Phân Tích Các đặc Trưng Của Cơ Chế Kế Hoạch Hóa Tập Trung ... - 123doc
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ >>
- Luận Văn - Báo Cáo >>
- Kinh tế - Thương mại
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.81 KB, 17 trang )
Đề tài:quanPhân tích các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trungliêu, bao cấp .GVHD : Vũ Hải HàNhóm thực hiện : Nhóm 10• Phạm Thị Vân Anh531153• Nguyễn Thị Hằng541714• Bùi Thị Hạnh541710• Bùi Văn Hồng531181• Phan Thị Thu Hương541727• Trần Thị Mây541735• Đinh Thị Thanh541751• Hà Thị Thủy542939• Phú Thị Ngọc Tú541613Kết cấuPhần I : Phần mở đầu Phần II : Nội dung• Tìm hiểu về cơ chế• Đặc trưng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp• Hình thức bao cấp• Ưu nhược điểm• Nhu cầu đổi mới cơ chếPhần III : Kết luận•Phần mở đầuNăm 1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân tathănglợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Đất nước ta tạm thờibị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc nước ta hồn tồn được giảiphóng và tiến bước lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi hoànthành cải tạo xã hội chủ nghĩa, từ năm 1960 miền Bắc bắt đầu áp dụng cơchế kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến chốngMỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Cảnước bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội. Định hướngcủa Đảng và Nhà nước: xây dựng nền kinh tế theo mơ hình KHH tập trung.Cơ chế này có những ưu điểm thích hợp cho hồn cảnh hiện tại củađất nước lúc đó, nhưng cũng có nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển kinh tếcủa đất nước sau này. Vậy cơ chế đó như thế nào ? Có ưu nhược điểm gì ?Sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu. •Nội dung• Tìm hiểu về cơ chế•Khái niệmCơ chế có thể hiểu là hệ thống cùng với những quy tắc, phương thứcnhằm vận hành hệ thống đó.Cơ chế kinh tế là bản thân nền kinh tế cùng với các hình thức hoạtđộng của nền kinh tế đó dưới tác động của các quy luật kinh tế và quy luậtkhác.Cơ chế quản lý kinh tế là là toàn bộ hệ thống pháp quy, gồm nhữnghình thức,cách thức và phương tiện mà nhà nước sử dụng để quản lý và điềuhành nền kinh tế.• Loại hình cơ chếLịch sử phát triển kinh tế đã trải qua ba loại hình cơ chế kinh tế :•Cơ chế kế hoạch hóa tập trung ( bàn tay hữu hình ) : Được hiểu cơ chếtrong đó nền kinh tế vận động dưới sự kiểm soat của nhà nước về các yếu tốsản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế, không coi trọng các quy luật thị trường.Kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinhtế khác hầu như khơng được chú trọng.•Cơ chế thị trường ( bàn tay vơ hình ) : Sự vận động của nền kinh tế dướitác động của quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quyluật cạnh tranh. Nhà nước hầu như không can thiệp hoặc can thiệp rất ít vàonền kinh tế.•Cơ chế hỗn hợp : Nền kinh tế vừa có sự can thiệp của nhà nước vừa tuântheo quy luật thị trường. Đây là cơ chế hiện nay nước ta đang áp dụng.• Quy trình kế hoạch hóaQuy trình kế hoạch hóa thực hiện theo cơng thức” Một lên, haixuống”• Cái xuống thứ nhất: Bộ chính trị, Trung ương Đảng, Chính phủ giaocho ủy ban kế hoạch nhà nước tinh toán “ số liệu kiểm tra” rồi phânbổ chỉ tiêu cho các bộ, ngành, tỉnh. Sau đó, số liệu lại được chuyển xuống các cấp thấp hơn là các cục, vụ, xí nghiệp, cơng ty, xã,phường...• Cái lên: Mỗi cơ sở phải tự xây dựng kế hoạch của mình và trình lêncấp trên bằng cách cân đối giữa “ số liệu kiểm tra” được đưa xuốngvới số liệu điều tra tai cơ sở.