Phân Tích Bài Thơ Đề đền Sầm Nghi Đống Của Hồ Xuân Hương

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân HươngPhân tích Ngữ văn lớp 7 bài Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân HươngNâng cấp gói Pro để trải nghiệm website VnDoc.com KHÔNG quảng cáo, và tải file cực nhanh không chờ đợi. Mua ngay Từ 79.000đ Tìm hiểu thêm

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương bao gồm các bài văn mẫu hay giúp các em học sinh ôn tập, từ đó học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 7 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống

  • Phân tích bài Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương mẫu 1
  • Phân tích bài Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương mẫu 2
  • Phân tích bài Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương mẫu 3

Phân tích bài Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương mẫu 1

Phong tục viết đề thơ đã ghi dấu ấn sâu đậm trong văn hóa cổ xưa của Trung Quốc, đặc biệt là vào thời đại Đường. Đây không chỉ đơn thuần là một cách thể hiện tài năng nghệ thuật mà còn trở thành một hình thức thưởng thức thiên nhiên, tận hưởng cảnh đẹp của đền đài, thả hồn theo dòng nước thủy. Việc tạo ra các bài thơ này không chỉ đơn giản là ghi lại cảm xúc, mà còn là một cách để truyền đạt sự tôn trọng, lòng tôn kính và tinh thần kiên định của người viết. Ví dụ, trong trường hợp của Thôi Liệu và bài thơ “Hoàng Hạc Lâu”, việc sáng tác tại lầu Hoàng Hạc không chỉ đơn thuần là việc ghi lại không gian mà còn thể hiện sự kính trọng đối với tiên Lý Bạch.

Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ vượt thời đại của xa hội phong kiến, đã thể hiện sự phóng khoáng và sự yêu thích thám hiểm thông qua việc viết thơ. Điều này không phải là điều dễ dàng, đặc biệt đối với một phụ nữ trong thời kỳ đó. Việc viết thơ của bà không chỉ dựa vào sự nổi bật của địa điểm, mà còn là cách bày tỏ những tư tưởng, cảm xúc và quan điểm riêng của mình đối với nơi đó.

Sầm Nghi Đống, như một thái thú của Diễn Châu, Trung Quốc, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử qua việc tham gia vào cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Tuy sống trong thời đại khá khó khăn, nhưng ông vẫn phục vụ với trách nhiệm tại đồn Khương Thượng. Khi bị quân Tây Sơn đánh bại, sự hy sinh của ông đã thể hiện sự tôn trọng và lòng kiên định đến cuối cùng. Miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm cũng là một biểu tượng của sự tôn vinh và nhớ nhung sâu sắc của nhân dân hai nước.

Hồ Xuân Hương, khi đi qua ngôi đền, đã để lại dòng thơ tôn vinh sự kỳ diệu của nơi này. Nhưng không chỉ đơn thuần là sự ngưỡng mộ, bà còn thể hiện sự sâu sắc về văn hóa và lịch sử của địa điểm đó:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc hay người dân địa phương, đều được coi như thần thánh. Họ đến đây thắp hương, cúng bái, cầu vọng. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương lại có thái độ khác biệt. Bà chỉ nghiêng đầu một chút, đưa mắt nhìn, theo từ điển Tiếng Việt, hành động này chỉ đơn thuần là cách nhìn mà không chứa đựng ý nghĩa kính trọng. Việc nghiêng đầu nhìn ngang chứ không phải ngước lên cao đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược đã thất bại.

Ngôi đền Thái thú đứng vững trên một ngọn đồi cao, không dễ dàng để có thể nhìn ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương chủ đích chọn một góc độ nhìn coi thường đối với vị Thái thú tại nơi này. Từ “cheo leo” mô tả độ cao mà không có điểm bám vững chắc, dễ bị đổ sụp. Từ “kìa” mang theo ý nghĩa không tôn trọng, đi kèm với các động tác chỉ trỏ. Đối với các nơi linh thiêng, người viếng thăm không được phép nói lớn hoặc chỉ trỏ như đối với đồ vật.

Với hai câu thơ đó, Hồ Xuân Hương đã tước đi tính thiêng liêng, cung kính của ngôi đền đó. Bà không chỉ dừng lại ở việc nhìn ngang chỉ trỏ mà còn tự ví mình, so sánh bản thân với người được thờ.

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Ý nghĩa của việc thay đổi số phận và trở thành nam giới thể hiện sự mặc cảm của phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến, một tình huống được áp đặt lên tâm hồn của nhà thơ. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh nhu cầu thay đổi số phận và không chấp nhận sự nhượng bộ của bà. Cách bà tự nhận mình như là người đang cố gắng “trả thù” Sầm Nghi Đống, dù rằng bà chưa thực sự đạt được điều này, bà vẫn khinh thường nam giới trong gia tộc Sầm. Kết thúc bài thơ có thể khiến người đọc cảm thấy như Hồ Xuân Hương tự tin mình có thể vượt xa sự thành công của Sầm. Tuy nhiên, điều này thực ra chỉ là một cách trêu chọc, nhấn mạnh rằng “Sự nghiệp của ngươi cũng không nhiều lắm, chẳng đáng bao nhiêu với một người đàn ông thật sự!”

Bài thơ thể hiện sự khao khát của phụ nữ được đối xử công bằng và khao khát xây dựng một sự nghiệp vĩ đại như một người anh hùng. Thái độ “bất kính” của bà đối với nam giới và việc xem thường các “sự nghiệp anh hùng” của nam giới, thể hiện một thách thức đối với quan điểm trọng nam, khinh nữ, và đồng thời đối diện với các vị thần.

