Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi ❤️️13 Bài Văn Hay
Có thể bạn quan tâm
Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi ❤️️33+ Bài Văn Hay ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Nhất Được Chọn Lọc Tại SCR.VN.
NỘI DUNG BÀI VIẾT
- Dàn Ý Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
- Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Hay Nhất – Mẫu 1
- Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Ngắn Gọn – Mẫu 2
- Phân Tích Chinh Phụ Ngâm 16 Câu Đầu Ngắn Nhất – Mẫu 3
- Bài Phân Tích 16 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
- Phân Tích 16 Câu Đầu Chinh Phụ Ngâm Nâng Cao – Mẫu 5
- Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Chinh Phụ Ngâm Chi Tiết – Mẫu 6
- Phân Tích 16 Câu Đầu Của Bài Chinh Phụ Ngâm Đầy Đủ – Mẫu 7
- Bài Văn Phân Tích 16 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Mở Rộng – Mẫu 8
- Phân Tích Bài Chinh Phụ Ngâm 16 Câu Đầu Đặc Sắc – Mẫu 9
- Phân Tích 16 Câu Thơ Đầu Bài Chinh Phụ Ngâm Ngắn Hay – Mẫu 10
- Bài Văn Phân Tích 16 Câu Đầu Của Tình Cảnh Lẻ Loi Đơn Giản – Mẫu 11
- Phân Tích 16 Câu Đầu Của Chinh Phụ Ngâm Lớp 10 – Mẫu 12
- Phân Tích 16 Câu Đầu Chinh Phụ Ngâm Facebook – Mẫu 13
Dàn Ý Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
Tham khảo dàn ý phân tích 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ dưới đây sẽ giúp các em học sinh định hướng cho mình bố cục và hệ thống luận điểm cơ bản khi làm bài.
I. Mở bài phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi:
- Giới thiệu về tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm
- Giới thiệu nội dung cần phân tích – 16 câu đầu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
II. Thân bài phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi:
a) 8 câu thơ đầu:
-Không gian:
- Hiên vắng: vắng vẻ, hiu quạnh
- Khuê phòng: cô đơn, nhớ nhung
-Thời gian:
- Đèn: ban đêm, thời gian của tâm trạng
- Hoa đèn: thời gian qua lâu gợi nỗi niềm khắc khoải
-Hành động của người chinh phụ:
- Dạo – gieo từng bước: đi đi lại lại, quanh quanh, quẩn quẩn. Thể hiện nỗi nhớ như ngưng đọng trong từng bước đi
- Rủ thác: hành động vô thức, không có chủ đích
- Nghe ngóng tin tức: nhớ mong, khao khát người chồng trở về
- Giãi bày, chia sẻ với ngọn đèn – vật vô tri vô giác
-Biện pháp nghệ thuật:
- Điệp ngữ vòng: đèn biết chăng – đèn có biết, diễn tả tâm trạng buồn triền miên, kéo dài lê thê trong thời gian và không gian, dường như không bao giờ đứt, ngừng.
- Câu hỏi tu từ: đèn biết chăng? Như một lời than thở, thể hiện nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng luôn day dứt không yên trong người chinh phụ.
b) 8 câu thơ còn lại:
-Cảnh vật thiên nhiên:
- Gà eo óc gáy – sương năm trống: gà gáy báo hiệu canh năm, báo hiệu người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt đêm
- Tiếng gà khắc khoải như xoáy sâu vào tính chất tĩnh lặng của không gian, đồng thời cũng xoáy sâu vào tâm trạng người chinh phụ
- Hòe phất phơ: cảnh vật quạnh hiu
-Cảm thức của người chinh phụ về thời gian:
- Hòe: bóng cây hòe ngoài sân, trong vườn ngắn rồi lại dài, dài rồi lại ngắn, thể hiện sự trôi đi của thời gian – thời gian của xa cách và nhớ thương
- Thời gian của tâm trạng: “Khắc, giờ – niên”, “Mối sầu – biển xa”
-Hành động của người chinh phụ:
- Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành
- Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
- Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
- Sự mâu thuẫn giữa cảm xúc và lí trí
c. Tiểu kết phân tích 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi:
-Phân tích giá trị nội dung 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.
-Phân tích giá trị nghệ thuật 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi:
- Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng
- Khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nội tâm
- Các biện pháp tu từ: So sánh, điệp từ, từ láy.
III.Kết bài phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi:
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌹 15 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Trong đề tài viết về chiến tranh, người ta thường viết nhiều về những tráng sĩ, những anh hùng đã chiến đấu, đã hi sinh vì non sông, đất nước. Rất ít tác giả viết về hình ảnh những người vợ, những người mẹ mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng mình, của con mình. Và có ai biết được rằng cái sự chờ đợi đó dường như là vô vọng, bế tắc bởi lẽ: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”.
Cảm thông trước cảnh buồn khổ của những người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã sáng tác tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán và Đoàn Thị Đi ểm đã dịch bài thơ này ra chữ Nôm. Trong bản dịch này, có thể thấy xuất sắc nhất là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đặc biệt là 16 câu thơ đầu tiên.
Ngay những câu đầu của tác phẩm Chinh phụ ngâm, tác giả đã vẻ nên cảnh chia tay giữa người chinh phụ và chinh phu: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Nói như thế có nghĩa là khi người chồng đã đi chinh chiến nơi biên ải xa xôi, người vợ phải ở nhà. Đó là hoàn cảnh của người chinh phụ trong hiện tại.
Không những nêu lên hoàn cảnh hiện tại của người chinh phụ, 16 câu thơ đầu còn khắc họa hình ảnh của người vợ trẻ giữa không gian và thời gian. Về không gian, tác giả đã vẻ ra trước mắt chúng ta về hiên vắng, ngoài rèm, trong rèm. Đó là không gian hiu quạnh và vắng vẻ vô cùng.
Không chỉ thế, thời gian trong đoạn thơ này cũng được vẽ nên, đó là trục thời gian trôi chảy. Các hình ảnh hoa đèn, tiếng gà eo óc đã vẽ nên cái trục thời gian tuần hoàn: từ đêm đến đêm khuya và trời dần trở về sáng. Nói như thế có nghĩa là người chinh phụ đã thức suốt năm canh để chờ đợi, ngóng trông và gậm nhắm nỗi cô đơn, sầu muộn của mình.
Tóm lại, đoạn trích đã cho ta thấy được hình ảnh của người chinh phụ nổi bật giữa không gian và thời gian. Vậy giữa cái khoảng không gian quạng vắng, cô đơn chiếc bóng ấy, giữa acsi thời gian lê thê của năm canh ấy người chinh phụ đã làm gì?
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Hai câu thơ đầu đã cho chúng ta thấy hình ảnh của người chinh phụ với những hành động thật lạ kì. Người chinh phụ dạo hiên, người chinh phụ ngồi rèm. Thế nhưng, nàng dạo hiên mà thầm gieo từng bước, nàng ngồi rèm mà rủ thác đòi phen. Đó là hành động quanh quẩn, được lặp lại nhiều lần. Có thể thấy hành động này bất thường bởi lẽ nàng dạo hiên mà đếm từng bước chân. Nàng ngồi tước cửa sổ mà hết hạ rèm xuống rồi kéo rèm lên.
Hành động vô thức ấy cứ lặp đi lặp lại để cho thấy được rõ ràng bên trong người chinh phụ đang chất đầy tâm trạng. Nàng ngồi rèm, nàng dạo hiên không phải đề hòa mình với thiên nhiên, mà là để trông ngóng một điều gì đó. Có thể thấy, 2 câu thơ đầu đã đặc tả được sự cô đơn, lẻ loi, vắng bóng cũng như hé mở tâm trạng bên trong của người vợ trẻ này. Nàng đang chờ đợi, ngóng trông điều gì mà lòng thổn thức không yên. Và đến những câu thơ tiếp theo thì tâm sự của người chinh phụ đã được hé mở:
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Cụm từ “thước chẳng mách tin” hé lộ mọi tâm trạng của người chinh phụ. Thì ra người vợ trẻ ấy đang chờ đời con chim thước – con chim báo tin lành, tin của người chồng nơi biên ải xa xôi. Thế nhưng, con chim thước không đến và người chồng cũng bặt vô âm tín. Tiếp theo đó, tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ngoài rèm với trong rèm và câu hỏi tu từ: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”. Chính cái thủ pháp đối lập và câu hỏi tu từ, một lần nữa cho chúng ta thấy được cái tâm trạng trách móc, buồn bã của người chinh phụ.
Bên cạnh đó, ta còn cảm nhận được sự tuyệt vọng của người vợ đang mòn mỏi chờ đợi tin túc cửa chồng. Những câu thơ đầu vẽ nên tình cảnh của người chinh phụ trong lẻ loi, cô đơn, vô vọng. Người chinh phụ ấy thật đáng thương biết bao. Và đáng thương hơn nữa khi nàng chỉ biết làm bạn với ngọn đèn:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Với thủ pháp điệp từ: “đèn biết chăng”; “đèn có biết”. Tác giả đã vẻ nên dòng tâm trạng triền miên, day dứt, không nguôi của người vợ trẻ. Thêm vào đó, với câu hỏi tu từ” đèn có biết dường bằng chẳng biết” như là một nỗi ám ảnh, như là một tiếng lòng thổn thức không nguôi của người chinh phụ. Hai câu thơ này đã cho ta thấy tâm trạng buồn rầu, xót xa của người vợ khi chờ đợi mãi mà chưa có tin tức gì. Không chỉ thế, 2 câu thơ với câu hỏi tu từ đã tạo nên một dòng chảy tâm trạng triền miên, day dứt.