• Cái xuống thứ 2: Kế hoạch cuối cùng được đưa ra sau khi cấp trênxem xét “ số liệu điều tra” và kế hoạch của cấp dưới. Kế hoạch nàyđược trở thành chỉ tiêu pháp lệnh và giao lại xuống dưới.Quy trình kế hoạch hóa này thường được bắt đầu thực hiện từ cuốinăm trước đến khoảng tháng 3 năm sau thì có các chỉ tiêu, pháp lệnh cụ thể.Tuy nhiên, cũng có khi xảy ra hiện tượng “ trễ” trong việc cân đối số liệugiữa các cấp và phải đến tháng 6 hoặc tháng 7 chỉ tiêu mới được đưa xuống.Khi đó, thời gian thực hiện kế hoạch sẽ ngắn hơn rât nhiều trong khi chỉ tiêuthường cao, gây khó khăn cho các cấp thực hiện.• Đặc trưng cơ chế• Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trênhệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt tư trên xuống dưới.Tính pháp lệnh thể hiện ở chỗ: Nhà nước xây dựng các chỉ tiêu mộtcách chủ quan, sau đó đưa xuống cho các doanh nghiệp, thậm chí cả hợp tácxã thưc hiện. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở của các quyết định củacơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cảphương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chứcnhà máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.Mọi sự thay đổi trong kế hoạch và tổ chức thực hiện đều phải báo cáo lên cơquan chủ quản, khi nào được chấp nhận mới được triển khai. Hệ thống chỉ tiêu thể hiện ở chỗ: sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu vàphân phối cho ai? Cấp phát vốn, vật tư doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộpsản phẩm cho nhà nước cũng đều nằm trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nướcgiao cho. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi đơn vị cấp dướivà doanh nghiệp nhà nước, kể cả hợp tác xã. Đầu vào của các doanh nghiệp– các yếu tố sản xuất do nhà nước cấp hoàn toàn. Do vậy toàn bộ sản phẩmlàm ra đều phải giao nộp lại cho nhà nước để nhà nước phân phối. Hợp tácxã cũng phải bán toàn bộ sản phẩm cho nhà nước với giá rất rẻ.Các doanh nghiệp chỉ quan tâm đên một vấn đề duy nhất đó là hồnthành chỉ tiêu, dù cho chỉ tiêu đó có phi lý đến đâu. Bởi vì, doanh nghiệpkhơng phải người định giá bán sản phẩm, không quan tâm đến cái gọi là lỗhay lãi. Chế độ tài chính của nhà nước thực hiện theo nguyên tắc thu đủ, chiđủ. Nghĩa là Nhà nước sẽ thu lợi nhuận khi có lãi, và ngược lại cũng sẽ phảibù khi bị lỗ. Và trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp này lỗthì nhiều mà lãi chẳng thấy đâu do khơng có sự gắn liền giữa quyền lợi vàtrách nhiệm của cấp thực hiện. Chỉ tiêu được ví như cái vịng kim cơ trên đầu các doanh nghiệp. Năm1979, công ty khai thác than ở Thái Nguyên được giao chỉ tiêu khai thác150.000 tấn than. Nhưng cơng ty khơng tìm được đầu ra. Sản phẩm chấtđống trong kho. Gần hết năm mà chỉ tiêu mới thực hiện được gần nửa. Lo sợảnh hưởng đến số phận chính trị của ban lãnh đạo, lương cán bộ công nhânviên và danh hiệu thi đua của đơn vị. Cả công ty ra sức khai thác để đạt bằngđược chỉ tiêu. Nhưng kho chứa có giới hạn nên ngồi việc mất cơng khaithác cơng ty cịn mất cơng đổ than đi, đổ bất cứ đâu. Sự việc cuối cùng đếntai cấp trên, Giám đốc công ty bị khiển trách. Thế nhưng cuối năm cơng tyvẫn có bằng khen vì đã hồn thành chỉ tiêu.• Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinhdoanh của các doanh nghiệpCan thiệp từ khâu cấp phát vốn, sản xuất đến khâu phân phối sảnphẩm nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với cácquyết định của mình. Những thiệt hại về vật chất do các quyết định khơng đúng gây ra thìngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp khơng có quyền tựchủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kếtquả sản xuất, kinh doanh.Giữa cơ quan hành chính- trực tiếp tham gia vào quá trình lên chỉ tiêukế hoạch và các doanh nghiệp- thưc hiện chỉ tiêu , thì lại khơng có bất kỳ sựràng buộc