Bài thơ mạnh mẽ thể hiện nhu cầu giải phóng bản thân, không quan trọng những ràng buộc xã hội phong kiến có thể áp đặt.

Phân tích bài Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương mẫu 2

Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thánh nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người đẹp. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoạn, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi.

Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần tuý là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Cái ý nghĩa đổi phận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thế hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ sầm. Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: Sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!

Bài thơ là một khát vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ “bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các "sự nghiệp anh hùng" của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.

Phân tích bài Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương mẫu 3

Bài thơ nhắc người đọc nhớ đến một sự kiện lịch sử oanh liệt của dân tộc ta. Tết Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Xác giặc chất cao như núi tại gò Đống Đa. Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, tướng giặc Sầm Nghi Đống thất trận, khiếp đảm đã thắt cổ chết.

Mấy chục năm sau, Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền tên tướng giặc do Hoá Kiều dựng nên, tức cảnh làm bài thơ này. Bài thơ biểu lộ một thái độ khinh rẻ qua giọng thơ chế giễu đa nghĩa.

1. Hai câu đầu tả ngôi đền và cách nhìn của nữ sĩ. Hồ Xuân Hương nhân tiện đi qua, vô tình “trông ngang” mà chợt “thấy” ngôi đền của quan Thái thú. Bà mỉm cười và nghĩ: Một tướng giặc đi cướp nước người, thất trận (vô dũng, vô mưu) đã hèn hạ thắt cổ chết. “Trăm năm bia đá thì mòn. Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Bà ứng khẩu thành thơ: “Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo”.

“Ghé mắt trông ngang” là một cái nhìn bằng nửa con mắt, khinh rẻ. Ngôn từ và giọng điệu thơ bỡn cợt, khinh thị, sắc nhọn.

Nữ sĩ tả qua ngôi đền, tả thực bằng hai nét: Mặt tiền là cái “bảng treo”, thế đứng của ngôi đền rất “cheo leo”, không chút uy nghi, vững vàng, lại heo hút! Những đền đài tráng lệ thường treo đại tự, hoành phi sơn son thiếp vàng, nhưng đền Sầm Nghi Đống chỉ có cái “bảng treo”, tầm thường quá! Một nét vẽ châm biếm thần tình:

“Kìa đền Thái thú đứng cheo leo”

“Kìa” là đại từ để trỏ một vật từ xa. Trong văn cảnh từ “kìa” biểu cảm sự ngạc nhiên đến khó hiểu. Sầm Nghi Đống cầm quân bị đánh tơi tả, thắt cổ chết nhục nhã mà nay lại được lập đền thờ ư? Khó hiểu quá! Hài hước quá!

2. Nếu hai câu đầu nói lên một cách nhìn, một cách tả khinh rẻ, phủ định thì hai câu cuối nêu lên sự giả định – so sánh hết sức sâu sắc, thú vị. Nữ sĩ đã vận dụng cách nói mỉa, nói kháy của dân gian để chế giễu cái nhân cách tầm thường, đớn hèn của vị “hổ tướng” Thiên triều:

“Ví đây đổi phận làm trai được,

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

“Đây” là đại từ nhân xưng, chỉ dùng trong đối thoại suồng sã, thân mật giữa những người cùng vai phải lứa, ngang hàng. Đối thoại với quan Thái thú thần linh mà nữ sĩ xưng là “đây”, thế là xược, quá coi thường. Ngang tàng quá! Rồi nữ sĩ lại đem mình ra, một người đàn bà Giao Chỉ, so sánh với vị tướng Thiên triều về cái “sự anh hùng” mới lạ chứ? Hồ Xuân Hương không viết: “Sự nghiệp anh hùng” vì trang trọng quá, không hợp. “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”, câu thơ nhắc lại cái chết, hỏi về cái chết nhục nhã, hèn nhát của tên tướng giặc. Một câu hỏi tu từ rất “đắt”, xuất hiện đúng lúc, đặt đúng chỗ làm cho sự giễu cợt, hài hước nhân lên mười lần.

Bài thơ còn mang một hàm nghĩa sâu xa. Đánh giá nhân cách – sự anh hùng – của Sầm Nghi Đống, nữ sĩ muốn nói lên “tầm vóc” của nữ nhi phương Nam. Bà đã ý thức và tự hào về tài năng, phẩm hạnh của mình, của giới mình, bà đã chế giễu nhân cách tầm thường, cách xử sự tầm thường của những kẻ mày râu, những “trang nam nhi”, “bậc quân tử” bất tài vô hạnh trong xã hội.

“Đề đền Sầm Nghi Đống” là bài thơ tức cảnh độc đáo. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa cao độ, từ giọng điệu, ngôn từ đến ý thơ. Cách nhìn, cách tả, cách so sánh và suy nghĩ cho thấy một lối nói trào phúng, sắc nhọn. Bài thơ đa nghĩa, hóm hỉnh, sâu sắc. Hồ Xuân Hương đã đứng trên lập trường dân tộc để tức cảnh làm thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống”.

.....................

Ngoài tài liệu trên, mời các bạn tham khảo thêm Ngữ văn 7 - 3 sách mới và các đề thi học kì 1 lớp 7 trên VnDoc để học tốt Văn 7 hơn.

Từ khóa » Bài Thơ đền Sầm Nghi đống được Viết Theo Thể Thơ Nào