Và dòng tâm trạng ấy lại trở nên dai dẳng hơn nữa, triền miên hơn nữa khi nó đặt giữa một không gian và thời gian chẳng bao giờ ngừng và đứt đoạn:
Buồn rầu nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Bên canh việc sử dụng phép điệp, câu hỏi tu từ, đoạn thơ còn sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng: hoa đèn, bóng người và cạm từ như bi thiếp, buồn rầu. Với những hình ảnh và cụm từ ấy, tác giả một lầ nữa cho ta thấy sự cô đơn, sầu muộn. Đặc biệt hình ảnh hoa đèn khiến ta liên tưởng đến những câu ca dao thật hay thậ đẹp về chuyện tình yêu:
Khăn thương nhớ ai,Khăn rơi xuống đất.Khăn thương nhớ ai,Khăn vắt lên vai.Khăn thương nhớ ai,Khăn chùi nước mắt.Đèn thương nhớ ai,Mà đèn không tắt.Mắt thương nhớ ai,Mắt ngủ không yên.Đêm qua em những lo phiền,Lo vì một nỗi không yên một bề…
Cô gái trong bài ca dao hay người vợ trẻ trong chinh phụ ngâm khúc đều phải mòn mỏi từng ngày, từng thắng, từng năm để ngóng trông tin tức của người yêu, người chồng. Không chỉ thế, hình ảnh hoa đèn và bóng người khá thương còn gợi ta liên tưởng đến chuyện người con gái nam xương của nguyễn dữ. Cả vũ nương trong tác phẩm này và người chinh phụ của đặng trần côn. Cảnh vật trong đoạn trích này vẫn không thay đổi, nhưng thời gian lại trôi chảy tuần hoàn:
Gà eo óc gáy sương năm trống,Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Cụm từ âm thanh “gà eo óc” đã diễn tả được sự trôi chảy của thời gian. Nếu như ở các câu thơ trước xuất hiện hình ảnh đèn-báo hiệu đã tối, hoa đèn – báo hiệu đã khuya, và cuối cùng là tiếng gà – báo hiệu trời đã sáng. Không chỉ có âm thanh tiếng gà éo óc mà còn có cả không gian qua hình ảnh lá hoè.
Hình ảnh hòe phất phơ rủ bóng bôn bên gợi lên một không gian vắng lặng, tĩnh mịch, hoang vắng. Người xưa đã nói: “Thức đêm mới biết đêm dài”. Phải thức đem mới biết được cái khoảng thời gian ấy trôi qua một cách lê thê. Người chinh phụ đã cảm nhận được dòng thời gian trôi chảy:
Khắc giờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Thủ pháp so sánh cùng với các từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” đã cho chúng ta cảm nhận được cái âm điệu sầu não, day dứt của đoạn thơ. Không chỉ tạo nên cái âm điệu sầu não, tác giả đã sử dụng thủ pháp lấy cảnh ngụ tình để thể hiện nỗi cô đơn, vắng bóng, sầu khổ của người chinh phụ. Nỗi nhớ ấy dài lê thẻ tựa cả một năm.
Không những dài mà nỗi nhớ ấy còn rộng, sau tự biên cả rộng lớn. Ai có thể thấy được bờ bến của biển khơi, ai có thể thấu được cái lòng đại dương kia đến tận đâu. Tấm lòng của người chinh phụ được ví von với những hình ảnh mang đậm sắc thái biểu cảm như thế.Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Trong đoạn thơ này tác giả đã liệt kê hàng loạt hành động của người chinh phụ. Người chinh phụ đốt hương,soi gương, gảy đàn. Thế nhưng những hành động ấy đều gượng gạo và miễn cưỡng. Nằng làm đó nhưng đó là hành động của người có xác mà không hồn. nàng làm đó nhưng bên trong tư tưởng tâm trí lại nghĩ về điều khác. Người chinh phụ đốt hương cầu mong hạnh phúc gđ, nhưng nàng đốt hương mà hồn đà mê mãi.
Nàng soi gương nhưng soi gương làm chi, trang điểm làm gì khi không có chồng bên cạnh. Hình ảnh người chinh phụ soi gương khiên ta liên tưởng đến bài thơ Khuê oán của vương xương linh. Trong bài thơ này, tác giả đã khắc họa hình ảnh người chinh phụ trang điểm sau đó lên lầu để ngắm cảnh. Nhưng lên đến lầu mới nghiệm ra nhiều điều:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,Hối giao phu tế mịch phong hầu.(Chợt thấy màu dương liễu tốt tươi ở đầu đường,Bỗng hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.)
Khi trong thấy dáng liễu bên đường mới nhận ra thời gian trôi chảy vô tình, nhan sắc của nàng dần tàn phai và người chồng ngày ra đi chưa biết ngày trở về. Nhân vật trữ tình còn gảy đàn. Nàng gảy đàn để tìm đến thú vui tao nha. Mong rằng tiếng đàn kia sẽ làm vơi bớt nỗi muộn phiên. Thế nhưng, gảy đàn mà lại dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng:
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Câu thơ sử dụng điển tích “dây uyên” và “phím loan”. Chính 2 điển tích này đa diễn tả tâm trạng tiếp theo của người chinh phụ. Không chỉ cô đơn, không chỉ lẻ loi, không chỉ sầu muộn mà lúc này đây tràn đầy nỗi lo lắng và sợ hãi. Nàng sợ dây uyên….. ngại chùng.sợ điểm gở sẽ đến, sợ vợ chồng chia lìa xa cách.
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu.
Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: “Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió
Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, 16 câu thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở người chinh phụ, luôn khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thong sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🍀 15 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi ngắn gọn dưới đây với những ý văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm văn học trung đại xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà ở đó, lồng ghép những mạch cảm xúc, câu chuyện thấm đẫm nỗi bi thương về thân phận người phụ nữ thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Không gian hiên vắng, ngay từ những vần thơ đầu đã gieo vào lòng người đọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các động từ như “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm của người phụ nữ dưới mái hiên nghèo, những ngày động cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự hoang hoải và trống rỗng trong tâm trí. Và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lại vừa có cảm giác như một lời trách móc:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”
Bắt đầu từ đây, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô đơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết đến người chinh phụ nơi chiến trận phương xa. Nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi không nhận được tin tức về người chinh phụ. Hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy.
Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không gian một sắc buồn ảm đạm. Càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự.
Ca dao xưa đã từng có bài ca dao khăn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người phụ nữ trong vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ngọn đèn khuya leo lét, lạnh lẽo càng nhấn mạnh thêm tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.Khắc giờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhường nào. Cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo đếm, nay được định lượng hóa bằng sự đằng đằng của tháng năm, bằng sự rộng dài của dòng thời gian trường cửu, càng thêm quay quắt và trở nên trơ trọi. Và giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khoải, rợn ngợp về tương lai. Những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự đơn độc, về sự hoang hoải trống vắng trong tâm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi về tương lai, về sự cách lý.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã lột tả một cách sống động chân thực cảm xúc cô đơn và nỗi nhớ thương khắc khoải đến quặn thắt của người chinh phụ, đồng thời qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Phân Tích Chinh Phụ Ngâm 🌟 19 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Chinh Phụ Ngâm 16 Câu Đầu Ngắn Nhất – Mẫu 3
Với bài văn mẫu phân tích chinh phụ ngâm 16 câu đầu ngắn nhất, các em học sinh có thể nhanh chóng ôn tập đoạn trích Tình cảnh lẻ loi để chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
16 câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn. Với thể loại ngâm khúc, bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc và thấm thía nỗi khổ đau, tình cảnh cô đơn lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích còn mang ý nghĩa lên án chiến tranh phi nghĩa của chế độ phong kiến đương thời, bộc lộ sự cảm thông của nhà thơ với hoàn cảnh và khát khao của người chinh phụ.
Chồng phải chinh chiến nơi biên ải xa xôi, sau khi tiễn chồng đi, người chinh phụ trở về bắt đầu cuộc sống với những nỗi cô đơn, lẻ bóng. Tám câu thơ đầu đã khắc họa rất rõ tình cảnh đơn côi của người phụ nữ thông qua những cử chỉ, hành động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcNgồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Đi dạo trên hiên vắng nhưng thực chất chỉ là đi đi lại lại bởi tâm thế bây giờ không phải đi dạo để thưởng hoa vọng nguyệt, tiếp đến là hành động cuốn rèm, cứ buông rèm rồi lại cuốn rèm làm đi làm lại nhiều lần cũng không để tâm tới. Những hành động lặp đi lặp lại vô nghĩa cho thấy sự thẫn thờ, ngẩn ngơ và chất chứa đầy nỗi ưu tư của người chinh phụ.
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?Đèn có biết dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.Buồn rầu nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Chồng đã ra trận, chỉ còn lại một mình nàng, nàng đang phải gồng mình chống chọi với nỗi cô đơn trong âm thầm, không thể tâm sự hay san sẻ cùng với bất kỳ ai. Câu hỏi tu từ “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” càng tô đậm thêm nỗi day dứt và khắc khoải trong lòng người chinh phụ, hình ảnh “hoa đèn” và “bóng người” là sự so sánh sức sống của người phụ nữ đã lụi tàn, số phận như tàn đèn.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Đây thực chất là câu thơ tả cảnh ngụ tình, tiếng gà eo óc, bóng cây hòe rủ phất phơ trong đêm, dường như cảnh vật và sự sống nhìn qua con mắt của người chinh phụ giờ đây đều nhuốm màu buồn, gợi nên cảm giác trống trải, hoang vắng tột cùng. Thời gian theo cảm nhận cũng đầy ắp nỗi niềm tâm trạng, “đằng đẵng”, “dằng dặc”, đó là biểu tượng cho những nỗi buồn, nỗi đau khổ đang kéo dài vô tận không biết điểm dừng.
Nỗi buồn của người phòng khuê làm cách biệt không gian và thời gian, một giờ bằng cả một năm, mối sầu như biển cả mênh mông. Nỗi buồn khổ ấy đã đẩy lên đỉnh điểm, khiến cho mọi hành động của người chinh phụ chỉ là gượng gạo, miễn cưỡng:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mảiGương gượng soi lệ lại châu chanSắt cầm gượng gảy ngón đànDây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
Sự rối bời đến đây đã bộc lộ rõ ràng, đốt hương mà hồn lại mê man, soi gương mà nước mắt chứa chan, gảy đàn mà lại thấy điềm báo gở chẳng lành, tất cả đang dồn ép vào nỗi lòng người chinh phụ khiến nàng không thể giải tỏa, càng cố gượng gạo thì nỗi buồn sầu càng thêm chất chứa.
Với việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, câu hỏi tu từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ, cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy bộc lộ nội tâm nhân vật một cách tinh tế. 16 câu thơ đầu trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” như chứa chất nỗi đau, nỗi nhớ và khao khát hạnh đôi lứa, thể hiện sâu sắc và thấm thía nhất chủ đề của tác phẩm.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Phân Tích 16 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tham khảo bài phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi học sinh giỏi dưới đây với nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Cảm hứng nhân đạo là mạch nguồn xuyên suốt chiều dài của văn học dân tộc. Đặc biệt là trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ 18 – đầu thế kỉ 19, nước ta có nhiều biến động dữ dội về mặt lịch sử, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra đòi lật đổ triều đình phong kiến, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người bị đe dọa nặng nề.