pháp lý nào với hành động của mình tức là dù có làm sai đi chăngnữa thì họ cũng khơng có vấn đề gì cả vì vậy mà khơng có lý do nào khiếnhọ thực hiện kế hoạch một cách tối ưu nhất. Mà vấn đề cả hai bên quan tâmđó là chạy theo và chạy đua với với chỉ tiêu được ấn từ trên xuống, làm thếnào cho thật đẹp sổ sách báo cáo, và cuối cùng là nhận được tấm bằng khenvì đã hồn thành xuất sắc chỉ tiêu đề ra. Khi mà chỉ tiêu khơng được hồnthành đồng nghĩa với việc số phận chính trị của ban lãnh đạo doanh nghiệp,đồng lương của cán bộ công nhân viên, và thành tích của doanh nghiệp cũngbị đe dọa theo.Ở giai đoạn bao cấp chỉ coi trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tậpthể. Từ đó hạn chế sự phát triển và đóng góp vào nền kinh tế của các thành phần kinh tế khác. Ở giai đoạn này khơng có khái niệm cạnh tranh. Do đókhơng khuyến khích doanh nghiệp tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã,phát triển mặt hàng mới một cách thực sự.• Quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật làchủ yếu.Các công cụ như giá cả, lãi suất, tiền lương chỉ áp dụng để tính tốnmột cách hình thức. Vì vậy nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động,phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng, khơng được coi là hàng hóavề mặt pháp lý.Giá cả không phản ánh quan hệ cung cầu mà do Nhà nước đặt ra dùng đểtính tốn cho việc cấp phát và giao nộp giữa Nhà nước và doanh nghiệp .Tiền lương được quy định theo cấp bậc hành chính và thâm niên, tínhtheo chủ nghĩa bình qn chứ khơng phải là được tính theo hiệu quả laođộng của mỗi người. Các doanh nghiệp khi khơng có tiền trả lương chocơng nhân thì trả bằng sản phẩm. Đơn vị có cao su trả bằng cao su, xí nghiệpcó mũ cứng thì trả lương bằng mũ cứng, hay sản xuất sứ tích điện thì trảbằng sứ tích điện…Những lúc như vậy lĩnh lương xong cũng không biếtđem về để đâu, làm gì ?Tình trạng tranh mua, tranh bán làm cho giá của hàng hoá bị đẩy lêncao, Chi ngân sách nhà nước cho tiền lương tăng vọt, nhưng thu ngân sáchlại không tăng bao nhiêu do giá vật tư không tăng bằng mức Ban Chỉ đạo đềnghị. Lạm phát bùng nổ. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lươngcơng nhân khơng có. Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Giá bán lương thực dùtăng 10 lần vẫn không đủ bù đắp chi phí. Sản xuất nơng nghiệp sa sút. Đầutư trong công nghiệp giảm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986tăng 587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền mất giá, người ta quay sang lấyvàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt, cịn nhanh hơn cả tăng giá hànghóa. Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến cuộc sống chật vật khơng nhữngvề số lượng mà cả về phẩm chất của nhiều mặt hàng. • Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gianBộ máy quản lý này vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kémnăng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu, nhưng lại được hưởng quyền lợicao hơn người lao động. Hoạt động quản lý kém hiệu quả. Trong thực tế, bộmáy nhà nước và doanh nghiệp quốc doanh cịn xuất hiện tham ơ và lãng phí( tuy phạm vi và mức độ khác với ngày nay ).• Hình thức bao cấp• Bao cấp qua giáNhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơngiá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường. Do đó hạch tốn kinhtế chỉ là hình thức.Dưới thời bao cấp mua như cướp và bán như cho là cảnh thường thấy.Nhà nước quy định mỗi gia định được giữ 60% sản lượng lúa, số dư phảibán cho nhà nước. Sau đó phải khổ sở đi mua gạo theo chế độ tem phiếu.Nhất là giá bán thấp hơn tiền vốn bỏ ra nên mới có chuyện người dân tìmcách giấu lúa và nhiều chuyện dở khóc dở cười. Có chuyện người dân giấugạo cất đi, đến khi mở ra thì chuột đã ăn mất quá nửa, hay người nhà nướcđến đo bồ thóc để bắt bán ngay thóc thừa hay phạt vì khơng chịu nộp đủ.Năm 1978 giá thành 1m2 vải caliot sản xuất tại Công ty Dệt ThànhCông là 1.5 đồng, nhưng phải bán cho Nhà nước với giá 1.2đ/m2. 