Phân Tích Chi Tiết Mị Cởi Trói Cho A Phủ Siêu Hay (9 Mẫu) - Văn 12

Văn mẫu lớp 12: Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ được Download.vn giới thiệu.

Phân tích hành động cởi trói của Mị
Phân tích hành động cởi trói của Mị

Nội dung bao gồm dàn ý và 15 bài văn mẫu lớp 12. Hãy cùng theo dõi chi tiết ngay sau đây để có thêm ý tưởng cho bài viết của mình.

Phân tích hành động cởi trói của Mị

  • Dàn ý phân tích hành động cởi trói của Mị
  • Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ ngắn gọn
  • Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 1
  • Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 2
  • Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 3
  • Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 4
  • Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 5

Dàn ý phân tích hành động cởi trói của Mị

1. Mở bài

Dẫn dắt, giới thiệu về vấn đề cần phân tích: hành động cởi trói cho A Phủ.

2. Thân bài

- Mị vốn dĩ là một cô gái trẻ trung, yêu đời, yêu tự do; can đảm và có tinh thần phản kháng mạnh mẽ; giàu tình thương (thổi sáo trong những đêm tình mùa xuân; không muốn về làm dâu nhà thống lí, đã khóc hàng mấy tháng và có ý định tự tử; vì cha già mà chấp nhận cuộc sống khổ nhục)

- Dù chịu đựng nỗi đau đến mức gần như tê liệt những cảm xúc, sức sống nhưng Mị cũng đã thức tỉnh và bừng lên một khát vọng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân. Tuy nhiên, tất cả đã bị A Sử dập tắt tàn nhẫn.

- Những đêm mùa đông thức sưởi ấm, lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn lạnh lùng, thản nhiên. Nhưng khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị nhớ lại tình cảnh của mình, nhận ra sự độc ác của cha con thống lí Pá Tra. Thương mình từ đó mà cũng thương người nghĩ về số phận mình và cái chết vô lí của A Phủ đã thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ.

3. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa của hành động cởi trói cho A Phủ.

Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ ngắn gọn

Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một tác phẩm tiêu biểu. Nổi bật trong đó là đoạn Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

Mị vốn là một cô gái trẻ đẹp, tài năng nhưng gia đình nghèo khó. Vì món nợ truyền kiếp của cha, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Quanh năm, Mị phải làm hết mọi việc trong nhà. Càng ngày cô càng trở nên lầm lũi, ít nói. Mùa xuân về trên Hồng Ngài, Mị cũng muốn đi chơi, nhưng A Sử trở về liền trói cô trên cột. Còn A Phủ là một chàng trai mồ, khỏe mạnh, giỏi lao động. Vì đánh A Sử - con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt làm thân nô lệ cho nhà thống lí. Một lần A Phủ để hổ ăn mất một con bò, bị thống lí phạt trói, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm.

Ban đầu, khi A Phủ bị trói, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Cô thầm nghĩ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Lúc này, Mị đã hoàn toàn rơi vào trạng thái vô cảm, không quan tâm tới bất cứ điều gì. Vào đêm hôm sau, Mị vẫn ra sưởi như đêm trước, nhưng rồi “Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo là cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Có thể thấy, hành động cắt dây trói cho A Phủ, hay cũng chính là giải thoát cho chính mình. Ở đoạn cuối, Mị chạy theo A Phủ, gọi với theo: “- A Phủ cho tôi đi.”, “- Ở đây thì chết mất.”. Rõ ràng, hành động và lời nói của Mị lúc này cho thấy còn mang tính tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, nhằm mục đích tự giải phóng bản thân khỏi áp bức của giai cấp thống trị. Quan đây, có thể thấy, Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

Hành động của Mị cho thấy cô không cam chịu bọn thực dân, chúa đất bị áp bức, đày đọa và giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã biết vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do.

Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 1

Nhà văn người Nga Léc – môn – tốp từng viết: “Cũng có những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thao thức, lòng ngập tràn nhung nhớ, … Khi đó, tôi viết”. Bất kỳ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng bắt nguồn từ một trái tim dạt dào xúc cảm với đời của nhà cầm bút. Để từ trái tim một con người, văn phẩm neo đậu mãi trong lòng người đọc bao thế hệ. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một trong số đó. Đây là tác phẩm sâu nghĩa nặng Tô Hoài dành cho mảnh đất, con người Tây Bắc đã được gửi trọn vẹn qua thiên truyện ngắn xuất sắc nhất đời văn của ông. Những trang văn viết về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị thực sự là những trang viết ấn tượng, đầy xúc động, đặc biệt qua hai đoạn trích: “Bây giờ Mị cũng không nói … váy hoa vắt ở phía trong vách” và “lúc ấy trong nhà đã tối bưng, … thì thào một tiếng “Đi ngay!”…”

Trần Đăng Khoa từng nhận xét, Tô Hoài như “một pho sách sống mà không học giả, viện sĩ nào có thể so sánh được”. Không chỉ là một người có sức sáng tạo dồi dào, ông còn có những hiểu biết sâu rộng về những vùng miền của đất nước sau nhiều chuyến đi thực tế. Tô Hoài đến với mảnh đất Tây Bắc năm 1952 trong chuyến đi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, văn nhân cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc để tích lũy vốn sống, để tăng tình cảm gắn bó, để tìm cảm hứng với đồng bào nơi đây. Và từ nơi ấy, “Vợ chồng A Phủ” ra đời. Câu chuyện viết về số phận khổ đau, bất hạnh của những người lao động trước Cách mạng. Nhưng bằng sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, họ đã vươn lên để bước sang một trang đời tươi sáng, hạnh phúc. Những trang văn viết về sự trỗi dậy sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ không chỉ thể hiện được sự tài hoa cùng ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài mà còn cho ta thấy khát vọng sống mãnh liệt của người lao động nghèo vùng cao.

Trước đó, Tô Hoài đã miêu tả Mị là một cô gái trẻ đẹp, tài hoa, thổi sáo giỏi và có tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Không chỉ có vậy, cô còn là một người con gái hiếu thảo và yêu lao động. Thế nhưng, trớ trêu thay, do nhà nghèo, bố mẹ Mị khi lấy nhau phải vay tiền nhà thống lí Pá Tra, đến tận khi mẹ Mị mất rồi, bố già yếu mà vẫn chưa trả hết nợ. Cô bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, làm vợ của A Sử nhưng họ sống với nhau mà không có lòng với nhau. Và từ đây, chuỗi ngày địa ngục của Mị với thân phận con dâu gạt nợ mở ra. Mị không chỉ bị chà đạp về thể xác, mà còn phải chịu biết bao đau đớn về tinh thần. Ngày tháng trôi đi, sức sống tràn đầy của Mị ngày nào, giờ đây dường như đã ngủ yên, thay vào đó là sự lầm lũi, cam chịu. “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tày ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị sống mà mà như chỉ tồn tại. Thế nhưng, bằng ngòi bút nhân đạo, trái tim ấm nóng tình người của mình, Tô Hoài đã phát hiện ra: “Ở trong hình ảnh con rùa lùi lũi ấy, còn có một con người”. Sự biến chuyển về tâm lí của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả thành công, từ đó đã làm sáng lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của cô trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ.