Cũng trong giai đoạn này, lần đầu tiên, hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong tác phẩm của nhiều tác giả. Nổi bật trong số đó có “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. Người chinh phụ sau buổi tiễn đưa chồng ra trận trở về, tưởng tượng cảnh chiến trường mà xót xa, lo lắng cho chồng, ái ngại cho tình cảnh của chính mình. Tâm sự ấy đã được thể hiện rất sâu sắc qua 16 câu đầu của đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcNgồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hai câu mở đầu đoạn trích tái hiện hình ảnh của người chinh phụ một mình ở nhà, hết đi ra ngoài hiên lại vào trong phòng, cuốn rèm lên rồi lại rủ rèm xuống. Những động tác, cử chỉ lặp đi được lặp đi lặp lại nhiều lần như không mục đích, diễn ra theo sự chi phối của sự xáo động trong tâm hồn.
Thời gian dường như trôi đi một cách nhàm chán, nặng nề, tẻ nhạt, ẩn giấu trong trạng thái tâm lí khắc khoải, bồn chồn, không biết chia sẻ cùng ai. Bước chân của người chinh phụ dường như chung một nhịp với bước chân của người cung nữ cô độc đáng thương trong “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều
“Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”.
Bước chân ấy lại càng đối lập với bước chân nàng Kiều của Nguyễn Du: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Bước chân của Kiều ngập tràn hạnh phúc, yêu thương, còn bước chân của người chinh phụ nặng trĩu tâm tình, thương nhớ và xót xa. Nhìn bên ngoài, đó là cuộc sống an nhàn, thảnh thơi nhưng thực tế, người thiếu phụ đang phải sống trong cuộc sống tội nghiệp, đáng thương: chồng đi biền biệt, tuổi xuân phai tàn. Nỗi cô đơn, lẻ loi, khắc khoải nào ai có thấu?
Trong tâm sự của người chinh phụ có nhắc đến chim thước, tiếng chim đó trong hoàn cảnh này vẫn im bặt khiến người chinh phụ phải lên tiếng trách móc. Lúc đầu nghĩ rằng may ra có đèn biết tâm sự của mình nhưng rồi nghĩ lại đèn có biết cũng bằng không:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?Đèn có biết dường bằng chẳng biếtLòng thiếp riêng bi thiết mà thôiBuồn rầu nói chẳng nên lờiHoa đèn kia với bóng người khá thương”
Đèn có biết vì đã thức cùng nàng trong những đêm thâu vời vợi, chứng kiến nàng trằn trọc. Ngọn đèn ấy ta đã gặp trong ca dao, nỗi thương nhớ của người con gái. Đèn chẳng biết vì ngọn đèn vô tri đâu có thể an ủi được nàng. “Chẳng” được lặp lại nhiều lần ngoài ý phủ định sự tồn tại của chim thước còn nhấn mạnh nỗi vô vọng, cô sầu của người chinh phụ.
Hỏi là để kiếm tìm sự tri âm, kiếm tìm mối đồng cảm. Nhưng ngọn đèn lại không thể thấu tỏ nỗi cô đơn của nàng. Ba lần từ “chẳng” xuất hiện là 3 lần nhân vật trữ tình rơi vào sự thất vọng, tuyệt vọng, vô vọng của nỗi buồn đau, cô lẻ. Nhưng càng thất vọng, tuyệt vọng, khao khát được sẻ chia lại càng mạnh mẽ.
Người chinh phụ đành trở về, thấm thía nỗi vô vọng của mình. Bóng người là hình ảnh người thiếu phụ mà ngọn đèn hắt in lên. Hình ảnh thơ gợi về sự lụi tàn, héo úa, mòn mỏi suốt canh dài. Những hình ảnh thẩm mĩ giúp truyền tải sự lẻ loi, thao thức ngóng trông. Bóng người còn gợi đến chiếc bóng của Vũ Nương, khi xa chồng còn có bé Đản là niềm an ủi. Còn người chinh phụ thì vò võ đêm dài, không người an ủi, còn cách nào khác ngoài trò chuyện với ngọn đèn, trò chuyện với chính mình.
Từ hình ảnh chiếc bóng, ta cũng hình dung ra tâm trạng Thúy Kiều khi tiễn Thúc Sinh:
“Người về chiếc bóng năm canhKẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”
Thương cho đèn cũng là thương cho mình, hai đối tượng vừa khác biệt vừa đồng nhất. Do vậy, những uẩn ức trong lòng chỉ mình nàng biết, chỉ mình nàng đau. Những chữ “biết”, “bị thiết”, được láy lại đã cực tả cảm giác cô đơn. Điều đó cũng khẳng định tài của dịch giả trong sự chuyển hóa và hiện thực hóa tâm trạng nhân trữ tình qua lớp ngôn từ giàu tính biểu cảm.
Những sáng tạo về hình ảnh thơ của Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn còn thể hiện niềm xót thương vô hạn, bản cáo trạng đanh thép những tội ác mà chiến tranh phi nghĩa gây ra.Nỗi sầu muộn triền miên của người chinh phụ xuyên qua cả không gian, thời gian:
“Gà eo óc gáy sương năm trốngHòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Những câu thơ hướng về ngoại cảnh còn là những câu thơ diễn tả nội tâm. Đêm nghe tiếng gà eo óc là âm thanh của tâm trạng, được lắng qua tâm tư nhức nhối, bức xót của nhân vật trữ tình suốt năm canh. Ngắm nhìn bóng hòe không phải là thời gian nhàn rỗi mà đó là hình ảnh người chinh phụ đang đếm từng thời khắc trôi đi.
“Khắc giờ đằng đẵng như niênMối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Người chinh phụ có những cảm nghĩ về thời gian thật đặc biệt. So với nguyên tác, Đoàn Thị Điểm đã sáng tạo thêm những láy từ biểu cảm, một thời khắc đợi chờ dài tựa cả năm, mối sầu miên man tựa biển khơi được tâm lí hóa. Mối sầu hiện lên nặng trĩu, đằng đẵng, dằng dặc đến khôn nguôi, ôm trùm cả không gian. Trong trạng thái cô đơn sầu muộn, người chinh phụ gắng gượng để thoát khỏi sự cô đơn:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mảiGương gượng soi lệ lại châu chanSắt cầm gượng gảy ngón đànDây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
Những gắng gượng để vượt thoát sự cô đơn rốt cuộc cuộc cũng chìm vào bi kịch. Đốt hương để căn phòng thêm ấm áp, xua tan sự giá lạnh. Gượng soi gương để tìm kiếm hình ảnh khác. Tìm đến tiếng đàn để cho lòng khuây khỏa. Thế nhưng, mọi nỗ lực của người chinh phụ dường như không được như mong muốn.
Khi đốt hương thì càng chìm vào nỗi sầu miên man. Soi gương lại càng thấm sâu hơn tâm trạng cô đơn. Gắng đánh đàn nhưng ngón đàn không thể vang lên, lo sợ dây đứt phím chùng- dấu hiệu không may mắn trong tình chồng vợ. Người chinh phụ xuất hiện sau khi tiễn chồng ra trận đã thấm thía cảm giác chờ đợi đến mòn mỏi và nỗi cô đơn đến héo úa tâm hồn trong tình cảnh lẻ loi.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, thiên nhiên cũng thấm đẫm nội tâm con người. Những yếu tố ngoại cảnh soi chiếu vào nhau, cái buồn như dâng lên ở mọi phía, người chinh phụ nhỏ bé càng thêm cô độc, thiểu não.Đoạn trích đã thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc của người chinh phụ. Trong chuỗi ngày lẻ bóng cô đơn, nàng lo cho chồng, thương cho mình, đau xót cho tình cảnh dở dang, tương lai mù mịt tăm tối. Nghệ thuật nổi bật trong bài thơ là bút pháp tả cảnh ngụ tình, điệp từ, sử dụng nhiều từ ngữ giàu giá trị biểu cảm.
Không chỉ có ý nghĩa về giá trị thẩm mĩ, tác phẩm còn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả khi lên tiếng tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã hủy hoại cuộc sống hạnh phúc của con người, đề cao khát vọng về tình yêu chân chính. Cùng với “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều, “Tự tình” của Hồ Xuân Hương, “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn sẽ là viên ngọc tỏa sáng mãi trong nền văn học dân tộc với đề tài về người phụ nữ.
Tham khảo văn mẫu 🍀 Phân Tích Tâm Trạng Của Người Chinh Phụ 🍀 15 Mẫu Hay
Phân Tích 16 Câu Đầu Chinh Phụ Ngâm Nâng Cao – Mẫu 5
Bài văn mẫu phân tích 16 câu đầu chinh phụ ngâm nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh để ôn tập đoạn trích Tình cảnh lẻ loi.
“Người lên ngựa, kẻ chia bàoRừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”
Văn học Việt Nam đã từng chứng kiến biết bao những cuộc chia li, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. Và ở thế kỉ thứ XVIII, “Chinh phụ ngâm” một tác phẩm lấy từ đề tài chia li trong chiến tranh đã của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, đặc biệt là 16 câu đầu đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong, và có cả những khao khát hạnh phúc của người chinh phụ.
Nhà văn Tô Hoài đã từng khẳng định: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Thời đại của Đặng Trần Côn là thời kì mà chiến tranh các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên và phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà sống trong cảnh loạn lạc, khói lửa, đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, tang tóc.