1m2 vảidệt kiểu oxford hết 10đ, phải bán cho Nhà nước với giá 9đ/m2. Trong khigiá trên thị trường cao gấp 10-12 lần. • Bao cấp qua chế độ tem phiếuNhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ,cơng nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếuvới mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thànhlương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡnguyên tắc phân phối theo lao động.Thời bao cấp, người dân tìm mọi cách chạy bằng được vào cơ quanNhà nước để được cấp sổ gạo. Mỗi lần đến kỳ đong gạo thì nhà nhà xếphàng, người người chen chúc. Ai không may mất sổ gạo trơng mới thảm hạilàm sao, bởi cả tháng đó phải chạy ngược chạy xuôi để lo tạm cấp, trước khilàm được sổ mới. Gạo mậu dịch cũng ngày một thiếu, rất nhiều nhu yếuphẩm khác cũng vậy. Thời bao cấp ai mua thứ gì cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửahàng mậu dịch quốc doanh. Nhà nước bán hàng dưới giá thành và thấp hơngiá chợ. Để mua được thì rất khó khăn vì hàng hóa khơng đủ để cung cấp.Các cửa hàng mậu dịch ln ở tình trạng thiếu hàng, mọi người xếp hàngchầu chực chờ hàng về để được mua đầu tiên.Nhiều khi khơng mua được hoặc có mua cũng là đồ không ngon,không chất lượng, hoặc là bị cân thiếu. Đồ chất lượng ở cửa hàng còn dànhcho cấp trên, người nhà, người quen, người trong cửa hàng mậu dịch. Bán aitrước, bán đúng cân hay thiếu cân, hàng nguyên chất hay đầu thừa đuôi thẹođều thuộc quyền cô mậu dịch. Thế nên mới có chuyện thời này tất cả cácmậu dịch viên nếu khơng giàu có cũng khơng khi nào túng thiếu. Lấy được mấy cơ này khác gì chuột sa chĩnh gạo. Nhà nào kiếm được cô dâu là mậudịch viên thật mừng hết lớn. Cả họ mừng chứ khơng riêng gì nhà đó mừng.• Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sáchTuy dùng vốn ngân sách nhưng khơng có cơ chế ràng buộc tráchnhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó làm tăng gánhnặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinhcơ chế “ xin- cho”.Người cho có thể cho ít, có thể cho nhiều và cũng có thể khơng cho.Bên xin thì phải phụ thuộc vào bên cho và khơng thể tự quyết, tự tìm ragiải pháp để đáp ứng nhu cầu của mình mà phải trơng chờ vào bên cho.Nhiều thủ tục hành chính rườm rà hành dân để thể hiện quyền lực nhà nước.Không dựa trên sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân trong xãhội trong việc tiếp cận những dịch vụ nhà nước cung cấp; không dựa trênnhững tiêu chí, biểu mẫu và quy trình cụ thể có thể theo dõi được để nhữngcá nhân, tổ chức xã hội có nhu cầu có thể đăng ký với cơ quan để thực hiệnquyền của mình. • Đánh giá về cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp.• Ưu điểmTrong thời kỳ kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựavào sự tăng đầu tư. khai thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một sólợi thế khác, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp có tácdụng nhất định. Nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế,phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục tiêu chủ yếutrong từng giai đoạn và điều kiện cụ thế, đặc biệt trong quá trình cơngnghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng. Cơ chếnày tạo sự thống nhất trong thực hiện các mục tiêu.Trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản lý kinhtế kế hoạch hóa tập trung đã đáp ứng được yêu cầu của thời chiến, bởi vì do đất nước bị xâm lược, mục tiêu của cả nước là giải phóng dântộc. Bởi vậy thực hiện kế hoạch hóa tập trung sẽ huy động được tối đasức lực của nhân dân xây dựng và phát triển kinh tế để thực hiện mụctiêu đó, đây là nhiệm vụ chung chứ không phải riêng ai. Nhà nướcthực hiện bao cấp hoàn toàn, giúp cho người chiến sĩ ra chiến trườngcũng yên tâm phục vụ chiến đấu hơn, bởi họ không phải lo nghĩ đếnchuyện gia đình, vợ con ở nhà, vì mọi thứ đã được nhà nước bao cấp.