồng cây Đạo trổ nhành đơm bông.

Từ Bính-Dần bóng hồng phổ-độ,

Chói càn-khôn cứu-khổ nhơn-sanh.

Nhờ ơn các Đấng Trọn Lành,

Giáng-cơ chỉ bảo mối manh Đạo Trời.

Năm Đinh-Mão phổ-thông Tần-Quốc,

Đức Nguyệt-Tâm đắc nhứt chỉ truyền.

Lập thành Hội-Thánh Kiêm-Biên,

Mở mang Đạo cả ban truyền ngoại giao.

Ơn giáo-hóa đồng-bào Kiều Việt,

Đức từ-bi chi xiết gội nhuần.

Hiện nay đạo-hữu vui mừng,

Tự-do tín-ngưỡng nhờ chung Đức Ngài.

Lễ kỷ-niệm phô-bày nghiêm-chỉnh,

Dâng tất thành cung kỉnh Thánh-Linh.

Mong nhờ lượng cả thinh thinh,

Thi ân bố đức hóa sanh giúp Đời.

Top of Page

3.- Tế Chiến-Sĩ

Nợ cung-kiếm chiến-chinh là nghiệp,

Giúp Quốc-dân sánh kịp tha bang.

Xông pha ra chốn chiến trường,

Đắng cay cam-chịu gian-nan không sờn.

Nguyện lấy sức đền-ơn cương-thổ,

Dốc lòng lo báo-bổ ơn Nhà.

Trần-hoàng gió-bụi xông-pha,

Dựng nên Tổ-Nghiệp mái nhà thiên-nhiên.

Gầy việc cả truân-chuyên lắm nổi,

Lướt trận-tiền mở lối chông-gai.

Ngăn quân là bậc thiên-tài,

Đở nâng Quốc-thể đến ngày hiển-vinh.

Đạp giá tuyết phận mình cam-chịu,

Một kiếp-sanh bận-bịu giang-san.

Muôn dân thắc Quốc căm hờn,

Định an nước cũ chi sờn lòng trai.

Ách nô-lệ ngày nay hầu dứt,

Nước quật cường nhờ sức toàn dân.

Hồn thiêng rày đã tỉnh lần,

Muôn năm chung hưởng hồng-ân của Trời.

Cờ tiến-hóa đời đời chiếu rạng,

Giữ nghĩa-nhân rọi sáng Đạo mầu.

Bảo sanh bủa khắp năm Châu,

Toàn cầu chung hưởng phép mầu Chí-Linh.

Mưu định quốc anh-linh trị nước,

Giúp giống-nòi bảo được tự-do.

Hiển-linh là phước Trời cho,

An nguy vận nước chung lo mối giềng.

Nay nhân quả tiền-khiên vừa mãn,

Cõi Hư-linh lánh đặng trần ai.

Hồn thiêng nương bóng Cao-Đài,

Theo vầng Nhựt-Nguyệt ra ngoài Càn-Khôn.

Trọng nghĩa bạn linh-hồn thương-nhớ,

Trợ cho nhau nâng-đở nghiệp nhà.

Rượu nồng xin chớ bỏ qua,

Tình thâm hưởng cạn mới là tri-âm.

Bóng chinh-chiến nay gần tỏ rạng,

Đuốc Từ-Bi rọi sáng tâm-hồn.

Lọc lừa thế-giới bôn-chôn,

Lần theo đuốc huệ bảo-tồn chúng-sanh.

Công-viên mãn đường mây nhẹ tách,

Lánh bến mê phủi sạch bợn trần.

Sống làm tướng, thác làm Thần

Hiển-linh xin chứng tấm lòng tiết trung.

4.- Ngoại Hầu Cường-Để

Thời-gian thấm-thoát trôi qua,

Nước-non hớn-hở cỏ hoa ngậm-ngùi.

Đại tường ngày tháng tới nơi,

Ai người thức dạ, ai người chí công.

Nhớ xưa Cường-Đế xổ lồng,

Bôn ba hải-ngoại non-sông một chèo.

Sĩ-phu trong nước hướng theo,

Cánh buồm bắc hải con chèo Việt-Nam.

Tăng Bạch-Hổ, với Sào Nam,

Ra đi vì nghĩa việc làm vì dân.

Nêu danh cách-mạng tinh-thần,

Gọi người đồng chủng góp phần bước ra.

Khi Nhật-Bản, lúc Trung-Hoa,

Hoành Tân Thượng-Hải những là nguy-nan.

Gặp dưỡng nghị, quốc sự bàn,

Tâm đầu ý hợp quang sang chẳng từ...

Lương Ngọc Quyến, với Thiên Tư,

Chấn vũ học hiệu tay chừ xuất-thân.

Kỳ Ngoại Hầu trạc thanh-xuân,

Cùng ăn cùng học chuyên-cần anh em.

Tung-hoành kể đã bao phen,

Xiêm La Đức Quốc trí bền xông pha.

Luân Đôn vận-động nước nhà,

Toàn quyền xa lộ thiết-tha yêu-cầu.

Lạ thay là, Kỳ Ngoại-Hầu,

Nung gan đúc trí trước sau vững bền.

Non sông ghi dấu họ tên,

Một lòng vì nước chẳng quên vì nhà.

Bốn mươi năm, Nhật-Bản qua,

Tấm lòng vì nước thân là cỏ cây.

Trời Nam hưng vận ngày nay,

Hồn về chín suối xác về thành tro.

Ra đi bao nỗi hẹn hò,

Trinh trung báo quốc ra tro cũng đành.

Nghìn thu rõ mặt tài danh,

Sử xanh còn đó rành rành ghi tên.

Ngoài hoạt-động, chẳng ai quên,

Biết bao tác-phẩm lưu-truyền đến ta.

Đồng-Minh Phục-Quốc lập ra,

Chín chương giải-nghĩa những là thương-tâm.

Việt-Nam nghĩa liệt trung-thần,

Những ai vì nước, vì dân qua đời.

Quan phục quân, phương lược rồi,

Gọi người quốc-sĩ gọi người trung can.

Phước tiên lấy, linh-hồn đan,

Ngõ hầu bồi bổ ruột gan anh-hùng.

Nhân bản chủ, nghĩa thành-công,

Ấy là phương-sách hưng-vong duy-trì.

Dư cửu niên, lay sửa trì,

Đây là chủ-nghĩa thạnh suy nước nhà.

Chút thân phiêu bạc cõi xa,

Một lòng vì nước vì nhà tận trung.

Thiên Hồ Đế, Hồ soạn xong,

Ngài Cường-Để một tấm lòng xót xa.

Đến nay thân đã về già,

Nước nhà độc-lập vẫn là lênh-đênh.

Trăm năm ghi lại chút tình,

Vỏ toàn bất cãi đinh-ninh chẳng về.

Sắt son giữ trọn lời thề,

Biển Đông vi hận hồn quê mơ màng.

Nắm tro giữ đất Phù-Tang,

Tiếng quyên reo rắt phụ phàng trời xanh.

Gió đưa lay động bức mành,

Phải hồn tinh vệ sót tình tha-hương.

Đại-tường gãy khúc đoạn-trường,

Càng nhìn thấy cảnh càng thương nỗi lòng.

Xa xa nhắn với Hóa-Công,

Đau lòng quốc rũ uổng công dã tràng.

Top of Page

5.- Ngày 10-03 Kỷ-Niệm Thập-Bát Hùng-Vương

Văn Tuế

Thời Duy

Tế thứ ........... niên. Kiến (giáp thìn ngoạt, giáp thân, kiết nhựt lương thần. Hiện tại (Việt-Nam Quốc, Tây-Ninh tỉnh, Châu-Thành Thánh-Địa Đệ Ngũ phận Đạo.)

Cư trụ (Báo-Quốc-Từ) chi trung.

Tế chủ (Phó Khâm Thành Nam) tịnh Chức-Sắc, Chức-Việc, nam-nữ đẳng cẩn dĩ tư thần thanh chước, thứ phẩm chi nghi. . .

“Cảm chiếu cáo du”

Việt-Nam quốc tổ Kinh Dương-Vương Lạc-Long-Quân. Lịch Đại Thập Bát Hùng-Vương, giữ tùng tự Lạc Hầu, Lạc Tướng, liệt vị tồn thân.

Y Dư,

- Đường Nam tiếng vẻ-vang dân-tộc nghiệp lưu-truyền cảm đội Đức Hùng-Vương.

- Cuộc bát phòng vững chắc biên cương công khai-sáng mong nhờ quốc-tế.

- Hồn thiêng trấn-ngự khắp giang-san.

- Phước ấm chở che cùng lãnh-thổ.

Cung Duy Chư Tiên-Vương

- Tinh hoa ngũ đẳng nung rèn.

- Linh tú phong châu kiết tụ.

- Góc nhau rún từ trăm trứng nổ.

- Thông-minh dũng-cảm Rồng-Tiên cốt cách tạo muôn đời.

- Nghiệp Đế Vương hai chục ngôi truyền.

- Chánh-trực nhơn-từ, Hồng-Lạc oai-danh vang từ nhỏ.

- Sức mãnh tiến ven bờ định cõi, tạo thành dãy non-sông gấm-vóc.

- Từ Động-Đình thẳng xuống Chiêm-Thành.

- Ngành hưng Nông mở ruộng khai ngòi dựng nền xã tắc nghiêm-trang khắp viên quận quan về thủ phủ.

- Văn võ triều nghi sắp-đặt. Nào Lạc-Hầu, nào Lạc-Tướng tài-năng.

- Ngang chức-vụ, tiếp tay gầy dựng kỷ-nguyên chung. Gái trai danh hiệu nêu bày từ Quan-Lang đến Nhị-Nương đức-hạnh xứng ngôi hằng nối bước đắp vun nề-nếp cũ.

- Hội Linh-Kiệt nước-non người gật tiến Chiêm Việt tích còn ghi.

- Nung nghĩa tình chồng-vợ, anh em phong-tục Trầu-Cau đời vẫn giữ.

- Đảnh ngộ khơi hồn nước cũ, sử tạc bốn nghìn năm.

- Cơ-đồ để lại lớp người sau trước chia 15 bộ.

- Đổi họ thay Triều qua mấy lớp, Vua quan đều nhớ trí tôn sùng.

- Phế hưng ly. Hiệp trải nhiều phen dân chúng đồng tâm ngưỡng-mộ.

Hôm nay chúng tôi:

- Nhìn tổ-quốc rỡ-ràng sông-núi ơn ngọn rau tấc đất dạ còn ghi.

- Ngắm dư đồ rộng-rãi phong cương nghĩa cây cội nước nguồn lòng nhớ mãi.

- Non nước cách tâm thành không chúc văn lời tụng xưng luôn nhắc nhở quân công.

- Thời đại xa tưởng vọng chẳng hề lơi.

- Ngày kỷ-niệm vẫn mồ nhìn Miễu mộ.

- Hương một nén quì trước áng. Hội thanh-bình mong chuyển khắp giải san-hà.

- Rượu ba từng khấu điện theo nghi mùa thanh hương nguyện châu hòa ơn vỏ lộ.

- Tôn nghiêm thay, kính cẩn thay. Phục di thượng hương.

NEXT / Tiếp theo > Phần thứ V : Tang Lễ

Top of Page HOME

Từ khóa » Nợ Cung Kiếm Chiến Chinh Là Nghiệp