Khi thời đại đưa cho ông một đề tài quen thuộc “hiện thực chiến tranh”, bằng cảm hứng nhân đạo của mình, Đặng Trần Côn đã chiếu ngòi bút của mình xuống những nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh để cất lên tiếng nói của con người thời đại, tiếng nói oán ghét chiến tranh phi nghĩa, tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua khúc tự tình trường thiên “Chinh phụ ngâm”.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, qua nỗi niềm của người chinh phụ có chồng ra trận, tác giả đã đã để cho người đọc cảm nhận nỗi đau thương trong chiến tranh của cả hai phía người ra trận và người ở lại. Nếu ở nơi chiến địa, chinh phu đang từng ngày từng giờ đối mặt với cái chết thì chinh phụ nơi quê nhà cũng đang mòn mỏi chờ đợi trong vô vọng, và chìm đắm trong muộn phiền.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcNgồi rèm thưa rủ thác đòi phenNgoài rèm thước chẳng mách tinTrong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn. Nàng đi đi lại lại, những bước chân của nàng không phải là bước chân “xăm xăm” khi nghe thấy tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc của nàng Kiều mà những bước chân ấy gieo xuống từng bước như gieo vào lòng người đọc những thanh âm của sự lẻ loi cô độc. Nàng hết buông rèm rồi lại kéo rèm để hướng ra ngoài, hướng về nơi biên ải xa xôi kia để mong ngóng chút tin tức của chinh phu nhưng không có dấu hiệu hồi đáp lại.
Nhịp thơ chậm, kéo dài như ngưng tụ cả không gian và thời gian. Dường như hành động nàng đang lặp đi lặp lại một cách vô thức bởi tâm trí nàng giờ đây đang dành trọn cho người chồng nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Những thao tác trữ tình ấy đã lột tả được tâm tư trĩu nặng và cảm giác bế tắc không yên của người chinh phụ. Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, nàng mong ngóng một một người có thể sẻ chia những tâm tư nhưng tất cả chỉ có một ngọn đèn khuya leo lét:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biếtLòng thiếp riêng bi thiếp mà thôiBuồn rầu chẳng nói nên lờiHoa đèn kia với bóng người khá thương”
Ngọn đèn vừa chứng kiến vừa soi tỏ nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng. Khi đối diện với ngọn đèn là người phụ nữ đáng thương ấy đang tự đối diện với chính mình, dưới ánh sáng của ngọn đèn mà tự phơi chải nỗi đau của chính mình. Để rồi những tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Nàng thấy mình chỉ như kiếp hoa đèn kia mỏng manh và dang dở, thấy sự tàn lụi ở ngay trước mắt mình. Nếu ngọn đèn không tắt đồng hành với người phụ nữ trong ca dao thắp lên nỗi nhớ thương:
“Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt”
Ngọn đèn trong đêm với Thúy Kiều đã trở thành nhân chứng của nỗi đau của người con gái tài sắc:
“Một mình một ngọn đèn khuyaÁo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”
Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đên héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt đè nặng trong lòng người chinh phụ, và trở thành nỗi “bi thiết” không thể nói lên lời, là nỗi “buồn rầu” đến não nề, đến thương cảm.
Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:
“Gà eo óc gáy sương năm trốngHòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài cùng biện pháp lấy động tả tĩnh với sự xuất hiện âm thanh “tiếng gà eo óc suốt” đêm thâu như tô đậm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình. “Eo óc” đó là âm thanh thưa thớt trong một không gian rộng lớn, hiu quạnh có cảm giác tang tóc, tang thương đã bộc lộ sâu sắc nỗi chán chường của chủ thể trong đêm thâu. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy.
Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế dáng điệu võ vàng của người chinh phụ, tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của người chồng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình như đang thấm đẫm, lan tỏa cả trong thời gian và xuyên suốt cả thời gian. Tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lí, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ:
“Khắc giờ đằng đẵng như niênMối sầu dằng dặc tự miền biển xa”Câu thơ theo đúng nguyên tác của Đặng Trần Côn:“Sầu tựa hảiKhắc như niên”
Chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó. Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy. Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ vẫn đang chiến đấu với nỗi cô đơn, chiến đấu để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mảiGương gượng soi lệ lại châu chanSắt cầm gượng gảy ngón đànDây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát ấy của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để kiếm tìm sự thanh thản thì lại rơi sâu hơn vào cơn mê man. Nàng gượng soi gương để chỉnh trang nhan sắc thì lại chỉ thấy những giọt sầu. Nàng gượng tìm đến với âm nhạc để giải tỏa thì nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình.
Dường như nàng đang mang trong mình quá nhiều những nỗi lo sợ, lo lắng, bởi thế, người chinh phụ không những không thể giải tỏa được nỗi niềm bản thân mà còn như chìm sâu hơn vào nỗi bi thương xót xa.
Nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ được đặc tả bằng bút pháp trữ tình đa dạng để độc giả có thể cảm nhận được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình ngay cả khi ngày lên cũng như khi đêm xuống, luôn đồng hành cùng người chinh phụ cả khi đứng, khi ngồi, lúc ở trong phòng và ngoài phòng và bủa vây khắp không gian xung quanh. Sự cô đơn ấy đã làm hao gầy cả hình dáng và héo úa cả tâm tư và người chinh phụ như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất bình, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa.
SCR.VN chia sẻ 🌼 Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 🌼 13 Mẫu Cực Hay
Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Chinh Phụ Ngâm Chi Tiết – Mẫu 6
Tham khảo bài văn phân tích 16 câu đầu bài chinh phụ ngâm chi tiết dưới đây để nắm vững những giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi.
Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là mười sáu câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi. Hãy cùng thả lòng mình đến với 16 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” để cảm nhận rõ nét hơn nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến.
Đoạn trích ra đời vào thế kỉ XVIII. Đầu đời vua Lê Hiển Tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giả người thân ra trận. Khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ Hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 -216 và từ câu 228 – 252 trong nguyên tác.
Khi vừa ra đời tác phẩm đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ những nhà yêu thơ, đã có nhiều bản dịch ra chữ Nôm, nhưng bản dịch hiện tại là thành công nhất được viết theo thể song thất lục bát là thể thơ thuần túy của người Việt Nam.
Nhưng sau khi bản dịch ra đời lại có tranh cãi rằng bản dịch đấy là của Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm. Phần lớn cho rằng là của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống như người chinh phụ (bà có chồng đi sứ ở Trung Quốc). Mười sáu câu đầu đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. Những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào.
Mở đầu cho cảm xúc cô đơn, đau buồn kéo dài theo không gian và thời gian vô tận là hành động chậm rãi:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. Những động từ “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, không gian im lặng đến mức nghe từng tiếng bước chân. Người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng “ngồi” mà lòng thì chẳng để tâm. Tác giả đã sử dụng hình ảnh ” rủ thác đòi phen”- kéo màng lên rồi lại buông màn xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ.
Và rồi dường như có tiếng thầm thì trách móc:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”
Người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. Thực sự nàng đang rất nhớ người chinh phu điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “chim thước”- chim khách, là loài chim thường mang tin tốt lành. Nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê.
Và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình. “Đèn” được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. Nếu với “Ca dao yêu thương tình nghĩa”: ” Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt” chiếc đèn nguyện cùng cô gái thao thức suốt đêm mộng mơ nhớ thương, thì với Chinh phụ ngâm chiếc đèn lại phũ phàng với người phụ nữ lẻ loi ấy. “Đèn” đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, “đèn” đã làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “dù thế nào thì đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác” chẳng thể chia sẻ cùng nàng được.
Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. Và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. Bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ. Biết bao nỗi niềm chất chứa chẳng nói thành lời:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Nỗi buồn u ám dưới màng đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. Có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. Nghệ thuật so sánh “Hoa đèn” với “bóng người”, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời của mình có mau lụi tàn như chiếc hoa đèn kia hay không? Hay còn hẩm hiu hơn thế nữa? Càng nghĩ nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.Khác giời đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên “eo óc” thưa thớt, hình ảnh hoa hòe “rũ bóng bốn bên”, thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. Sự so sánh “khắc giờ” như “niên”, một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn. Thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng.
Cùng với từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng. Nghệ thuật lấy động tả tỉnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cái xa của biển cả để nói về cái buồn của lòng người là một cách miêu tả đầy tinh tế. Tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,Gương gượng soi lệ lại châu chan.Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”
Nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu mênh mang. Khi đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. Rồi khi soi gương để tô son điểm phấn, nàng lại càng xót xa cho thân phận của mình, nhan sắc của một người phụ nữ đang dần phai mòn đi theo những tháng ngày lẻ loi, không có chồng bên cạnh để làm điểm tựa. Khi đánh đàn nàng lại sợ “dây uyên đứt”, “phím loan chùng” nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng.
Biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động. Cũng chỉ vì quá cô đơn, muốn quên đi mà nàng mới làm. Nhưng dù có thú vui tao nhã đến đâu, dù tô son điểm phấn hay đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này với nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến sẽ trở về.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn.
Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” rất thành công.
Thông qua mười sáu câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Và là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến “Chinh phụ ngâm”. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌳 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 16 Câu Đầu Của Bài Chinh Phụ Ngâm Đầy Đủ – Mẫu 7
Dưới đây chia sẻ bài văn mẫu phân tích 16 câu đầu của bài chinh phụ ngâm đầy đủ để các em học sinh cùng tham khảo:
Đặng Trần Côn là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nhiều trai tráng phải giã từ người thân để ra trận. Sống trong thời kỳ ấy, cảm nhận được nỗi thống khổ của người vợ lính, Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán. Đó là một khúc ngâm đầy cảm xúc lột tả tình cảnh của người chinh phụ lúc bấy giờ.
Trong đó đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là đoạn trích hay đặc biệt là 16 câu thơ đầu đã thể hiện rõ nét nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến. Đã có nhiều bản dịch đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nhưng trong đó, bản dịch thành công nhất là bản dịch của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống người chinh phụ. Mười sáu câu đầu đoạn trích tác giả đã mở ra khung cảnh người chinh phụ chờ chồng trong tâm trạng u buồn, đơn độc.
Những hành động của người chinh phụ chậm rãi làm dâng lên cảm giác cô đơn, đau buồn:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Rèm thưa rủ thác đòi phen
Nhịp thơ nhẹ nhàng đi sâu vào cảm xúc. Hành động của người chinh phụ hiện ra với dáng vẻ u buồn. Những động từ “dạo” “gieo từng bước” ta thấy được sự nặng nề với tâm trạng bâng khuâng, lo lắng. Dường như không gian im lặng đến mức nghe được cả tiếng bước chân của người chinh phụ. Tất cả mọi hành động, cảnh vật đều thể hiện sự cô độc.