• Nhược điểmBên cạnh ưu điểm, cơ chế này có những hạn chế như thủ tiêu sự cạnhtranh, kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế, laođộng sáng tạo đối với người lao động , khơng kích thích tính năng động,sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.Cơ chế này hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kìmhãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, gây rối loạn trong phân phốilưu thông và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội như tham ô, lãngphí.Đội ngũ cán bộ cơng chức của các cơ quan hành chính nhà nước trởnên quan liêu, lộng quyền, hách dịch. Về mặt văn hóa trong nền kinh tế tậptrung bao cấp, giáo dục trở thành độc quyền của Nhà nước; nhà trường chỉ lànơi thực hiện mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh mà Nhà nước giao, khôngcần quan tâm nhiều đến đầu ra. Chúng ta không phủ nhận những thành tựucủa giáo dục do cơ chế tập trung bao cấp tạo ra, song cũng cần thấy rằng, cơchế quản lý đó đã làm cho hệ thống giáo dục thiếu tính cạnh tranh, kém năngđộng, sáng tạo, là mảnh đất cho căn bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thứctồn tại.Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiềusâu dựa trên việc áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học vàcơng nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho nền kinh tế các nước XHCN, trong đó có nước ta lâm vàotình trạng khủng hoảng trầm trọng.• Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.Nhằm thoát khỏi khủng hoảng KT – XH, khắc phục những sai lầmtrong nhận thức và thực hiện cơ chế KHH tập trung quan liêu , bao cấp, đưađất nước phát triển, Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986) đã khẳng định việcđổi mới cơ chế quản lý KT trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách. Đảng đãđề ra đường lối chuyển từ nền KT KHH tập trung sang nền KT nhiều thànhphần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo địnhhướng XHCN.•Kết luậnCơ chế kế hoạch hóa tập trung đã có nững tác dụng nhất định trongbối cảnh đất nước ta thời đó. Tuy nhiên cơ chế này đã bộc lộ nhiều nhượcđiểm, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, đời sống nhân dân nhiều khókhăn, các vấn đề tiêu cực nảy sinh. Yêu cầu bức thiết cho Đảng ta là phải cómột cơ chế về quản lý kinh tế mới nhằm khắc phục những hạn chế của cơchế kế hoạch hóa tập trung mà vẫn có thể đi theo con đường chủ nghĩa xãhội.Tại đại hội VI (tháng12/1986) của đảng ta đã đề ra đường lối đổi mớinền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế bao cấp tràn lan và tập trungquan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo địnhhướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương hết sức quan trọng của giai đoạnnày là phát triển nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần nhằm khai thác cóhiệu quả các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởngnhanh chóng. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là mộttrong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đó.Và thực tế đã chứng minh, đây là quyết định đúng đắn của Đảng và nhà nước, hơn 20 năm đổi mới đất nước ta đang trên đà phát triển và đạt đượcnhững thành quả đáng tự hào.