Đoạn trích thứ nhất đã khắc họa một cô Mị đang đắm chìm trong hạnh phúc, đang nghĩ về những cuộc chơi xuân, để từ đó có những hành động mà lần đầu xuất hiện kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lí. Trạng ngữ chỉ thời gian “bây giờ” nói đến thời điểm hiện tại, khi Mị đang ngược về quá khứ theo men say của rượu và tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Trước đó, bằng ngòi bút tả thực cùng sự am hiểu về phong tục tập quán các vùng miền, Tô Hoài đã khắc họa chân thực bức tranh mùa xuân về trên Hồng Ngài với màu sắc rực rỡ, sự no đủ và những hoạt động của đồng bào nơi đây. Thế nhưng, trái ngược với bức tranh đầy sức sống đó, cô Mị lại thờ ơ, vô cảm, dường như không quan tâm đến bất kỳ thứ gì xung quanh. Năm nay, cô lén uống rượu, cô uống “ừng ực từng bát” và như một thói quen, cô đi thẳng vào căn buồng kín mít với một lỗ vuông bé bằng bàn tay của mình. Mị ngồi trên giường, không làm gì cả. Có thể nói, từ khi bước chân vào nhà thống lí, vào căn buồng được coi như thứ ngục thất trần gian này, Mị dường như chỉ tồn tại với một cái xác không hồn, làm việc theo bản năng, chứ không hề có cho mình những xúc cảm riêng. Nhưng đêm nay lại khác, cô ngồi trên giường nhưng lòng cô đi theo men rượu, đi theo tiếng sáo để về với một thời quá khứ tươi đẹp. Mị nhận ra mình còn trẻ, còn nhiều khát vọng: “Mị muốn đi chơi”. Việc nhớ về quá khứ đã làm sống dậy một cô Mị trước khi vào làm dâu nhà thống lí, làm dấy lên sức sống tiềm tàng trong cô. Từ đó, Mị có những hành động của một con người đang thực sự sống, của một cô gái đang độ tuổi tươi đẹp.

“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đèn”. Câu văn mộc mạc, nhịp nhàng và chậm rãi nhưng lại gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mới lạ. Không cần đi tìm, Mị một mạch tiến đến góc nhà, thắp lên cây đèn đã lâu chưa được cô ngó ngàng tới. Vậy là cây đèn vẫn luôn ở đó như biết trước rằng, rồi sẽ lại có một ngày nó được thắp sáng lên bởi bàn tay của Mị. Mị biết vị trí của cây đèn rất rõ nhưng tại sao trước đó, cô lại không thắp lên? Đó hẳn là vì sự chai lì, sự vô cảm của Mị với đời, khiến cô không còn quan tâm đến việc căn phòng sáng hay tối nữa. Cho đến hôm nay, khi sức sống căng tràn nơi nơi trái tim Mị, cô “xắn một miếng mỡ” bỏ vào đèn làm bừng sáng cho gian phòng vốn tăm tối. Hành động thắp đèn của Mị không chỉ là thắp sáng căn phòng, mà còn là thắp lên ngọn lửa đang cháy âm ỉ trong lòng cô nữa. Căn phòng giờ đây không còn mang dáng vẻ của ngục thất trần gian, dáng vẻ của “nhà mồ chôn sống” nữa mà nó đã trở thành không gian sống, một không gian thực thụ của con người, dành cho con người. Chỉ bằng một hành động và câu văn nhỏ bé vậy thôi nhưng Tô Hoài đã cho người đọc thấy sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ bên trong Mị.

Không chỉ qua hành động thắp đèn, sức sống của Mị còn được hiện lên qua hành động “cuốn lại tóc, với lấy cái váy hoa”. Tiếng sáo rập rờn trong đầu như đưa Mị đến gần với những cuộc vui của ngày trước. Khát khao được vui tươi, được đi chơi của Mị dâng trào một cách mãnh liệt hơn bao giờ hết. Cô để ý, chăm chút lại mái tóc thanh xuân của mình, thay một cái váy hoa, chuẩn bị đi chơi. Trái tim cô đang rạo rực với ý nghĩ được đi chơi thì A Sử về. Y cùng với sợi dây trói đã chặn đứng khát vọng của cô. Hạnh phúc bỗng vụt tắt, cô lại trở về thành cô Mị vô cảm, thờ ơ với cuộc đời. Đêm tình mùa xuân khép lại, dù chưa có những hành động bứt phá nhưng có thể thấy, lớp băng phủ quanh trái tim của Mị đã dần xuất hiện vết nứt, chỉ chờ một sự tác động nữa là lớp băng ấy sẽ tan biến. Cô Mị với khát vọng sống mãnh liệt sẽ hoàn toàn phục sinh. Và tác nhân ấy sẽ xuất hiện trong đêm đông cởi trói cho A Phủ.

Chính nhờ giọt nước mắt của A Phủ, trong Mị đã trỗi dậy lòng thương mình, tình thương đồng loại để từ đó có những hành động bất ngờ, táo bạo, tất yếu. “Lúc ấy” là giữa đêm đông khuya khoắt, lạnh lẽo. Dù không gian bên ngoài giá lạnh, nhưng dường như trái tim của Mị lại ấm nóng hơn bao giờ hết. Phải chăng, giọt nước mắt của A Phủ đã chảy vào lòng Mị, làm tan đi cái lạnh giá nơi trái tim cô. Ngọn lửa Mị vẫn ngồi hơ tay mỗi đêm đã lụi tàn, bóng tối bao trùm cả không gian, nuốt chửng Mị. Thế nhưng, thay vì nhóm lửa lại, Mị “rón rén bước lại”, “cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Hành động của Mị chỉ là “rón rén”, vì đây chỉ là hành động bộc phát, bất ngờ, không có sự chuẩn bị từ trước. Mị “rón rén” vị sợ bị phát hiện, sợ A Sử phát hiện. Nhưng cắt dây trói xong, chính bản thân cô cũng hoảng hốt trước hành động của chính mình. “Mị hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay””. Có thể nói, cô hốt hoảng vì cô chưa từng nghĩ, mình lại có thể làm được những hành động như thế này. Trước kia, cô chỉ bằng lòng, yên phận sống một cuộc đời “lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, sống mà chỉ như là tồn tại. Cô nghĩ rằng, cuộc đời này sống làm người nhà thống lí, chết làm ma nhà thống lí, rồi cũng sẽ có một ngày rũ xương ở cái nơi địa ngục trần gian này thôi, chứ cô chưa bao giờ nghĩ rằng, mình lại có thể quyết liệt đến vậy. Tiếng thì thào của Mị như một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, làm điểm sáng cho đoạn trích này. Trong cả tác phẩm, dù là nhân vật chính, nhưng Mị lại chỉ có đúng ba câu nói: một câu nói với cha và hai câu nói với A Phủ. Và tiếng thì thào “đi ngay” của Mị nói với A Phủ là tiếng nói được cất lên từ đáy lòng Mị sau rất nhiều năm sống câm lặng ở ngôi nhà này. Nhưng cũng từ đó, ta thấy được tình thương người lớn hơn thương thân của Mị, đặc biệt thấy được cả sức sống tiềm tàng nơi cô. Hai tiếng “đi ngay” ấy là lời của Mị nói với A phủ, nhưng dường như cũng là lời nói với chính mình để sau đó, cô cũng chạy đi theo A Phủ. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả dòng chảy tâm lí của nhân vật Mị. Các câu văn ngắn, nhiều dấu phẩy tạo nên giọng văn gấp rút như men theo những chuyển biến tâm lí tinh vi ở Mị. Tác giả dường như đã hóa thân vào nhân vật để lột tả được hết những tâm trạng của Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ.