Người phụ nữ ấy chẳng thể tìm được một người để sẻ chia. Thế nên hành động của người chinh phụ cứ lặp đi lặp lại vô nghĩa, kéo mành lên rồi lại buông mành xuống. Từ sự cô độc đó, sâu trong tâm hồn của người chinh phụ lại thầm thì trách móc:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”
Ở đây ta thấy được rõ nét sự nhớ nhung của người chinh phụ qua hình ảnh “chim thước”. Có lẽ nàng đang chờ đợi một tin tốt lành từ loài chim ấy. Vậy mà chờ hoài, đợi mãi chẳng thấy đâu. Thế nên nàng đâm trách chim thước chẳng báo tin tức gì, để nàng phải ngóng, mong khắc khoải. Tác giả cũng sử dụng nghệ thuật đối lập “ngoài rèm”, “trong rèm” để thấy được nỗi cô đơn đã ăn sâu vào cả không gian bên trong và bên ngoài.
Thế nên, nàng cần lắm một người bạn tâm sự cùng mình. Có lẽ vậy, nhà thơ đã nhân hóa “đèn” khuya thành một người bạn của người chinh phụ. Nhưng ngay cả chiếc đèn cũng phũ phàng với người phụ nữ đang lẻ loi ấy. Đáng nhẽ lúc này “đèn” phải thao thức cùng nàng suốt đêm, ấy thế nhưng “đèn” đã tắt ngay khi người chinh phụ cần lắm sự sẻ chia. Điều ấy làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “đèn” cũng chỉ là một vật vô tri vô giác chẳng thể nào sẻ chia được điều gì.
Câu hỏi tu từ “trong rèm dường đã có đèn biết chăng” tác giả sử dụng cho người đọc cảm nhận được những cung bậc cảm xúc người chinh phụ đã trải qua. Và câu nói của người chinh phụ bật ra đau như xé lòng “Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi”. Vì chẳng có ai bên cạnh để sẻ chia nên nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn ấy.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương
Nỗi buồn của nàng giờ đây chẳng nói nên lời. Có lẽ nỗi buồn ấy đã quá lớn và hiện lên mỗi ngày. Ở đây, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời mình. Dường như cuộc đời nàng giống như hoa đèn vậy cũng mau lụi tàn. Càng nghĩ, nàng càng buồn khiến cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng, giống như Nguyễn Du đã miêu tả “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.Khắc giờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Trời về khuya, không gian càng yên tĩnh khiến tiếng gà gáy làm tâm trạng thêm u uất. Tiếng gà “eo óc” là tiếng gáy thưa thớt, thể hiện sự đơn độc. Tác giả đã dùng hình ảnh “rủ bóng bốn bên” để miêu tả thời khắc không gian chìm vào đêm tối. Đã qua năm canh vậy mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu thương nhớ chồng.
Tác giả đã so sánh “khắc giờ” như “niên”. Có lẽ khi tâm trạng buồn thì một giờ mà như một năm, dài đằng đẵng khiến nỗi buồn, cô đơn ấy các thêm sâu đậm. Cùng với đó là từ láy “đằng đẵng” “dằng dặc” làm cho nỗi đau cứ triền miên không dứt. Ở đây ta thấy được sự tinh tế của tác giả khi lấy động tả tĩnh. Nhờ đó làm nổi bật lên không gian, thời gian. Để quên đi nỗi buồn trước mắt, người chinh phụ tìm đến những thú vui tao nhã:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,Gương gượng soi lệ lại châu chan.Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”
Muốn quên đi nỗi buồn, nỗi cô đơn nàng tìm đến tô son điểm phấn, gảy đàn. Ấy thế nhưng những thú vui tao nhã mà nàng tìm đến lại càng khiến nàng chìm đắm vào nỗi sầu miên man. Khi đốt hương, mùi hương mê mải ấy lại khiến nàng rơi vào sự mơ màng làm nỗi sầu càng dân cao. Khi soi gương điểm phấn tô son, nàng lại xót xa hơn cho phận mình, nàng chợt nhận ra nhan sắc của mình đang dần phai mòn theo năm tháng.
Không có chồng ở bên cạnh chia sẻ, những ngày xuân chẳng còn nhiều. Khi đánh đàn lại khiến nàng nhớ lại những chuyện ngày xưa khi chồng còn kề cạnh. Thế nên nàng sợ “dây uyên đứt”, sợ “phím loan chùng” – những nỗi sợ cứ thế bủa vây quanh nàng.
Tìm đến những thú vui để quên đi nỗi buồn, nhưng hành động lại “gượng” thể hiện sự miễn cưỡng. Dường như chỉ vì quá cô đơn mà nàng mới gắng gượng để làm. Nhưng lúc này dù thú vui nào thì cũng chẳng làm nàng vui. Bởi vì ngay lúc này bao trùm tâm trạng nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến. Điều mà người chinh phụ mong mỏi ngay lúc này chính là nghe được một lời động viên từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều im lặng, chẳng có tin tức.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng nhiều điệp từ, hình ảnh so sánh, tác giả đã vẽ ra tâm trạng rối bời của người chinh phụ. Sự cô đơn, lẻ loi của nàng được thể hiện rõ nét. Hình ảnh của người chinh phụ chính là hình ảnh đại diện cho một lớp người trong thời kỳ này. Nó lột trần tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Người phụ nữ phải hy sinh tuổi xuân, sống trong sự cô đơn, tuổi khổ để chờ chồng mặc dù chẳng biết bao giờ mới là lúc đoàn viên.
Chỉ với 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ta thấy được những nỗi cô đơn của người phụ nữ khi có chồng đi chinh chiến. Đó là nỗi cô đơn kéo dài triền miên theo không gian và thời gian. Nỗi cô đơn ấy chẳng có điều gì có thể xoa dịu bớt được. Có chăng chỉ là sự hy vọng ở người phụ nữ làm cho họ trở nên mạnh mẽ hơn. Qua đây ta cũng thấy được sự tài hoa của Đặng Trần Côn khi chạm đến trái tim người đọc bằng những ngôn từ cảm xúc.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 🌹 10 Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Phân Tích 16 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Mở Rộng – Mẫu 8
Tham khảo bài văn phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi mở rộng dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn, Chinh Phụ Ngâm đã mau chóng đi vào lòng mọi tầng lớp quần chúng. Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho đến nay, Chinh Phụ Ngâm luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản phẩm đáng tự hào của xứ sở vốn “nổi tiếng thi thư”.
Trong đó, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng – Đoàn, với nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận mà không rõ tin tức:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcNgồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Như trong Kiều, Nguyễn Du đã từng để Kiều nói câu ‘phận gái chữ tòng’, hay như trong Tân Hôn Biệt có câu ‘Thệ dục tùy quân khứ’, đã là phận vợ, dù đến chân trời góc bể cũng muốn theo chồng. Nhưng ‘Hình thế phản thương hoàng’, mà ‘Phụ nhân tại quân trung/ Binh khí khủng bất dương’, người vợ có chồng đi lính lại chỉ có thể ở lại nhà. Có chồng, nàng pha trà cùng quân đối ẩm, nhưng quân nay đi rồi, nàng đành ‘dạo hiên’.
Nàng đếm từng bước chân, tựa như đếm từng ngày chồng đi, đếm từng ngày nỗi nhớ thương đong đầy trong cách trở. ‘Có khoảng không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ’(trích ở hai đầu nỗi nhớ) Hết dạo hiên, nàng lại kéo rèm. Kéo rèm xuống, nàng như nhác thấy bóng chồng khuất đi, vội kéo rèm lên, hóa ra chỉ là tình cảm và ánh nước trong mắt lùa dối nàng. Nhưng khi nàng hạ rèm xuống, nàng lại vẫn thấy mọi chuyện diễn ra như cũ, và rồi nàng cứ vô thức lặp đi lặp lại một hành động ấy… Người đời hận:
Quân sinh ta chưa sinhTa sinh quân đã lãoQuân hận ta sinh trìTa hận quân sinh tảo
Nhưng có lẽ chỉ những người có duyên có phận lại chẳng được gần nhau như thế mới biết được nỗi sợ của việc không được cùng kẻ kết duyên ‘thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền”. Hiên vắng không phải vì không có người, mà vì người quan trọng nhất không ở bên nàng.
Ngoài rèm thước chẳng mách tinTrong rèm dường đã có đèn biết chăngĐèn có biết giường bằng chẳng biếtLòng thiếp riêng bi thiết mà thôiBuồn rầu nói chẳng nên lờiHoa đèn kia với bóng người khá thương.Gà eo óc gáy sương năm trốngHòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘gia thư để vạn kim’, họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận? Người vợ nghe tin thắng trận cũng lo sợ, mà nghe tin thua trận cũng lo sợ, vì ‘Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?’. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chờ đợi trong lo sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng, sự bi thiết đến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. Đến cả loài chim – loài có đôi cánh, có thể dang rộng bay khắp thiên hạ, cũng chẳng biết tin, há một người phòng khuê như nàng lại có thể biết tin?
Dù cho ‘Hoàng điểu tọa tương bi’, ‘Biệt li chim cũng vì người xót xa’, nhưng nàng vẫn chẳng có người đồng cảm, tựa như Bá Nha mất đi Tử Kì, Trang Tử mất đi Huệ Thi. ‘Lệ rơi khêu ngọn đèn’, nàng chong đèn suốt đêm, không ngủ được mà cũng chẳng dám ngủ – có lẽ chồng nàng sẽ về, và nàng không muốn chậm trễ đón chàng. Nhưng gà gáy canh năm, trời sáng rồi, mà bóng chàng vẫn cứ biệt tăm. ‘Cành liễu ai người vin?’, chỉ có hòe phất phơ in bóng lên tường khi mặt trời của ngày mới đến.
Ai bảo mặt trời là hi vọng, ai bảo ánh sáng là nguồn sống? Nàng chỉ biết, một ngày đã lại qua, số ngày chia cách lại tăng thêm một, nỗi nhớ trong nàng lại dâng đầy, lo sợ cũng như nước lũ mà phá ra.
Kinh Thi có câu ‘Nhất nhật bất kiến như tam thu hề’, Nguyễn Du gói gọn lại thành ‘Ba thu dọn lại một ngày dài ghê’, đối với người chinh phụ, ‘khắc giờ’ thì ‘đằng đẵng như niên’, mà ‘mối sầu’ thì ‘dằng dặc tựa miền biển xa’. Hay cho một câu cảnh còn người mất! Mùi hương vẫn còn đó, vấn vít giống như ngày chàng còn tại ‘Hương diệc cánh bất diệc’, nhưng chỉ tiếc ‘Nhân diệc cánh bất lai’.