Tài liệu liên quan
- 1.Sự khác nhau cơ bản giữa hệ thống ngân hàng của nước ta trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung hiện nay (khác biệt giữa hệ thống NH 1 cấp và 2 cấp ở VN)
- 4
- 2
- 49
- 1.Sự khác nhau cơ bản giữa hệ thống ngân hàng của nước ta trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung hiện nay (khác biệt giữa hệ thống NH 1 cấp và 2 cấp ở VN)
- 6
- 18
- 146
- Phân tích các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
- 17
- 23
- 47
- Hạch toán kế toán dưới các góc độ khác nhau,phân tích các nguyên tắc của hạch toán kế toán
- 20
- 737
- 0
- Phân tích các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấpx
- 15
- 3
- 73
- Ưu điểm và hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp của nước ta. Ý nghĩa của nó đối với nước ta hiện nay
- 16
- 54
- 184
- TIỂU LUẬN:Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty Cổ phần Phân lân Hàm Rồng-Thanh Hoá.Lời nói đầuSự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sang cơ chế thị trường và cùng với sự đa dạng hoá các t pdf
- 81
- 1
- 2
- phân tích các đặc tính của kênh truyền vô tuyến
- 32
- 885
- 5
- đề tài “xây dựng phần mềm chặn bắt và phân tích các đặc trưng của gói tin hỗ trợ xử lý cảnh báo xâm nhập và bảo vệ thông tin máy tính trong mạng LAN”
- 81
- 2
- 0
- Cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới doc
- 12
- 2
- 18
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(872 KB - 17 trang) - Phân tích các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » đặc Trưng Của Cơ Chế Quan Liêu Bao Cấp
-
Cơ Chế Kế Hoạch Hóa Tập Trung Quan Liêu Bao Cấp ... - Luật Hoàng Phi
-
Cơ Chế Tập Trung Quan Liêu Bao Cấp Là Gì? Đặc điểm, Hậu Quả?
-
Đặc Trưng, ưu Và Khuyết điểm Của Cơ Chế Kế Hoạch Hóa Tập Trung ...
-
Thời Bao Cấp – Wikipedia Tiếng Việt
-
Phân Tích Các đặc Trưng Của Cơ Chế Kế Hoạch Hóa Tập ... - TaiLieu.VN
-
Đặc Trưng Của Cơ Chễ Kế Hoạch Hóa Tập Trung Quan Liêu Bao Cấp
-
Chương V Tiết 1 - SlideShare
-
Nội Dung Phân Tích Các đặc Trưng Của Cơ Chế Kế Hoạch Hóa Tập ...
-
Câu 21 Cơ Chế Kế Hoạch Hóa Tập Trung Quan Liêu,bao Cấp - Tài Liệu
-
Top 15 đặc Trưng Của Cơ Chế Quan Liêu Bao Cấp
-
Cơ Chế Kế Hoạch Hóa Tập Trung Quan Liêu Bao Cấp Là Gì?
-
Từ điển Tiếng Việt "cơ Chế Quản Lí Tập Trung Quan Liêu Bao Cấp" - Là Gì?
-
Cơ Chế Quản Lý Kinh Tế Thời Kỳ Trước đổi Mới
-
Kinh Tế Thị Trường định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Qua Các ... - Chi Tiết Tin