Hai đoạn trích đã khắc họa được những nét diễn biến tâm lý phức tạp của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ, từ đó người đọc thấy sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong con người Mị, trước những cơn gió xúc tác nó lại bùng lên mạnh mẽ. Ở đoạn trích đầu tiên, ta thấy hiện ra một cô Mị còn trẻ, vẫn khao khát được đi chơi, chìm đắm trong cuộc chơi, sức sống trong cô lúc này trỗi dậy mạnh mẽ. Còn ở đoạn trích thứ hai, một cô Mị với tình thương người, tình yêu thương đồng loại (là A Phủ) hiện lên đánh dấu sự trở lại hoàn toàn của Mị. Con người cô quay lại trở lại với những gì đẹp đẽ nhất, căng tràn nhựa sống và khát khao tự do nhất – như những ngày chưa bước chân vào nhà thống lí Pá Tra. Như thế, qua hai đoạn trích trên, ta thấy Mị có những hành động mà trước đây cô chưa từng làm và ngay cả chính cô cũng không không nghĩ rằng mình sẽ làm như vậy. Đó chính là biểu hiện rõ nét nhất của ngọn lửa sức sống tiềm tàng đang bùng cháy trong Mị. Ngọn lửa đó chưa bao giờ bị dập tắt, nó chỉ bị những thế lực tàn ác của thần quyền và cường quyền làm yếu đi, chờ đợi ngày được bùng cháy. Từ đây, ta thấy được thông điệp mà Tô Hoài gửi gắm qua truyện ngắn này: sức sống, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người là bất diệt, dẫu có bị các thế lực bóng tối chèn ép, đẩy đến bi kịch đến như thế nào cũng sẽ vẫn âm ỉ cháy, và chắc chắn sẽ có một ngày bùng lên mãnh liệt.

Sự thành công của thiên truyện Vợ chồng A Phủ không chỉ nằm ở nội dung mà còn nằm ở nghệ thuật. Với lối kể chuyện lôi cuốn, các tình tiết được dẫn dắt khéo léo, Tô Hoài dễ dàng đưa người đọc đi men theo dòng chảy tâm lí của nhân vật Mị đầy tự nhiên, không gượng ép. Ngôn ngữ phong phú, giàu sức tạo hình mang đậm màu sắc miền núi cùng hàng loạt các danh từ, động từ mạnh đã góp phần khắc họa tâm trạng của nhân vật Mị. Đặc biệt, lời văn nửa trực tiếp, bút pháp biện chứng tâm hồn tinh tế, điêu luyện đã giúp nhà văn đưa người đọc đến gần hơn với những xúc cảm trong lòng Mị, hòa vào Mị để thấu hiểu, để đồng cảm. Từ đó, làm ngời sáng lên một cô Mị với nội tâm sâu sắc, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt và trái tim nhân hậu, giàu yêu thương.

Tô Hoài từng có lần tâm sự về truyện ngắn của mình như thế này: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”. Đọc những lời chia sẻ ấy của Tô Hoài tôi mới thấy rõ hơn cái tình mang nặng của ông với mảnh đất và con người Tây Bắc. Tô Hoài yêu và hiểu nhân vật của mình nên ông đi vào từng dòng tâm trạng, cử chỉ, hành động và lời nói của họ để phát hiện bao hòn ngọc còn ẩn giấu trong tim những kiếp cùng cực ấy. Hai dòng tâm trạng trên của Mị nói riêng và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói chung đã thể hiện tình yêu thương nhiều khi đến quặn thắt của Tô Hoài. Văn nhân đau từng cơn trước những lần Mị bị đọa đày trong những phận trâu ngựa, trong cơn đòn roi hay nơi ngục thất tinh thần. Ông căm phẫn làm sao trước bọn chúa đất miền núi với cường quyền và thần quyền nặng nề bám riết lấy con người không buông, khiến người ta cứ sống kiếp mòn đi, thơ ơ với mọi sự. Nhưng điều người đọc thấy trân quý biết bao ấy là tấm lòng cất công đi tìm hòn than nóng bỏng sau lớp tro tàn ở Mị. Mị với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt chẳng bao giờ nguôi ngoai. Cũng vì lẽ đó văn nhân muốn mở ra cho nhân vật một con đường giải thoát, muốn đưa cho con người ra ánh sáng tự do. Mị cởi trói cho A Phủ nhưng cô cũng cởi trói cho chính mình. Rồi hai mảnh đời ấy sẽ cuốn vào nhau và tiến tới con đường chân lý – con đường cách mạng. Đọc những dòng văn đẹp ấy của “tấm lòng vàng” tôi mới trăn trở làm sao kiếp người bị vùi vào tăm tối. Nhưng hơn hết tôi biết Tô Hoài muốn nhắn gửi chúng ta, con người dù trong hoàn cảnh nào vẫn ẩn khuất những khát vọng đẹp. Hãy cứu đi, cứu lấy con người khỏi chốn tối tăm khi còn có thể!