Gương đồng vẫn sáng, nàng vẫn soi gương, điểm trang mỗi ngày, nhưng chỉ là ‘gượng’. Chồng đi lính nàng không còn tâm trí nào nghĩ tới bản thân nữa. Nhớ chồng, giọt nước mắt rơi lúc nào không hay. Nỗi nhớ luôn đau đáu trong lòng nàng. lệ lại châu chan, nàng đã khóc biết bao ngày. Nàng đánh đàn, nhưng tiếng đàn đứt đoạn, bởi nàng lo dây uyên sẽ đứt, phím loan sẽ chùng, gợi nên sự không may mắn cho đôi lứa yêu nhau:
“Khắc giờ đằng đẵng như niênMối sầu dằng dặc tựa miền biển xaHương gượng đốt hồn đà mê mảiGương gượng soi lệ lại châu chanSắt cầm gượng gảy ngón đànDây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. ”
Mười sáu câu đầu là phần điệp khúc bằng tiếng tỳ bà chậm rãi, day dứt – bởi sự khắc khoải trong nỗi nhớ, bởi sự triền miên và vô tận – tiếng đàn ngân mãi, tựa như tiếng khóc kiềm nén của người chinh phụ trong màn đêm. Ấy không chỉ là màn đêm của bóng tối – mà còn là màn đêm của những lo lắng, sợ hãi; là màn đêm của những cô đơn, lẻ loi bị che khuất dưới ánh mặt trời ban ngày.
Qua thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phục lứa đôi. Đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ. Cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích 12 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi 💧 8 Bài Văn Hay
Phân Tích Bài Chinh Phụ Ngâm 16 Câu Đầu Đặc Sắc – Mẫu 9
Bài văn mẫu phân tích bài chinh phụ ngâm 16 câu đầu đặc sắc dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý hay khi nghị luận về đoạn trích Tình cảnh lẻ loi.
Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến cũng như ngợi ca những khát khao niềm hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân đã gửi gắm tâm sự, nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa, mà viết Khuê oán.
Thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn cảm thông thâm thúy trước số phận những người dân phụ nữ có chồng đi lính mà làm ra tuyệt tác Chinh phụ ngâm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ ước mơ niềm hạnh phúc đoàn tụ.
Chinh phụ ngâm ra đời vào tầm khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, trào lưu khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, không hẹn ngày tái ngộ. Số phận và thảm kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn.
Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ông có 476 câu thơ, tuân theo thể trường đoản cú. Khi Đoàn Thị Điểm dịch sang chữ Nôm đã chuyển tác phẩm về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc bản địa góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính.
Sở dĩ Hồng Hà nữ sĩ trung thành với chủ với nguyên tác và có nhiều sáng tạo trong quá trình dịch bởi dịch giả đã ở cùng một hoàn cảnh với nhân vật trữ tình: sau lúc cưới không lâu, chồng bà là Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung Quốc, chính vì thế, bà thấu hiểu cảnh sống cô đơn, tẻ nhạt với những buồn lo, nhung nhớ của người chinh phụ.
16 câu đầu trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chống đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày quay trở về. Sau thời điểm tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Người chinh phụ rải bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước tiến mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những bước tiến lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước tiến người cung nữ trong Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”.
Trong những buổi đi dạo của nàng không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự việc ngán ngẩm, buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Nàng Kiều đi tìm tình quân trong thú vui sướng, niềm hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho việc an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi.
Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi tái diễn trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Thẩm mỹ và làm đẹp sử dụng từ ngữ “vắng”, “thưa” vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương yêu, càng tô đậm sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn của nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà còn trông ngóng tin chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi không an tâm, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trở bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ thì sẽ càng hụt hẫng, tuyệt vọng.
Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Vướng mắc tu từ và điệp từ “rèm” tái diễn ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, niềm hạnh phúc không còn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm thế nào!
Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn:
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?Đèn có biết dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.Rầu rĩ nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư…
Hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với những người mình yêu. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính.
Nhưng đến Chinh phụ ngâm, ý nghĩa biểu tượng của ánh đèn dầu không chỉ tạm dừng ở đó. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ như đang muốn nói: cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khôn cùng.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “rầu rĩ”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là sự việc bi thương, thảm thiết. Từ “thiết” theo nghĩa Hán Việt còn tồn tại nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu.
Nhưng trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự. Nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi ca tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ trong miêu tả tâm trạng của tác giả!
Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”
Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trông ngóng người chinh phụ, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, rầu rĩ. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với việc tĩnh lặng, trầm lắng trong tâm nàng.
Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng trống không gian mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Thẩm mỹ và làm đẹp lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn.
Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ” cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng vía mập mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như không. Từ láy gợi hình “phất phơ” càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi.
Hình ảnh cây hòe trong câu thơ trên gợi nhắc về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của Nguyễn Trãi đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ, khác hẳn với vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong khúc ngâm của Đặng Trần Côn. Từ đó ta thấy nghệ thuật và thẩm mỹ dùng từ của tác giả, từ tính từ “phất phơ” đến động từ “rủ”, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ.
Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về thảm kịch đời mình:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”.
Từ láy “đằng đẵng” kéo dãn dài thời gian, kéo dãn dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. Nàng giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương nhớ Thúy Kiều: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!”
Trong những ngày tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân gia đình dang dở, về cuộc đời không được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người chinh phụ càng triền miên, không có kết quả cuối cùng.
Tác giả đã so sánh tâm tư của nàng với hình ảnh ước lệ “miền biển xa”, những lo lắng, buồn thương, đau xót của người chinh phụ vượt ra ngoài giới hạn về không gian và thời gian. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đoàn Thị Điểm không chỉ trung thành với chủ với nguyên tác mà còn tồn tại những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp người đọc đơn giản và giản dị hiểu, đơn giản và giản dị đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ chán ghét thời gian trôi chậm chạp, cố vùng thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dẳng:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mảiGương gượng soi lệ lại châu chan.Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại không kìm lấy được lòng mà mê man trong quá khứ. Trong đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho thời khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước trăm năm.
Người chinh phụ cũng bổi hổi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những tháng ngày niềm hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía thảm kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn nồng xưa kia không thể lấy lại được.
Có thể thấy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?”.
Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong gương kia. Nàng thương hai con mắt buồn chứa chan u sầu, nàng thương đôi môi chẳng thể nở một nụ cười nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này.
Khi cảm thấy việc đốt hương hay soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm về tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân gia đình hiện nay đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín.
Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng nỗ lực gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc kia giờ đây lại không thể đem lại cho nàng thú vui. Hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong tâm nàng. Nàng chỉ muốn được sum vầy mà thôi, những buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.
Góp phần truyền tải nội dung và giá trị nhân đạo của Chinh phụ ngâm là tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ và sáng tạo tài tình của tác giả và dịch giả. Xuyên thấu mười sáu câu thơ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là các biện pháp nghệ thuật và thẩm mỹ như điệp ngữ, thắc mắc tu từ, ẩn dụ,… và các văn pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình.
Chinh phụ ngâm cũng như đoạn trích sẽ thấy tác giả có sự chọn lọc tinh tế các từ ngữ gợi hình, gợi cảm để miêu tả rõ ràng và cụ thể và chân thực, cảm động từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thêm vào đó, thể thơ song thất lục bát với âm điệu réo rắt, thiết tha, giàu tính nhạc cũng góp phần quan trọng thể hiện nội tâm người chinh phụ. Sát gần đó, Đoàn Thị Điểm rất trung thành với chủ với nguyên tắc khi dịch nên nhiều ý thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một cách trọn vẹn.
16 câu đầu trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã để lại trong tâm người đọc nhiều dư âm thâm thúy về nỗi buồn đau, thương nhớ da diết, tình cảnh cô độc, lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi lính. Thông qua đó, người đọc hiểu những tâm tư tình cảm và suy nghĩ của tác giả về con người, xã hội đương thời. Ông lên án cơ chế phong kiến mục nát với những trận đấu tranh phi nghĩa kéo dãn dài và ngợi ca tình yêu cao đẹp, khát khao yêu thương đôi lứa.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Cảm Nhận Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu Đầu ☀️ Tuyển Tập Đặc Sắc
Phân Tích 16 Câu Thơ Đầu Bài Chinh Phụ Ngâm Ngắn Hay – Mẫu 10
Đón đọc gợi ý phân tích 16 câu thơ đầu bài chinh phụ ngâm ngắn hay dưới đây để linh hoạt vận dụng cho bài viết phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của mình.
Đặng Trần Côn là một tác giả văn học nổi tiếng sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động nên của đất nước khi mà chiến tranh đã làm chia cắt bao gia đình. Có biết bao nhiêu cặp vợ chồng vừa xây dựng hạnh phúc lứa đôi đã phải chia tay để chồng đi chinh chiến phương xa. Từ sự cảm thương với số phận con người trong thời chiến, ông đã viết nên tác phẩm “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là một trong những đoạn trích tiêu biểu nói về tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người vợ trẻ khi chồng ra trận vắng nhà.
Ngay từ tám câu thơ đầu, tác giả đã mở ra một tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.Buồn rầu nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Nỗi cô đơn của người chinh phụ đã được thể hiện trước hết qua hành động một mình nàng dạo hiên vắng. Buông rèm rồi lại cuốn rèm không biết bao nhiêu lần. Hành động này thể hiện sự bối rối, tâm trạng thất thần nhớ nhung khiến cho người phụ nữ còn không thể kiểm soát được hành động của mình. Đó là tâm trạng chờ đợi mong ngóng, tin tức người chồng phương xa. Nỗi buồn nỗi cô đơn của người chinh phụ còn được diễn tả qua sự đối bóng của người với ngọn đèn khuya.
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Hai câu thơ được tác giả viết hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bế tắc của người chinh phụ. Nàng hỏi đèn để mong muốn tìm được một sự đồng cảm, sẻ chia, nhưng rồi tự trả lời rằng đèn không biết. Hình ảnh ngọn đèn cùng với nỗi lòng của người chinh phụ như càng góp phần khẳng định nỗi buồn triền miên, cô đơn, không ai chia sẻ.
Đoạn thơ 8 câu cuối có sự chuyển đổi tinh tế để phù hợp với diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Từ những lời tự sự miêu tả nội tâm, đến đoạn thơ này có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ của tác giả.
Gà eo óc gáy sương năm trống,Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.Khắc giờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Đoạn thơ này, tác giả chủ yếu sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tức là dùng ngoại cảnh để miêu tả tâm trạng nhân vật, dùng cái chủ quan để miêu tả cái khách quan. Vì thế, trong bài thời gian vật lí đã biến thành thời gian tâm lý. Tiếng “gà eo óc gáy” là âm thanh báo hiệu năm canh và bóng cây “hòe” tĩnh mịch trong đêm nhằm làm tăng ấn tượng vắng vẻ, cô đơn đáng sợ.
Trong tâm trạng chờ đợi mỏi mòn đó người chinh phụ thấy thời gian trôi qua một cách chậm chạp, một khắc một giờ mà giống như một năm. Và để giải tỏa nỗi niềm sầu muộn, người chinh phụ đã biết tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày: “soi gương, đốt hương, gãy đàn”. Nhưng tất cả chỉ làm trong sự gượng gạo, miễn cưỡng chán chường.
Thành công của đoạn trích này là ở khả năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tinh tế với bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của văn học trung đại và sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ… Chỉ với 16 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện được tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm được xem là tiếng kêu thương của người phụ nữ nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa.
Tiếp tục tham khảo 💕 Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 💕 10 Mẫu Siêu Hay
Bài Văn Phân Tích 16 Câu Đầu Của Tình Cảnh Lẻ Loi Đơn Giản – Mẫu 11
Tham khảo bài văn phân tích 16 câu đầu của Tình cảnh lẻ loi đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Được trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn, 16 câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện một cách chân thật và sâu sắc nỗi cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ ngóng trông, nhớ thương người chồng đi chinh chiến nơi xa. Không chỉ mang ý nghĩa lớn về giá trị văn chương, tác phẩm còn mang ý nghĩa nhân đạo lớn lao.
Sau khi tiễn chồng đi nơi biên ải xa xôi, người vợ trẻ mới trở về với cuộc sống hàng ngày – cuộc sống của sự lẻ bóng và cô đơn được khắc họa rõ nét qua 8 câu thơ đầu tiên:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcNgồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Chỉ qua 2 câu thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh một người chinh phụ với hành động đi đi lại lại ngoài hiên, rồi cuốn rèm lên lại hạ rèm xuống. Dường như các hành động được thực hiện trong vô thức, chứ người chinh phụ vốn chẳng màng để tâm đến. Những hành động lặp đi lặp lại ấy phải chăng cũng để giết thời gian, chất chứa đầy nỗi lòng của người phụ nữ. Nỗi cô đơn cứ bủa vây xung quanh khi nàng phải sống một mình trong ngôi nhà đó.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tinTrong rèm, dường đã có đèn biết chăng”
Câu thơ này có sự xuất hiện của hình ảnh chim ô thước – loài chim may mắn luôn báo tin vui. Thế nhưng “chẳng mách tin” – chim ô thước không báo tin vui về làm người vợ trẻ lo lắng ngày đêm cho người chồng nơi sa trường, trận mạc. Nỗi day dứt trong lòng người chinh phụ càng được tô đậm với câu hỏi tu từ “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng”.
“Buồn rầu nói chẳng nên lờiHoa đèn kia với bóng người khá thương”
Ngọn đèn là hình ảnh chỉ thời gian đêm khuya – người chinh phụ vẫn thức đợi và ngóng trông. Sự cô đơn lên đến đỉnh điểm khi không ai sẻ chia. Hoa đèn – bóng người cho thấy người chinh phụ trằn trọc nhớ chồng đến mức không còn chút sức sống nào. Tâm trạng cũng vì thế mà buồn sầu, nhớ nhung nhưng tất cả chỉ trong vô vọng.
“Gà eo óc gáy sương năm trốngHòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Tác giả tả cảnh nhưng thực chất để ngụ tình. Cảnh vật xuất hiện nhưng cũng chỉ để khắc họa rõ nét hơn, lột tả sâu sắc hơn tình cảnh của người chinh phụ mà thôi. Đúng như Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Tâm trạng não nề của người chinh phụ đã nhuốm màu lên cảnh vật khiến cảnh vật và sự sống đều trở nên trống trải, hoang vắng và buồn bã tột cùng.
Tiếng gà gáy vang vọng – dường như cả đêm khuya thanh vắng người chinh phụ chẳng thể ngủ được vì nỗi nhớ chồng. Tiếng gà ấy khắc khoải như khoan sâu thêm vào tâm trạng người phụ nữ đang đau đáu nhớ chồng. Cây hòe dường như cũng chẳng còn sức sống, chỉ phất phơ bên thềm. Nỗi nhớ, nỗi buồn ấy cứ đầy lên theo thời gian, cứ chồng chất lên theo thời gian và kéo dài ra đằng đẵng.
“Khắc giờ đằng đẵng như niênMối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Một giờ xa cách như một năm, cứ trải qua từng khắc từng giờ, nỗi nhớ trong lòng người chinh phụ lại càng được nối dài dằng dặc như biển xa. Liệu có ai có thể thấu hiểu nỗi lòng ấy cho người chinh phụ hay không? Nỗi buồn ấy chẳng có điểm dừng, chẳng có hồi kết khiến tâm trạng của người chinh phụ bị đẩy lên tột cùng:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mảiGương gượng soi lệ lại châu chanSắt cầm gượng gảy ngón đànDây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”
Sự rối bời và cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ khiến nàng làm bất cứ thứ gì cũng chỉ là sự gượng gạo và miễn cưỡng mà thôi. Nàng miễn cưỡng đốt hương mong thấy sự tỉnh táo thì tâm hồn lại mê man trong nỗi nhớ. Nàng miễn cưỡng soi gương để chải chuốt dung nhan lại nhìn thấy mình u sầu với lệ chan nhạt nhòa phản chiếu.
Nàng định đánh đàn để giải khuây, để vơi bớt đi nỗi buồn, nỗi nhớ đang giăng kín trong lòng mình lại càng thêm sầu khổ bởi “dây uyên”, “phím loan” là đại diện của lứa đôi hạnh phúc khác hoàn toàn với thực tại nàng đang trải qua. Tất cả như đang cuộn xoáy trong lòng nàng, chất chứa thêm chẳng thể vơi bớt, chẳng thể giải tỏa cùng ai.
Bằng thể thơ song thất lục bát với giọng thơ buồn bi thương kết hợp các biện pháp nghệ thuật tư từ tác giả Đặng Trần Côn đã lột tả trọn vẹn tỉnh cảnh lẻ loi, tâm trạng buồn khổ, nỗi nhớ mong day dứt của người chinh phụ ấy. Không chỉ dừng lại ở giá trị văn chương, thông qua tác phẩm này tác giả bày tỏ sự xót thương và đồng cảm sâu sắc với thân phận phụ nữ có chồng đi chinh chiến xa nhà đồng thời còn gián tiếp lên án chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh chia ly và thậm chí cảnh nước mất, nhà tan…
Trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” chỉ là diễn biến tâm trạng của người phụ nữ đợi chồng, chờ chồng chinh chiến nơi xa nhưng bằng tài năng và tấm lòng của mình, Đặng Trần Côn đã tái hiện thật đặc sắc, sâu đậm nỗi lòng ấy.
SCR.VN chia sẻ 🌼 Mở Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌼 20 Mẫu Đầy Đủ Nhất
Phân Tích 16 Câu Đầu Của Chinh Phụ Ngâm Lớp 10 – Mẫu 12
Bài văn mẫu phân tích 16 câu đầu của chinh phụ ngâm lớp 10 dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi.
Văn học thế kỉ XVIII là văn học của những tiếng nói cảm thương, cảm thông cho số phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngoài kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Tác phẩm là tiếng lòng thiết tha, thổn thức của người phụ nữ khi có chồng phải ra chiến trận. Tâm trạng của nhân vật được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Theo các cứ liệu lịch sử, vào đầu đời vua Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình phải cất quân ra trận, nhiều trai tráng phải từ giã gia đình, người thân ra trận. Có bao nhiêu những chàng trai lên đường thì có bấy nhiêu người phụ nữ, người vợ ở nhà trong nhớ thương, buồn tủi. Tác giả Đặng Trần Côn đồng cảm với nỗi niềm của người phụ nữ để nói lên nỗi lòng của họ.
Đoạn trích 16 câu đầu đã diễn tả tâm trạng của người chinh phụ khi phải xa chồng, thế giới tâm trạng đó được thể hiện qua rất nhiều cung bậc cảm xúc, tình cảm khác nhau.
Trước hết tâm trạng bồn chồn lo lắng, nhớ thương của nhân vật được thể hiện trong các hành động lặp đi lặp lại nhiều lần: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước. Bước chân chậm chạp, nặng trĩu tâm trạng, trong đó chất chứa biết bao nỗi niềm chán ngán của người chinh phụ. Bước chân này khác với bước chân của nàng Kiều khi tìm đến tình yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Người chinh phụ hết đứng lên lại ngồi xuống, tâm trạng nàng thấp thỏm, bất an bởi lo lắng cho sinh mệnh của chồng ở nơi chiến trường đầy nguy hiểm.
Tâm trạng bất an ấy còn thể hiện qua hành động: Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phe, nàng hết buông rèm xuống nàng lại cuốn rèm lên, dường như đó là hành động vô thức, nàng làm không chủ động làm mà trong vô thức thực hiện hành động để vơi bớt nỗi âu lo. Hết ngắm ra ngoài bức rèm để mong chờ tin tức tốt lành lại thẫn thờ quay vào đối diện với ngọn đèn đơn độc.
Trong nỗi bồn chồn ấy còn là cả nỗi nhớ, thao thức, mong ngóng chồng quay trở về. Trong văn học, ngọn đèn thường được sử dụng để nói về nỗi nhớ mong, thao thức, ta đã biết đến qua bài ca dao: Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt. Hay trong Chuyện người con gái Nam Xương, người vợ nhớ chồng nên đêm đêm chỉ bóng mình trên tường nói với con đó là bố. Hành động đó cũng thể hiện nỗi nhớ thương.