Sê – khốp từng nói: “Nhà văn trước hết phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Nếu không có một trái tim thương người, đồng cảm với những số phận khổ đau, bị các thế lực tàn ác chèn ép, đày đọa, Tô Hoài đã không thể viết nên những trang văn xuất sắc và cảm động như thế. Và nếu không có một ngòi bút nhân đạo, Tô Hoài đã không thể nào phát hiện được sức sống mãnh liệt vẫn luôn ẩn sâu trong Mị cũng như những người dân lao động ở miền dẻo cao Tây Bắc. Một tấm lòng đẹp đã tỏa ngát trong vườn văn Việt Nam, một sức sống đẹp đã nảy nở trong kho tàng văn học dân tộc. Và từ đó một nhà văn cùng những trang viết xuất sắc ra đời. Người ta sẽ khó mà quên những con chữ hồn nhiên tuổi ấu thơ trong vương quốc dế mèn, cũng không thấy được dòng văn đập rộn ràng không khí thời đại trong “Chuyện cũ Hà Nội” hay những trang văn xanh đời trong “Vợ chồng A Phủ”. Dẫu là khi bé thơ hay đã trưởng thành người ta vẫn muốn đến với ông – đi trên con thuyền chở nặng hồn văn Tô Hoài.

Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 2

Tố Hữu, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, từng nói: “Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học”. Cũng chính vì thế, ta hiểu rằng văn học và đời sống luôn song hành với nhau – văn chương chính là tấm gương phản chiếu rõ nét nhất những hiện thực của đời sống thường ngày. Với ý niệm này, nhà văn Tô Hoài đã chấp bút viết nên “Vợ chồng A Phủ” để tái hiện lại bức chân dung chân thực về các dân tộc ở Tây Bắc xuyên suốt những năm tháng cách mạng. Được tác giả miêu tả sâu sắc nhất, nhân vật Mị – bông hoa ban núi rừng hiện lên như một biểu tượng cho người phụ nữ Tây Bắc lúc bấy giờ: hoàn cảnh ngặt nghèo, đau khổ nhưng vẫn luôn giữ được sức sống tiềm tàng. Điều đó đặc biệt được Tô Hoài diễn tả qua đoạn trích đêm đông Mị cởi trói cho A Phủ và bỏ trốn cùng anh: “Lúc ấy trong nhà đã tối bưng… thì thào một tiếng “Đi ngay!”…. Qua đoạn trích, tư tưởng nhân đạo đầy tiến bộ của “cuốn từ điển sống nghề văn” này đã được thể hiện sâu sắc, sáng rõ.

Nhắc đến nhà văn Tô Hoài là nhắc đến một trong những cây đại thụ của nền văn học cận đại Việt Nam. Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác trải dài hơn 60 năm, Tô Hoài đã cho ra gần 200 đầu sách khác nhau và gặt hái vô số thành công ở nhiều thể loại. Thế nhưng tiêu biểu hơn cả là những trang văn chân thực, sâu sắc của ông về cuộc sống và con người vùng Tây Bắc qua tập “Truyện Tây Bắc”. Qua tập truyện, nhà văn đã khắc họa bức chân dung sinh động, xúc động về những nỗi đau thương, khổ cực mà nhân dân miền núi phải gánh chịu dưới ách áp bức nặng nề của chế độ thực dân phong kiến, đồng thời tác phẩm cũng là lời ngợi ca, trân trọng ông dành cho tinh thần kiên cường, bất khuất của họ khi đã vùng lên đấu tranh, tham gia cả nước cùng kháng chiến. Tinh thần, ý niệm này của Tô Hoài được bộc lộ rõ nhất, sáng ngời nhất qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

“Vợ chồng A Phủ” được chắp bút năm 1952, đây là kết quả của chuyến đi thực tế của Tô Hoài đến các bản làng mới giải phóng và dành tám tháng cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi nơi đây. Với quan niệm “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật”. Ông đã chưng cất những “sự thật” xù xì, thô nhám nơi đây để tạo nên một các hình tượng đẹp đẽ, là đại diện cho tinh thần, quan niệm nhân sinh của mình, điển hình là nhân vật Mị, trung tâm của câu chuyện. Ẩn sau hình ảnh người con gái tài năng, xinh đẹp là sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ và tinh thần bất chấp những gông xiềng của hủ tục lạc hậu và ách áp bức, bóc lột của cường quyền – thần quyền.

Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện của Mị được bắt đầu bằng một nốt trầm: “dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Mới không lâu, Mị còn là một bông hoa ban thuần khiết, tươi mới, mới nở rộ của ngôi làng mà giờ đây Mị hiện lên với cuộc sống lầm lũi, buồn khổ, tủi nhục trong thân phận vợ của A Sử, con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ chỉ còn là những giọt nước mắt lăn dài, những mảnh hồi ức rời rạc, xa xăm, ngoài tầm với của Mị. Cô không chỉ đánh mất cuộc đời cũ của mình mà còn bị cha con nhà Pá Tra đày đọa cả thể xác và tinh thần: phải làm việc cả ngày lẫn đêm; bị giam hãm trong căn buồng kín mít; bị chồng đánh, bị phạt, bị trói,… Đến nỗi mà Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Tâm hồn Mị, vốn thuộc về một cô gái trẻ trung, vui tươi, yêu đời, đã dần tan nát, vụn vỡ dưới bàn tay hung bạo, áp chế của cha con nhà thống lý.

Những tưởng cuộc đời của Mị đã chấm hết, tinh thần của Mị rồi cũng sẽ héo mòn dưới gông xiềng của hủ tục lạc hậu và nạn áp bức bóc lột tàn bạo nhưng không, ẩn sâu dưới vẻ lầm lũi, câm lặng đó vẫn le lói một ánh lửa của sức sống, của khát khao hạnh phúc, của mong muốn được tự do, luôn âm ỉ cháy chỉ chờ ngày bùng lên mãnh liệt. Trái với các nhà văn cùng thời, dù viết về những tội ác của bọn thống trị và nỗi thống khổ của dân nghèo, Tô Hoài bằng ngòi bút của mình đã không để cho các nhân vật của mình chìm trong đau khổ, trong tuyệt vọng, bị cái ác, cái tàn độc dồn đến chân đường cùng, đến cái chết. Thay vào đó, với tình thương yêu và sự trân trọng sâu sắc ông dành cho người dân Tây Bắc, Tô Hoài đã khéo léo tận dụng tối đa nghệ thuật xây dựng, khai thác nội tâm nhân vật để nêu bật hành trình hồi sinh, lấy lại khát vọng sống của Mị. Đến đây độc giả chợt hiểu rằng: “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.” (Thạch Lam).

Sự chuyển biến trong tâm hồn Mị được đánh dấu bằng đêm hội mùa xuân. Sau những tháng ngày bị giày vò, bị bóc lột đến mức chai sạn, trơ lì, thế nhưng trái tim Mị vẫn không khỏi rung động trước vang âm của tiếng sáo, tiếng gọi bạn đánh pao từ trai gái Hồng Ngài. Cái xác không hồn” ngày ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” như bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng, Mị bỗng thấy “thiết tha bồi hồi”, trái tim khô quạnh của cô được hồi sinh. Tiếng sáo trong trẻo đưa Mị tới bình rượu, tới hơi ấm của bếp sưởi, tới niềm tin vào một cuộc sống tươi đẹp hơn. Thế nhưng chẳng mấy chốc, hy vọng đó đã bị dập tắt bởi sợi dây trói của A Sử. Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành, những đốm lửa vẫn còn đó, chực chờ cơ hội bùng cháy và thiêu rụi màn đêm của gia đình thống lý. “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám chảy ngày mai” (Lỗ Tấn), ở đây Tô Hoài không chỉ báo hiệu trước cho độc giả về số phận của Mị, mà từ đó còn cho ta thêm hy vọng về sự hồi sinh, giải phóng hoàn toàn của Mị, đỉnh điểm là vào đêm đông Mị cởi trói cho A Phủ.

Có lẽ tâm hồn Mị sẽ mãi là tảng băng lạnh lùng, vô cảm, Mị vẫn sẽ tiếp tục trơ lì trước cảnh tượng A Phủ bị trói nếu như không bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt lăn dài xuống khuôn mặt hốc hác, phờ phạc của A Phủ gợi lại cho Mị về chính mình vào đêm tình mùa xuân, về nỗi thống khổ, tuyệt vọng cùng khát khao vùng dậy, phản kháng mãnh liệt mà cả hai cùng sẻ chia. Bất chấp cái giá rét của cường quyền – thần quyền, dòng nước mắt đã kết nối hai tâm hồn đồng điệu, cho họ một chút hơi ấm giữa đêm đông lạnh lẽo, khắc nghiệt này. Trái tim Mị tan chảy khi tiếc thương thân phận chính mình, để rồi cháy rực lên khi Mị nghĩ về A Phủ, nghĩ về hoàn cảnh tương đồng giữa hai người. Nếu bát cháo hành đơn sơ của Thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo khởi cơn mê thuốc, khỏi sự tàn ác, đưa hắn quay trở lại với cuộc đời thiện lương thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức khát vọng tự do vốn bị vùi dập bấy lâu trong Mị, tiếp thêm cho cô sức mạnh để vùng lên phản kháng. Lớp xiềng xích tàn bạo của cha con nhà thống lý cũng phải khuất phục trước niềm căm phẫn sục sôi và sức sống mãnh liệt của Mị.

Ngọn lửa bếp đã tàn, thế nhưng một ngọn lửa mới đang trỗi dậy, xua tan bóng đêm của ngôi nhà thống lý và đánh dấu sự thay đổi trong tâm hồn Mị. Thay vì nhóm lửa lại theo thói quen, lòng trắc ẩn và sự đồng cảm đã thúc đẩy Mị vượt qua nỗi sợ ban đầu để tiến đến hành động bột phát, mạnh bạo – Mị “rón rén bước lại”, “cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Sau hàng năm trời phải sống im lặng, lủi thủi và cô độc như “con rùa nuôi trong xó cửa”, trái tim của cô cuối cùng đã lên tiếng, không chỉ vì bản thân mà còn vì A Phủ, vì những người dân Tây Bắc đang phải chịu sự bóc lột tàn bạo từ bọn thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Nỗi sợ xen lẫn sự quyết liệt mới mẻ này đã tạo thành hai tiếng thì thào “đi ngay” của Mị dành cho A Phủ.

Thật ý nghĩa khi Tô Hoài dành lời nói đầu tiên của Mị trong tác phẩm này, là lời nói thúc giục, giải thoát cho A Phủ. Chỉ hai chữ thôi nhưng câu nói ấy chứa đầy sự quyết liệt & sức sống mạnh mẽ sau những tháng ngày sống lầm lũi, câm lặng trong đày đọa của nhà thống lý Pá Tra. Hai chữ “đi ngay” không chỉ là tiếng thúc giục A Phủ mà còn là lời nói Mị dành cho chính mình để sau đó cô bỏ trốn cùng anh. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả dòng chảy tâm lý của Mị. Bằng một loạt câu văn ngắn cùng nhịp điệu gấp rút, dồn dập, nhà văn đã xuất sắc khắc họa chân dung người con gái Tây Bắc trong đêm đông giá rét với những vẻ đẹp phi thường. Cái đêm “định mệnh” ấy chính là nguồn động lực vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi nỗi lo sợ, mọi cường quyền và thần quyền để giải phóng cho chính mình và A Phủ, thay đổi cuộc sống của họ cho những ngày tươi đẹp hơn.

Nhà văn Sê-khốp từng có lời nhận xét rằng: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Khi sáng tạo, người nghệ sĩ không chỉ cần cẩn trọng với nét cọ hay những lớp màu mà họ còn phải thành tâm khắc họa, truyền tải những thông điệp thông điệp nhân đạo ý nghĩa nhất tới mọi người. Ở nhân vật Mị, bên cạnh những ngợi ca, những cảm thông, thương xót cho người con gái Tây Bắc ấy, tác giả còn lên tiếng tố cáo chế động phong kiến miền núi đã đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần của con người, dùng cường quyền và thần quyền để đẩy họ xuống những bùn đen của cuộc đời. Đặc biệt, trong quá trình tạo dựng nhân vật trung tâm, thay vì lựa chọn một hình tượng gần gũi, quen thuộc mà độc giả chúng ta thường thấy ở thôn quê, đồng bằng thì trái lại, ông đã miêu tả chân dung một cô gái vùng núi Tây Bắc. Tinh thần nhân đạo của Tô Hoài đã tỏa sáng ở sự đổi mới trong việc tìm kiếm đối tượng văn học, và cả ở cách ông miêu tả diễn biến tâm trạng, hành động của Mị. Không dừng lại ở hành động phản kháng, tự phát của cô (cởi trói cho A Phủ) mà Tô Hoài còn mở ra một hướng đi mới cho cả hai – con đường giác ngộ lý tưởng Đảng, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc để góp công giải phóng các dân tộc vùng Tây Bắc, tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn. Chính tư tưởng, tinh thần nhân đạo tiến bộ của Tô Hoài đã góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của ông trong làng văn chương Việt Nam.

Qua hai đoạn trích từ “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định được ngòi bút tài hoa cùng vị thế của mình trong thể loại truyện ngắn. Từ lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, đến vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán đặc sắc, riêng biệt của Tây Bắc, và đặc biệt là nghệ thuật xây dựng, miêu tả nội tâm nhân vật, tất cả đã tạo nên một cõi văn rất riêng mang tên Tô Hoài – vừa tinh tế, khéo léo, vừa đậm đà chất trữ tình, thơ mộng. Với sự xuất hiện của “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài không chỉ đứng từ phía ngoài quan sát mà còn hòa làm một với thế giới nội tâm của các nhân vật làng Hồng Ngài, để đồng cảm, để thấu hiểu, để yêu thương. Dòng chảy dạt dào của tình cảm, của sự trân trọng trìu mến và da diết ông dành cho người dân miền Tây Bắc đã kết tinh qua nhân vật Mị – người con gái phải chịu ách áp bức bóc lột nặng nề nhưng luôn mang trong mình một sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt.

Niềm ham sống cùng khát khao được tự do không chỉ hiện diện trong tâm hồn Mị mà còn có thể được tìm thấy ở nhiều sáng tác khác, trong đó phải kể đến nhân vật thị từ truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Hai nhà văn với những nét bút riêng biệt, thế nhưng cả Tô Hoài và Kim Lân đều đã xuất sắc khắc họa bức chân dung người phụ nữ Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến. Mị đại diện cho dân tộc Tây Bắc dưới những xiềng xích của cường quyền – thần quyền, còn thị là hình mẫu tiêu biểu cho nhân dân nước nhà dưới nạn đói năm 1945. Họ đều là những người con gái bị bóc lột, bị áp bức, bị ách thống trị, đô hộ của bọn địa chủ – thực dân phong kiến dày vò đến độ chai sạn, tê liệt tinh thần, nội tâm ngày càng trống rỗng, cõi lòng cả hai cứ thế mà chết dần, chết mòn. Thế nhưng bất chấp những nghịch cảnh cuộc đời giáng xuống, cả Mị và thị đều nuôi dưỡng trong mình ngọn lửa của sự sống, ngọn lửa của niềm tin, của hy vọng vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn, vào một buổi bình minh của độc lập, tự do trên khắp mọi miền đất nước.

Để nói về Mị, Tô Hoài từng có lời nhận xét: “Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.” Quả đúng như vậy, bằng ngòi bút tài năng và tình cảm chân thành, sâu đậm ông dành cho các dân tộc vùng núi, tác giả đã khắc họa bức chân dung Mị, từ đó gợi cho độc giả bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp người dân Tây Bắc những năm tháng kháng chiến. Dẫu Mị phải chịu đựng nhiều lớp xiềng xích – sự tàn bạo của A Sử, của gia đình nhà chồng cho đến những hủ tục lạc hậu – thế nhưng tinh thần bất khuất cùng tình yêu đời, yêu cuộc sống đã thắp sáng ngọn lửa của sức sống tiềm tàng bên trong chị, đặc biệt ở đêm đông năm đó. Ngọn lửa của sức sống thầm lặng vào đêm xuân đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh, ý chí để vùng lên đấu tranh, giành lại tự do không chỉ cho chính mình hay A Phủ mà còn biết bao người dân Tây Bắc khác đang phải chống chịu với ách xâm lược. Hình tượng Mị nói riêng và nhân dân vùng núi nói chung trong “Vợ chồng A Phủ” đã trở thành điểm sáng trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, đồng thời là tấm gương cho các thế hệ sau noi theo và học tập để ngày mai chúng ta dựng xây một đất nước tươi đẹp, hạnh phúc, tiến bộ hơn.

Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 3

Văn chương không chỉ đơn giản là thú vui bình sinh lúc an nhàn mà còn là “điểm tựa” cho con người mỗi phút giây yếu lòng. Nó đem lại cho ta niềm tin yêu cuộc sống và vững tin vào chính mình để thay đổi. Những sự “đổi đời” không phải nhờ có phép màu của ông Bụt, bà Tiên mà từ chính sức mạnh, tiềm lực bên trong. “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài đã làm được điều đó. Con người có thể thoát ra khỏi khổ đau để đến với niềm vui chỉ bởi một hành động: hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ.

Sau Cách mạng, Tô Hoài được ghi nhận là một trong những cây bút khai phá một mảnh đất mới cho văn học cách mạng, đó là mảng văn học viết về miền núi Tây Bắc - một vùng đất xa xôi, hoang vu nơi địa đầu Tổ quốc. Tập "Truyện Tây Bắc" là vụ mùa thu hoạch từ chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài năm 1952. Trong số ba truyện ngắn được giải Nhất Giải thưởng của Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954 - 1955, "Vợ chồng A Phủ" có lẽ là truyện ngắn đọng lại ấn tượng sâu sắc nhất. Có thể nói: “đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên….” chẳng những nhắc nhớ người nghệ sĩ ấy ngày quay trở lạ mà còn “phải đem trả cho những người thương ấy” “một tấm lòng mình, một cái gì làm hiện lại cả cuộc đời người H'mông trung thực, chí tình…”.

Đọc truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, ta không thể quên được gương mặt “buồn rười rượi” của Mị. Đó là gương mặt mang nỗi đau của một kiếp người không bằng ngựa trâu. Đó là gương mặt tưởng như cam chịu, mất hết sức sống. Gương mặt buồn rười rượi ấy không phải là gương mặt đầu tiên của cuộc đời Mị. Mị lớn lên, xinh đẹp với bao nhiêu khát vọng hạnh phúc. Nhưng chính những hủ tục phong kiến đã biến người con gái kia quên mất đi gương mặt hi vọng của mình mà trở nên lầm lũi, chẳng thiết vui cũng nắng, xanh cùng cỏ cây. Và có lẽ Mị sẽ sống như thế đến chết nếu không có đêm tình mùa xuân và đêm đông. Nhờ có hơi men rượu và hơi ấm của đêm tình mùa xuân, Mị đã cảm nhận được sự sống, khát vọng ở bên trong mình. Nhưng sức sống tiềm tàng bên trong thực sự biểu hiện thành khát vọng sống bên ngoài, thành hành động chỉ xảy ra vào đêm đông ấy…

Ban đầu, khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Vì Mị đã quá quen với cảnh áp bức, bóc lột trong căn nhà này ròi. Đó là hệ quả của chuỗi ngày bị đọa đày. Hơn nữa, Mị và A Phủ- kẻ bị trói đây khác nhau về trạng thái nhưng thân phận cũng đâu có hơn nhau mà có thể nói hai chữ “cứu giúp”.

Nhưng “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” khiến Mị nhớ lại đời mình, nhớ lại những đêm Mị cũng bị trói đứng như thế, những giọt nước mắt còn không sao chảy ra được. Và như thế, từ mình mà nghĩ đến người, từ thương thân Mị cũng hướng tới thương người để rồi căm giận những thế lực tàn ác đã gây ra khổ đau cho những số phận như Mị. Rồi Mị tưởng tượng ra cảnh A Phủ trốn ra được và Mị sẽ là người thế chỗ trong dây trói đó. “Nghĩ thế nào Mị cũng không sợ”, vì đó vẫn là những hình dung, tưởng tượng rất xa.

Và Mị quyết định cởi trói cho A Phủ, chỉ thì thào một tiếng: “Đi ngay”. Rồi “Mị đứng lặng trong bóng tối”, căng thẳng, hồi hộp trước một phút giờ quyết định. Câu văn đứng riêng ra một dòng, là những giây phút quyết định cả cuộc đời và số phận của Mị. Đó như là một bản lề khép mở hai phần đời của Mị: nô lệ - tự do, sống – chết, bóng tối – ánh sáng. Cuối cùng, người con gái cũng chịu cất bước sau bao năm chỉ biết quỳ gối, Mị chạy theo A Phủ, nói: “A Phủ cho tôi đi”, “Ở đây thì chết mất”. Mị đã quyết định chạy trốn khỏi địa ngục, chạy trốn khỏi cái chết. Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ là Mị đang làm ơn cho A Phủ? Không hẳn, cởi trói cho A Phủ khỏi sợi dậy hữu hình, Mị đồng thời cũng là cởi trói cho chính mình khỏi sợi dây vô hình của nỗi sợ hãi, buông xuôi và khổ đau, tù tối. Mị giải phóng cho A Phủ bằng con dao nhỏ còn giải phóng cho mình bằng khát vọng sống. Khát vọng sống đã cứu Mị, mở đường sống cho Mị thoát khỏi nơi địa ngục tối tăm và không có sự sống kia.

Đoạn văn ngắn chỉ có một vài câu thoại rời rạc, những hành động ngắn ngủi nhưng với ngòi bút tài hoa của Tô Hoài, không gian Tây Bắc vào đêm, bên ngọn lửa, nhân vật như được soi tỏ và tỏa sáng. Nhân vật được miêu tả trong cả một quá trình từ thờ ơ đến rung động, đấu tranh cuối cùng đi đến hành động rất nhanh nhưng lại phù hợp và logic. Qua đó, Tô Hoài đã miêu tả sâu sắc và cảm động sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Sức sống ấy như ngọn lửa âm ỉ cháy không dễ gì có thế dập tắt được. Đó chính là niềm tin mãnh liệt của Tô Hoài vào khả năng tự giải phóng để đến với tự do, đến với cách mạng của những người lao động vùng cao bằng năng lượng tự thân của chính họ. Không phải cách mạng là người khai sáng cho những con người khổ đau kia, chính họ, bằng nghị lực và sức mạnh của mình mới có thể cứu được chính mình. Và cách mạng, cùng Đảng là mở đường cho họ, dẫn lối để họ tìm thấy đích hạnh phúc của mình. Ý nghĩa của câu chuyện đã vượt khỏi giá trị nhất thời của văn học: vận động quần chúng, cổ vũ chiến đấu mà vươn tới giá trị nhân bản, nhân văn: đề cao giá trị tự thân, khả năng tự giải phóng của con người – đó chính là giá trị cốt lõi và muôn đời của nhân loại.

Ai đó đã từng nói, khi một tác phẩm kết thúc, sự sống của nó mới thực sự bắt đầu. Sự sống của Mị, của “Vợ chồng A Phủ” vẫn còn đó, dù dấu chấm hết đã điểm,, và sẽ còn sống mãi đến chừng nào con người ta còn cần niềm tin, còn cần tiếp thêm sức mạnh và còn cần “vịn vào để đứng dậy”.

Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 4

Giá trị nhân đạo được coi là một trong hai dòng tư tưởng chủ đạo xuyên suốt văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, “ Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” nên ta có dịp gặp gỡ giá trị nhân đạo mới mẻ của ngòi bút Tô Hoài gửi gắm trong tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ”. Thông điệp của nhà văn kết tinh trong đoạn văn Mị cởi trói cho A Phủ trong đêm đông.

Nhà văn Tô Hoài kiếm tìm cái đẹp rất thực giữa trang đời, “ cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Vậy nên, sau chuyến đi của nhà văn và bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, tám tháng nghĩa tình với đồng bào tạo nên chất men say chắp cánh cảm hứng sáng tác “ Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “ Truyện Tây Bắc”(1953). Sau trang văn nhà văn khám phá vẻ đẹp tâm hồn người lao động và niềm thấu hiểu nỗi thống khổ của con người nơi đây những năm cách mạng chưa về. Giá trị nhân đạo mới mẻ do đặc điểm từng thời đại hay hạt nhân của tình thương yêu, nguyên tắc ứng xử cao đẹp của con người với con người được nhà văn Tô Hoài thể hiện qua nhân vật Mị và A Phủ trong tác phẩm.

Trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, trai gái được mở hội lòng, A Phủ “ mắc tội” đánh A Sử- con quan vì hắn dẫm đạp lên lệ làng. Sau đó, A Phủ bị bắt làm con ở gạt nợ cho nhà thống lý. Một lần, A Phủ mải bẫy nhím, để hổ bắt mất con bò nên bị thống lý trói đứng vào một cây cột trong góc nhà giữa cái lạnh cắt da, cắt thịt của vùng cao. Trước những đêm đông trên núi cao và buồn, Mị cứ “thản nhiên” thổi lửa, hơ chân tay. Chứng kiến cảnh hành hạ người ăn kẻ ở trong nhà thống lý- một chuyện cơm bữa, quen thuộc không khiến cô bận tâm. Mỵ dửng dưng trước nỗi đau đồng loạt, nhưng Mỵ không phải không có trái tim mà đáng thương hơn đáng trách. Bởi đó cũng chính là sản phẩm của chuỗi ngày đau khổ nàng sống không bằng chết. Tuy Mỵ không bị chói nhưng thực chất họ giống nhau ở thân trâu, kiếp ngựa trong phận tôi đòi.

Có lẽ Mỵ vẫn vô cảm như thế cho đến khi thấy “ một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ cũng như chứng kiến giọt châu của loài người muốn níu giữ cuộc sống mà đành bất lực. Hình ảnh đó khiến nàng nhớ lại đời mình, “ đêm năm trước A Sử trói Mị, nhiều lần khóc không biết lau đi được”. Niềm thương thân dẫn lối tới sự thương người “ người kia việc phải chết thế”, giúp Mỵ biết căm phẫn kẻ gieo giắc cái khổ của đời mình “ Chúng nó thật độc ác”. Lúc đó, cô tưởng tượng ngay cảnh mình cởi trói cho A Phủ, đến hôm sau bị trói thay vào chỗ đó. Nhưng Mỵ không thấy sợ bởi đó chỉ là mường tượng, khoảng cách xa thực tại. Suy nghĩ đó là chất xúc tác, dẫn tới hành động logic đưa Mị tới quyết định “ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Chi tiết “ đám than đã vạc hẳn lửa” chỉ thời gian, ánh sáng ngoại lai tắt dần khi lửa lòng đã đủ sáng, đủ sưởi ấm. Khi được giải thoát, A Phủ khuỵu xuống bởi bụng đói, cật rét, miệng khát nhưng chợt thấy nghe tiếng thì thầm “ Đi ngay”, giữa ranh giới sự sống và cái chết mong manh, A Phủ bừng tỉnh “ quật sức vùng lên, chạy”.

Sau khi cởi trói cho A Phủ, “ Mị đứng lặng trong bóng tối”, câu văn ngắn đứng một dòng. Đứng trước thời gian quyết định, như ngừng lại, tựa như tấm bản lề khép mở hai trang đời của Mị hoặc ở lại hoặc trốn đi, giữa nô lệ và tự do, sống hay chết, bóng tối hay ánh sáng. Mỵ lặng đi xét suy, bởi cô vẫn lo sợ trước sức mạnh của thần quyền và uy quyền bủa vây suốt đời mình. Cuối cùng, nàng chọn nẻo đường thứ hai, nói theo hơi gió thốc “ A Phủ cho tôi đi”, “ Ở đây thì chết mất”. Mị cũng trốn chạy cái chết, hành động cởi trói cho A Phủ giống như cô tự giải cứu cho mình. Nếu nàng giải phóng cho A Phủ bằng con dao nhỏ thì khát vọng sống mở đường cho Mỵ. Chi tiết khép lại nhưng hứa hẹn bao điều tốt đẹp về cuộc sống mới.

Tác phẩm ra đời trong nhịp thở sôi nổi của văn học cách mạng, nên văn chương trở thành vũ khí, nhà văn làm chiến sĩ trên mặt trận. Lúc đó, ngòi bút của Tô Hoài cất lên góc nhìn nhân đạo độc đáo với sự cảm thông cho thân phận người lao động dưới ách thống trị của chúa đất, chúa mường.

Ngợi ca sức sống tiềm tàng của người cùng khổ, và niềm tin tưởng khả năng tự giải phóng của người lao động hướng tới tự do để đổi đời. Nhãn quan thời đại cách mạng cho tác giả có cái nhìn tích cực của đời sống nhân dân không chỉ thấy họ là nạn nhân mà thấy họ là chủ nhân khi đi từ bóng tối ra ánh sáng. Tư tưởng tác phẩm chạm tới chân lý ngàn đời của con người vào khát vọng sống, tự do nên “ Vợ chồng A Phủ” vượt lên sự băng hoại của thời gian.

Phân tích nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Mẫu 5

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hấp dẫn người đọc không chỉ ở hiện thực cuộc sống con người miền núi Tây Bắc được tái hiện với những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, những phong tục tập quán lạ lùng, mà còn ở sự bất ngờ của số phận nhân vật. Người đọc khó lường trước những bước ngoặt trên đường đời các nhân vật chính. Không ai ngờ, Mị - một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa, giàu nghị lực sống lại trở thành một người buồn bã, không còn biết nói cười vì bị dìm xuống đáy sâu của cuộc sống khổ đau. Rồi lại cũng không ngờ, chính con người nô lệ ấy đã cắt dây giải thoát một người đàn ông bị trói đứng vào cột, để rồi cùng anh ta chạy trốn khỏi nơi bị đọa đày.

Hành động cắt dây giải thoát A Phủ của Mị là một hành động lạ lùng, bởi trước đó, Mị đã rơi vào một tình trạng gần như hoàn toàn vô cảm. Những công việc nặng nhọc triền miên cả ngày lẫn đêm, những hành động vũ phu tàn bạo của chồng, sự đối xử bất nhân của nhà thống lí đã khiến Mị không còn ý thức về mình. Có những đêm giá lạnh, Mị dậy ngồi hơ lửa, A Sử đi chơi về trông thấy, ngứa chân đạp ngã bên bếp, đêm sau Mị vẫn dậy nhóm bếp hơ lửa như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Mị hành động như một kiểu phản xạ có điều kiện của loài vật. Mấy ngày đêm chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị bỏ đói khát ngoài trời giá rét, Mị vẫn không hề động lòng. Thậm chí, nếu A Phủ chết đứng, Mị cũng không thương cảm. Dường như nỗi đau khổ đã làm trái tim Mị trở nên chai lì.

Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt chảy dài trên gò má sạm đen dưới ánh lửa bập bùng của A Phủ, Mị đã động lòng thương. Mị đã biết nghĩ đến sự bất công nếu A Phủ phải chết. Tính đến sự nguy hiểm nếu cắt dây cho A Phủ trốn thoát, Mị không sợ hãi. Thế nhưng, khi dây trói đứt, A Phủ vùng chạy, chỉ còn một mình, nỗi sợ hãi lập tức ập đến. Bản năng sống còn rất mạnh cho Mị hiểu rằng, cái cọc không kia chính là sự hiện hình của cái chết. Câu nói: “A Phủ, cho tôi đi [...] Ở đây thì chết mất” cho thấy Mị vẫn luôn luôn hướng về sự sống. Mị và A Phủ đã chạy băng rừng hàng tháng trời để thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra, thoát khỏi Hồng Ngài - nơi đối với họ thực sự là địa ngục trần gian.

Việc Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài thoạt nhìn có vẻ bất ngờ, lạ lùng, nhưng xét kĩ, đó là hành động tất yếu, phản ánh bản chất của một người luôn tiềm tàng sức sống, luôn phản kháng quyết liệt. Những ngày sống với cha, khi thống lí muốn đưa Mị về làm dâu trừ nợ, Mị đã chối từ dứt khoát. Cô thà hằng năm phải cuốc nương ngô trả nợ còn hơn bị bán cho nhà giàu. Bị A Sử lợi dụng tục cướp vợ lừa bắt, Mị đã dám tìm đến cái chết để tự giải thoát. Ngay cả trong một đêm xuân, khi tâm hồn rạo rực trở lại, nếu có nắm lá ngón, Mị sẽ ăn cho chết đi, không buồn nhớ đến nữa. với Mị, sống mà bị đọa đày đau khổ, thà chết còn hơn. Những cái chết thoáng qua đầu óc Mị trong những cảnh ngộ cụ thể không làm mất đi bản năng hướng về sự sống của cô. Cho nên, trong đêm tình mùa xuân, khi trai gái cất tiếng sáo hẹn hò, khi nhớ lại những câu hát tình tứ ngày nào, khi hơi rượu đã làm chếnh choáng, Mị muốn trở lại với thời trẻ trung sôi nổi để được sống với những gì mình khao khát.

Chuỗi sự kiện đời Mị mà Tô Hoài miêu tả trong phần đầu Vợ chồng A Phủ đã giúp người đọc hình dung rõ nét bản chất của một con người. Nó cắt nghĩa vì sao giữa lúc tưởng đã đối mặt với cái chết, Mị đã trỗi dậy khát vọng sống mãnh liệt, vùng lên, băng vượt qua tất cả để tìm đến cuộc sống tự do.

............Tham khảo chi tiết tại file tải dưới đây...........

Từ khóa » đã Xám đen Lại