Đây là hình ảnh xuất hiện nhiều trong văn học, và trong tác phẩm người chinh phụ cũng lấy ngọn đèn để thể hiện nỗi nhớ thương. Trong căn phòng trống vắng, quạnh hiu, chỉ có cây đèn là người bạn để chia sẻ mỗi nỗi lòng với người chinh phụ. Vì vô tri vô giác nên chinh phụ rất đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”.
Nàng càng thấm thía hơn nỗi cô đơn cùng cực của chính mình. Để nhấn mạnh hơn nữa vào tình cảnh tội nghiệp của mình, hình ảnh Hoa đèn kia với bóng người khá thương, hoa đèn là tàn kết lại đầu sợi bấc đèn cháy đỏ như hoa đèn, là dấu hiệu khi dầu hao, bấc hỏng. Chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức rất nhiều đêm, triền miên, khắc khoải, mong nhớ về chồng. Không gian bên ngoài làm cho nỗi cô đơn của người chinh phụ được khắc họa rõ nét hơn, tiếng gà eo óc cho thấy âm thanh thê lương, khắc khoải.
Kết hợp với từ láy phất phơ cho thấy nhịp điệu buồn tẻ, chậm rãi, cho thấy tâm trạng ngao ngán của người chinh phụ. Hai hình ảnh tương hỗ để diễn tả sự thao thức triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn, lẽ loi. Từ đó người chinh phụ cảm nhận thấm thía nỗi cô đơn hơn bao giờ hết: Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa, thời gian trôi qua rất nặng nề, vô vị.
Cách đo đếm thời gian trong tâm trạng buồn chán cũng được Nguyễn Du nói đến: Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. Mối sầu trải dài mênh mông đến không cùng. Dùng biện pháp so sánh để diễn tả cụ thể tâm trạng của chinh phụ để thấy nỗi buồn mênh mông. Nỗi cô đơn bủa vây, người chinh phụ gắng gượng, tìm mọi cách để trốn chạy nỗi cô đơn. Nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn, nhưng hồn đà mê mải, người chinh phụ càng chìm đắm hơn trong nỗi phiền muộn.
Nàng lấy gương soi, để tìm thú vui trong việc chỉnh trang nhan sắc, nhưng khi soi gương lại phải đối mặt với sự cô đơn, lẻ loi, hơn nữa nàng lại nhận ra sự tàn phai của tuổi thanh xuân. Khiến nước mắt ngày càng chan chứa, nỗi đau khổ lại càng ngập đầy hơn, nàng thấm thía nỗi cô đơn, tuổi thanh xuân tàn phai trong cô đơn sầu muộn.
Nàng gượng đánh đàn nhưng khi chạm đến nàng lại tự ý thức về tình cảnh của mình, nàng thấy tủi thân trước những biểu tượng đôi lứa, ẩn chứa trong các nhạc cụ : Đàn sắt, đàn cầm: gảy hòa âm với nhau được ví cảnh vợ chồng hòa thuận. Dây uyên: dây đàn uyên ương – biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp. Phím đàn loan phượng – biểu tượng của lứa đôi gắn bó. Tất cả các nhạc cụ để có đôi có lứa, chỉ có mình mình cô đơn, lẻ bóng.
Thậm chí nỗi cô đơn đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi chơi đàn dây sẽ bị đứt, phím đàn bị chùng, đó là những biểu hiện không may mắn của đôi lứa. Nàng tìm đến những nhạc cụ nhưng lại không chạy trốn được nỗi cô đơn. Chinh phụ cố gắng tìm quên bằng cách tìm đến những thú vui những càng tìm quên lại càng đối diện với bi kịch của mình, càng đau khổ hơn bao giờ hết.
Nàng tìm đến thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại cho thấy khoảng cách vời vợi giữa nàng và chồng. Non Yên – nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi, khoảng cách xa vời khôn thấu. Nàng tìm cách để vượt qua khoảng cách, gửi lại tất cả những nhớ nhung cho chồng bằng ngọn gió đông, nhưng đây chỉ là giải pháp tưởng tượng, không thể thực hiện. Nàng lại phải đối mặt với thực tại, thấm thía với bi kịch của mình: cảnh xung quanh hiện hữu trước mắt, sương khuya lạnh lẽo, tiếng trùng rả rích trong đêm.
Cảnh tượng thê lương, ảm đạm, đang bủa vây lấy người chinh phụ, nàng sống trong đau đớn, nhớ thương. Đoạn trích đã cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình. Tâm lí người chinh phụ được miêu tả ở nhiều cung bậc khác nhau thông qua hành động và ngoại cảnh. Thể thơ song thất lục bát cùng hệ thống từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm đã diễn tả thế giới nội tâm phong phú của nhân vật.
Qua trích đoạn, Đặng Trần Côn đã diễn tả thành công những cung bậc, sắc thái khác nhau của người chinh phụ, nỗi cô đơn, buồn thương. Qua đó diễn tả khát khao hạnh phúc lứa đôi, đây là nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của ông. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã chia lìa hạnh phúc lứa đôi.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Tựa Trích Diễm Thi Tập 🔥 8 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích 16 Câu Đầu Chinh Phụ Ngâm Facebook – Mẫu 13
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích 16 câu đầu chinh phụ ngâm Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
“Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những kiệt tác của danh sĩ, nhà thơ Đặng Trần Côn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, được mọi người biết đến qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bộc lộ rõ tâm trạng u buồn, nhớ nhung của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi, vì chồng phải tham gia vào trận đánh chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo và sự lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến con người phải chia cắt.
Trong 16 câu thơ đầu tiên, tác giả thể hiện nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi, cảm giác về thời gian chờ đợi, cố tìm cách giải khuây mà không được. Đến 11 câu thơ tiếp theo, thi nhân đã họa lại nỗi nhớ thương chồng ở phương xa của người chinh phụ khiến lòng nàng càng thêm ảm đạm. Trong những câu thơ còn lại, cảnh vật xung quanh càng khiến lòng người chinh phụ thêm rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.
Những câu thơ đầu tiên chất chứa tâm trạng nhớ nhung, sầu muộn của người phụ nữ:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.Ngoài rèm thước chẳng mách tin,Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?Đèn có biết dường bằng chẳng biết,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.Buồn rầu nói chẳng nên lời,Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Chúng ta thấy người chinh phụ khắc khoải chờ mong chồng dẫu ngày hay đêm. Nằm trong phòng, nàng hết buông rèm xuống lại cuốn rèm lên. Tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả từng động tác, cử chỉ, hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần của người chinh phụ. Những hành động ấy không xuất phát từ bất kỳ mục đích gì, tất cả đều là những động tác vô thức, không chủ đích, không ý nghĩa, cốt chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nàng.
Người chinh phụ mong mỏi có được sự đồng cảm, nhưng thực tại lại càng thất vọng: “chim thước” chẳng chịu mách tin, “đèn” không hiểu được tâm sự của mình. Câu hỏi tu từ được sử dụng “đèn biết chăng?”, “đèn chẳng biết” phải chăng là lời thở than, thể hiện nỗi khắc khoải trong đợi chờ vô vọng, day dứt mãi khôn nguôi.
Tâm trạng của nhân vật đã chuyển giọng kể tự nhiên, từ lời kể bên ngoài thành lời độc thoại nội tâm da diết, dằn vặt, ngậm ngùi. Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với cái bóng trên tường của chính mình gợi cho người đọc nhớ đến hình ảnh đèn không tắt trong bài ca dao vốn rất quen thuộc:
“Đèn thương nhớ aiMà đèn không tắt?Mắt thương nhớ aiMắt ngủ không yên?”
Nhận thấy trong tám câu thơ tiếp theo, người chinh phụ đã mượn cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm trạng của mình, dùng cái khách quan để miêu tả sự chủ quan:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.Khắc giờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.Hương gượng đốt hồn đà mê mải,Gương gượng soi lệ lại châu chan.Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
Âm thanh “tiếng gà eo óc” báo hiệu canh năm, đồng thời như sự minh chứng rằng người vợ xa chồng đã thức suốt đêm dài. Hình ảnh “bóng hòe” ngoài sân, hết ngắn rồi dài, rủ xuống mặt đất, càng khiến không gian thêm ảm đạm, ngột ngạt. Thời gian của xa cách, nhớ thương cùng với tâm trạng da diết khôn nguôi. Cụm từ “gượng” được tác giả diễn tả cách đặc biệt, đi liền với các động từ “gảy”, “soi”, đốt” cùng những đồ vật “đàn”, “hương”, “gương”.
Tất cả đều cho thấy, những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm hằng ngày của người phụ nữ, giờ đây vắng chồng, vắng niềm hạnh phúc, tiếng cười, bỗng được tiến hành một cách gượng ép. Đốt hương mà tâm hồn lại chìm đắm vào nỗi sầu tủi miên man. Soi gương lại không cầm được những giọt nước mắt không ngừng rơi vì tủi hổ. Đàn đứt dây, chùng lại, nào có thoát khỏi bể trời đơn côi?
Chúng ta thấy rằng chỉ vỏn vẹn 16 câu thơ đầu tiên, tác giả đã thể hiện rõ nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi. Nàng cảm giác về thời gian trong đợi chờ, cố tìm cách giải khuây mà không được. Tác giả đã rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng phong phú, tinh vi, sâu kín trong tình cảm của người phụ nữ, càng thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo dành cho người chinh phụ trong hoàn cảnh đơn côi, lẻ loi.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Độc Tiểu Thanh Ký 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Từ khóa » Thuyết Minh 16 Câu đầu Tình Cảnh Lẻ Loi
-
Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu đầu (8 Mẫu) - Văn 10
-
Phân Tích 16 Câu đầu Bài Thơ Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
-
Thuyết Minh 16 Câu đầu Trong đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người ...
-
Phân Tích 16 Câu đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
-
Phân Tích 16 Câu đầu Chinh Phụ Ngâm | Văn Mẫu 10 Hay Nhất
-
Phân Tích 16 Câu đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Học Sinh Giỏi - Toploigiai
-
Cảm Nhận Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu Đầu ...
-
Phân Tích 16 Câu Thơ đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
-
Thuyết Minh Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ- Bài Văn Mẫu Hay 10
-
#1 Phân Tích 16 CÂU ĐẦU Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ ...
-
Phân Tích 16 CÂU ĐẦU Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
-
Top 7 Bài Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Hay Chọn Lọc
-
Anh/chị Hãy Phân Tích 16 Câu đầu đoạn Trích "Tình Cảnh Lẻ Loi Của ...
-
Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ ...