Phân Tích Diễn Biến Tâm Trạng Nhân Vật Tràng Trong Truyện Vợ Nhặt

Tài liệu hướng dẫn phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm nội dung gợi ý cách làm chi tiết và một số bài văn mẫu hay phân tích tâm trạng của anh Tràng trong đoạn trích Vợ nhặt (Kim Lân).

Hướng dẫn phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng

Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân để làm sáng tỏ vẻ đẹp của tình người.

1. Phân tích đề

- Yêu cầu: phân tích tâm trạng nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

- Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

2. Hệ thống luận điểm

- Luận điểm 1: Khái quát hoàn cảnh, thân phận nhân vật Tràng

- Luận điểm 2: Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng

+ Cách chọn vợ đại khái

+ Cảm giác tự đắc, niềm vui, hồi hộp, nhưng vẫn sống và sống trong cảm giác nghi hoặc

+ Sự tự ý thức về hạnh phúc

+ Những dự cảm đổi đời

Xem thêm: Sơ đồ tư duy Vợ nhặt

3. Lập dàn ý chi tiết

a) Mở bài

- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:

+ Kim Lân là nhà văn sớm nhập cuộc xã hội, là tấm gương lớn về sự nỗ lực tự học.

+ Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân đã xây dựng thành công những nhân vật chính như anh cu Tràng để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc.

- Dẫn dắt vấn đề : Diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng thể hiện giá trị nhân đạo và vẻ đẹp của tình người trong tác phẩm Vợ Nhặt.

b) Thân bài

* Khái quát hoàn cảnh ra đời và hoàn cảnh sống của các nhân vật

- Hoàn cảnh ra đời:

+ Truyện “Vợ nhặt” được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm 1945 với hai triệu người chết đói.

+ Nhân dân Việt Nam cùng lúc bị áp bức, bóc lột bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp.

+ Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo.

+ Hậu quả là cuối năm 1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi cùng.

- Hoàn cảnh sống của các nhân vật:

+ Các nhân vật phải trải qua nạn đói chưa từng có trong lịch sử.

+ Nhưng trong đói khát tăm tối, cận kề bên miệng vực của cái chết ấy, những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, ánh sáng, hạnh phúc, tương lai.

=> Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh mẽ của con người Việt Nam đã khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên truyện ngắn đặc sắc này.

* Thân phận nhân vật Tràng

- Xuất thân: là dân ngụ cư, lép vế

- Gia cảnh: nghèo khó tận cùng, tài sản vẻn vẹn là ngôi nhà rúm ró, chiếc áo nâu tàng

- Nghề nghiệp: kéo xe bò thuê kiếm sống

- Ngoại hình: xấu xí với chiếc áo nâu tàng, đầu trọc lốc, mắt gà gà, thân hình to lớn thô kệch,...

- Tính cách: dở hơi

=> Tràng là một gã trai nghèo khổ tận cùng theo đúng “mười phần mất cả mười”.

* Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng

– Chặng 1: Cách chọn vợ đại khái

+ “Chợn” (sợ).

-> Lúc đầu tỏ ra lo lắng trước cảnh nghèo “…thóc gạo này mà còn đèo bòng” sau cũng tặc lưỡi "chậc, kệ".

=> Một sự táo bạo liều lĩnh, đánh cuộc với cái đói để đi đến hạnh phúc đời thường.

– Chặng 2: Cảm giác tự đắc, niềm vui, hồi hộp, nhưng vẫn sống và sống trong cảm giác nghi hoặc

+ Trên đường đưa vợ về nhà

  • Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”
  • “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ...
  • Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

-> Niềm vui, tự đắc, hạnh phúc, hãnh diện.

+ Khi vợ vào nhà

  • Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà -> Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
  • Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
  • Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. -> biết lễ nghĩa.
  • Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp.
  • Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

-> Hồi hộp nhưng vẫn lấy lại được sự bình tĩnh cần thiết, nghi hoặc.

– Chặng 3: Sự tự ý thức về hạnh phúc

+ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”… ”Hắn xăm xăm chạy ra… căn nhà”

+ Phân tích từ “nên người” và “xăm xăm”

+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo,...)

+ Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình.

+ Thấy mình trưởng thành hơn, có trách nhiệm hơn với gia đình, với mẹ, với vợ và những đứa con sau này.

=> Từ khi nhặt được vợ, nhân vật Tràng đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Hành động nhanh, mạnh, quyết định, thể hiện sự chủ động của Tràng.

– Chặng 4: Những dự cảm đổi đời

+ Hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới trong suy nghĩ -> báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới, một tương lai tươi sáng.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo

- Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế

- Hệ thống từ láy với những ý nghĩa biểu đạt cụ thể, gợi hình, gợi cảm

c) Kết bài

- Đánh giá, cảm nhận chung về tâm trạng nhân vật Tràng.

Tham khảo thêm hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân)

Top 3 bài văn hay phân tích diễn biến tâm trạng của Tràng

Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng bài mẫu số 1:

Kim Lân là nhà văn sớm nhập cuộc xã hội. Ông là tấm gương lớn về sự nỗ lực tự học. Do hoàn cảnh gia đình khó khắn Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Cuộc đời rộng lớn chính là trường đại học của ông. Đấy là cơ sở cho những trang viết vừa bề bộn chất sống, vừa rất đỗi tinh tế, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Truyện ngắn này không chỉ hấp dẫn người đọc bởi tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, mà còn ở chỗ nhà văn đã xây dựng thành công những nhân vật chính như anh cu Tràng để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật cũng thể hiện giá trị nhân đạo và vẻ đẹp của tình người trong tác phẩm.

“Vợ nhặt” được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm 1945 với hai triệu người chết đói. Nhân dân Việt Nam cùng lúc bị áp bức, bóc lột bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo. Hậu quả là cuối năm 1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi cùng. Đó là nạn đói chưa từng có trong lịch sử. Nhưng điều kì lạ là trong đói khát tăm tối ấy, cận kề bên miệng vực của cái chết, những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, ánh sáng, hạnh phúc, tương lai. Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh mẽ của con người Việt Nam đã khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên truyện ngắn đặc sắc này.

Tràng là một gã trai nghèo khổ, cái nghèo khổ đến tột cùng. Cái nghèo ấy hiện hữu trong “chiếc áo nâu tàng”, cái nhà Tràng thì “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”, và Tràng chỉ là người kéo xe bò thuê. Đến cái tên cũng thể hiện sự thô kệch, nghèo khó: Tràng – một dụng cụ dùng trong nghề mộc. Ngòi bút của Kim Lân đã vô cùng sống động khi khắc họa bức chân dung của Tràng: ”hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra”, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạp vạm, cái đầu thì trọc lốc… Dưới ngòi bút của Kim Lân, Tràng hiện lên như một bức chân dung vẽ vội, một hình hài mà tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí, nghèo khổ, ở tầng lớp cùng đinh mà Tràng còn là người dở tính, “hắn có tật vừa đi vừa nói”, “hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ thỉnh thoảng còn ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch".

Tràng là một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể thực sự hạnh phúc. Trước tình huống “nhặt” vợ, tâm lý của Tràng diễn biến thành những chặng sau.

Chặng một là Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết định vừa tầm vơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu chủ tâm Tràng hò một câu cho đỡ nhọc:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”

Mọi sự mời mọc nhất nhất là đùa, về phía cô vợ nhặt, bàn đầu chủ yếu cũng là đùa. Tràng mới đầu cũng “chợn” nghĩa là sợ, nhưng rồi tặc lưỡi: ”Chậc! kệ” - một quyết định có vẻ như đùa đối với sự kiện trọng đại của đời người. Song hoàn cảnh ấy, cái tặc lưỡi của Tràng là một sự táo bạo liều lĩnh. Tràng đã dám đánh cuộc với cái đói, cái nghèo để đi đến miền hạnh phúc của đời thường.

Chặng hai của diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng là những cảm xúc tự đắc, hồi hộp xen lẫn niềm vui khi “nhặt” được vợ. Hạnh phúc tạo niềm vui lớn cho Tràng, nhà văn Kim Lân nhắc ta nhớ đến hình ảnh đôi mắt của Tràng lúc này sáng lên lấp lánh, nụ cười tủm tỉm. Đó là ánh mắt nụ cười của con người đang sống trong cảm giác hạnh phúc. Lần đầu tiên đi bên cạnh người đàn bà, Tràng lấy làm hãnh diện vô cùng, mốn nói một câu cho thật tình tứ nhưng chẳng biết nói thế nào thành ra những câu đối đáp với vợ trở nên cộc lốc, nhát gừng, rời rạc, bởi hạnh phúc đến với Tràng quá bất ngờ. Tràng đã sống trong cảm giác hạnh phúc: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở”. Kim Lân đã chọn được một từ chân quê nhưng rất chính xác “phớn phở” để diễn tả tâm trạng sung sướng, hồ hởi, hân hoan được biểu lộ ra ngoài gương mặt nhân vật. Khi chứng kiến hình ảnh những người dân ngụ cư tò mò quan sát sự xuất hiện của mình với người đàn bà lạ, Tràng lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc. Càng về gần nhà thì dường như chất men tình say sưa trong Tràng càng ngấm nhiều hơn và trở thành cái nghĩa tình hết sức thấm thía: “Trong một lúc, hình như Tràng quên hết những cảnh sống khổ cực ê chề… trong lòng hắn lúc đó chỉ còn lại cái nghĩa tình giữa hắn và người đàn bà đang đi bên cạnh. Có cái gì mới mẻ, lạ lắm “ở người đàn ông nghèo khổ này”. Cũng trên đường về nhà, hình tượng Tràng cũng được nhà văn Kim Lân khắc họa rất chân thực, người đàn ông ấy hình như cũng có cái nhìn bối rối khi thấy người dân xóm ngụ cư quan tâm. Nhưng có lẽ, cùng với niềm vui hạnh phúc, người ta bắt gặp ở Tràng một người đàn ông đã trưởng thành, chững trạc, điều đó bộc lộ ở cách ứng xử. Trước lời trêu đùa của đám trẻ con Tràng đã mắng yêu: “Bố ranh”. Tràng khéo léo từ chối những lời chèo khéo mời mọc của những người dân xóm ngụ cư để đưa vợ về một cách khéo léo. Tràng khoe chai dầu mới mua bằng hai hào với lí do “vợ mới vợ miết cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ”. Lời nói giản dị nhưng chứa đựng trong đó bao nhiêu nhận thức, tình cảm của nhân vật: có được vợ một cách dễ dàng nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ, ngược lại vẫn trân trọng hạnh phúc.

Khi vào nhà, với người đàn ông, lấy vợ là một việc hệ trọng trong cuộc đời, quyết định tương lai hạnh phúc. Thông thường việc này phải được hai bên cha mẹ cho phép. Nhưng việc lấy vợ của của Tràng hoàn toàn bất ngờ. Bởi vậy ban đầu Tràng cũng có tâm lí lo âu hồi hộp. Tràng bước ra sân, khi gặp mẹ, Tràng như một đứa trẻ, reo lên: “U đã về đấy!… Sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột”. Nhưng sau thoáng lo âu hồi hộp ấy, Tràng lấy lại được sự bình tĩnh cần thiết, giới thiệu vợ với mẹ bằng một câu ý nghĩa “Kìa nhà tôi nó chào u”. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu Tràng lại nói: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ… chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng mối quan hệ của mình với người phụ nữ để người nghe và bà cụ Tứ buộc phải chấp nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lí giải mối quan hệ với vợ là duyên số – một cách lý giải của một người từng trải, chín chắn, chững chạc.

Bên cạnh cảm giác tự đắc, phớn phở, hạnh phúc, Tràng vẫn còn tâm lý nghi hoặc, bàng hoàng. Nhìn cô vợ ngồi ngay giữa nhà mà Tràng vẫn không thể tin là vợ mình. “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Chao ôi hạnh phúc giữa năm đói như một điều xa xỉ, cầm nắm ở trong tay mà vẫn không tin đó là sự thật.

Những cảm xúc hồi hộp, lo lắng, hạnh phúc lẫn lộn Tràng dần chuyển sang ý thức được hạnh phúc bản thân. Con người mong hạnh phúc đến và hạnh phúc đến lượt nó có thể làm thay đổi con người. Trước hạnh phúc Tràng như lột xác, lần đầu tiên, anh ta run rẩy sống trong một cảm giác rất người: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Hắn đã có một gia đình: Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy…”. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Hai chữ “nên người” hạ xuống như một điểm nhấn xác nhận sự biến đổi về chất ở Tràng. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Là căn cốt của nhân tính. Tràng phục sinh nhân tính nhờ vươn tới ý thức về gia đình.

Song chi tiết đắt nhất của Kim Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn này:” Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn là một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Hai chữ “xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là hăm hở, háo hức trong bước chân của Tràng tìm đến hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn đấy là dấu hiệu một bước ngoặt lớn ở Tràng. So với cái dáng “ngật ngưỡng” ở mở đầu tác phẩm, hành động xăm xăm này là một đột biến không chỉ ở dáng đi mà còn là thay đổi cả số phận, tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức. Nàng Kiều xưa từng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Gót chân đến với hạnh phúc của Kiều táo bạo thế mà cứ chênh vênh, đơn độc khiến cho người đọc lo lắng bởi chỉ có một mình giữa đêm trăng trung cổ. Còn cái “xăm xăm” của Tràng mới vững khỏe, tự tin làm sao, bởi Tràng có cả một gia đình. Và đó là cái xăm xăm của con người trong hạnh phúc.

Khi ý thức được tương lai hạnh phúc của riêng mình, tâm trạng Tràng chuyển biến sang một dự cảm đổi đời. Khi miếng cám đắng chát, ngậm ứ xuất hiện trong âm thanh tiếng trống thu thuế, dồn dập, là lúc cuộc sống đã bị đẩy đến miệng vực của cái đói, cái chết thì cũng là lúc hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên làm nên một câu rất quan trọng của tác phẩm: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Lá cờ đỏ - hình tượng thoáng qua ấy khi được đặt vào đoạn kết mang bao sức nặng về tư tưởng và nghệ thuật cho thiên truyện. Nếu vắng chi tiết này tác phẩm sẽ xa lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự có mặt của chi tiết nghệ thuật này khiến cho câu chuyện có một cái kết mở nhờ thế thiên truyện đã đóng lại. Nhưng số phận nhân vật vẫn tiếp tục được vận động theo hướng lạc quan, đi lên chứ không bế tắc như anh Pha của Nguyễn Công Hoan, chị Dậu của Ngô Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao… Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng đã vẫy lên như một tín hiệu đổi đời, một tương lai tươi sáng.

Qua hình tượng nhân vật Tràng, Kim Lân còn khẳng định hiện thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi dậy, vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn cảnh để khẳng định tư cách ngời sáng của mình. Xét cho cùng, hình tượng nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân thể hiện được thành công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt của con người vào sự sống: “sự sống chẳng bao giờ chán nản” (Xuân Diệu), chính là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao cả và rất riêng của Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt bên cạnh những sáng tác viết về người nông dân trước sự thử thách của cái nghèo, cái đói.

  • Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng bài mẫu số 2:

Nhà văn Kim Lân quê ở làng Phù Lưu, thuộc xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn nay là làng Phù Lưu, thuộc phường Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh. Lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn, Kim Lân sớm phải nghỉ học để đi làm, ông tham gia sáng tác nghệ thuật từ rất sớm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941, chủ đề trong các tác phẩm của ông phần lớn về nông thôn Việt Nam với những bức bối trong cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc cho ngòi bút của nhà văn. Tác phẩm này đã tái hiện sinh động đầy chân thực về nạn đói thê thảm và khủng khiếp năm 1945, qua đó khẳng định rõ nét vẻ đẹp tình người và sức sống tiềm tàng kì diệu của những người nông dân nghèo khổ.

Lấy bối cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 khi mà có những hơn hai triệu người chết đói, nhà văn Kim Lân đã tái hiện không khí cuộc sống làng quê đìu hiu cô quạnh cùng với sự lầm than của người dân lúc bấy giờ. Nhân dân ta thời bấy giờ đang trong ách bóc lột và áp bức bởi song kìm của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, nhân dân ta bị quân Nhật bắt nhổ lúa để trồng đay, trong khi ấy thì thực dân Pháp lại ra sức vơ vét của cải thóc gạo đến kiệt cùng. Dẫn đến nạn đói lịch sử khủng khiếp đó. Cuộc sống của người dân lúc bấy giờ vô cùng tù túng, đói kém bởi cái ăn khiến cái chết có thể đến bất cứ khi nào. Có thể thấy, hoàn cảnh sống éo le này đã tạo nên sự thắt nút cho câu chuyện. Khi phân tích tình huống truyện hay tìm hiểu diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt, người đọc không thể không nhắc đến điều này. Nhưng trong cái tăm tối ấy, những người nông dân vẫn không nghĩ đến cái chết mà lại luôn hướng về sự sống, về tương lai hạnh phúc.

Chỉ qua những lời miêu tả của nhà văn Kim Lân, tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt cũng như thân phận nghèo khó của hắn hiện lên rõ nét. Là một gã trai nghèo khổ tận cùng theo đúng “mười phần mất cả mười”. Nghề nghiệp của Tràng cũng chỉ là đi kéo xe bò. Thân hình thô kệch, đến cái tên thôi cho thấy sự lép vế xấu xí. Tràng – vốn là một dụng cụ của nghề làm mộc. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt, người đọc nhận thấy qua ngòi bút tinh tế của Kim Lân, gã trai này hiện lên như một bức họa được vẽ vội, là một hình hài mà tạo hóa đã đẽo gọt quá sơ sài. Không chỉ thế, Tràng còn là một gã trai dở “hắn lảm nhảm than thở”, “hắn có tật vừa đi vừa nói”…

Tràng có thể là một chàng trai xấu xí, nghèo hèn nhưng lại là một chú rể hạnh phúc khi hắn có vợ. Đầu tiên, Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết định được xem như nhanh chóng, liều lĩnh, tầm vơ tầm phào. Ban đầu, hắn đâu có nghĩ sẽ lấy được vợ trong cái hoàn cảnh đó, mà chỉ là hò vu vơ vài câu”:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh…”

Một lời hò giải lao cho những phút mệt nhọc, một lời hát vu vơ mà thoang thoảng dư vị mời mọc pha chút bông đùa. Còn cô vợ nhặt, ban đầu Thị tưởng nghĩ là đùa vui. Tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt bắt đầu có những tình tiết thú vị. Hắn “chợn” với một chút e sợ, nhưng rồi cũng tặc lưỡi mà “chậc, kệ!” với một quyết định mà như quyết định cả cuộc đời của một người.

Một sự táo bạo liều lĩnh chỉ với cái tặc lưỡi – có lẽ chỉ những người “dở tính” mới có thể nhanh chóng đưa ra sự lựa chọn như vậy. Anh Tràng nghèo hèn ấy đã dám đánh cược với số phận, đánh cược với cái đói, với lưỡi hái tử thần để đi đến bến bờ của hạnh phúc đời thường.

Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt được tiếp nối ở chặng tiếp theo, khi những cảm xúc vui mừng xen lẫn nghi hoặc cùng chút lo lắng. Nhà văn Kim Lân đã đặc tả rất thành công tâm trạng nhiều cảm xúc của Tràng chỉ với những chi tiết đắt giá như đôi mắt sáng lên lấp lánh, nụ cười tủm tỉm.

Có thể nói, đấy là nụ cười lâng lâng của hạnh phúc. Lần đầu tiên đi cạnh một người đàn bà, nhân vật Tràng cảm thấy hãnh diện vô cùng. Hắn cũng muốn nói đôi câu tình tứ đó, nhưng mà lại chẳng biết nói như nào cho hợp. Để rồi cuộc nói chuyện ấy được Kim Lân ghi lại chỉ với những câu đối đáp e thẹn cộc lốc, rời rạc và nhát gừng.

Hạnh phúc tưởng xa vời khó có thể với đến, ấy vậy mà lại mỉm cười với Tràng quá đột ngột. “Mặt hắn có vẻ gì đó rất phởn”. Một tâm trạng hồ hởi, vui sướng đầy hạnh phúc được diễn tả qua một từ ngữ chân phương “phớn phở”. Khi đi cùng Thị trở về, khi thấy hình ảnh những người dân ngụ cư tò mò quan sát, Tràng lấy làm thích thú để rồi cái mặt cứ vênh vênh lên tự đắc. Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt cứ như theo một tiến trình hợp lí trong tâm lí rất đời thường của con người khi được sở hữu hạnh phúc.

Nhà văn Kim Lân đã khắc họa rất chi tiết và cụ thể hình ảnh Tràng trên đường về nhà. Kim Lân diễn tả rất thành công cách cư xử của Tràng với lũ trẻ con trêu đùa, để gã trai này mắng yêu lũ trẻ “Bố ranh!”. Gã trai tưởng chừng ngờ nghệch này cũng khéo léo biết mấy để đưa vợ về nhà trước những cặp mắt tò mò và những lời trêu đùa. Hắn khoe vợ chai dầu mới với những lời dung dị mà chứa đựng biết bao nhiêu tình cảm và nhận thức của nhân vật. Có được vợ một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà xem thường vợ, ngược lại lại càng trân trọng và yêu thương vợ hơn trong cái hoàn cảnh ấy.

Từ cách chọn vợ đái khái với câu hò bông đùa bâng quơ, đến những cảm giác vui sướng tự đắc xen chút e ngại, thì đến đây Tràng đã tự ý thức về bản thân, về sự hạnh phúc…

Khi về nhà, Tràng đã ý thức được một người đàn ông có vợ là chuyện hệ trọng cả đời cũng như liên quan rất nhiều đến tương lai. Cưới hỏi thông thường cần sự cho phép của hai bên, khi cha mẹ đồng ý. Ấy vậy mà việc này diễn ra đột ngột và bất ngờ với Tràng. Bởi thế mà khi dẫn vợ về nhà, ban đầu hắn cũng có chút lo âu hồi hộp. Chính tâm lí này đã dẫn đến hành động hắn bước ra sân để gặp mẹ và reo lên như một đứa trẻ cùng với những lời nói quen thuộc hàng ngày để dẫn chuyện cho mẹ.

Chỉ một lúc sau, qua sự lo ấy đó, Tràng đã lấy lại được sự bình tĩnh của mình, giới thiệu mẹ người vợ của mình “kìa nhà tôi nó chào u” để rồi lại tiếp tục “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ, chẳng qua nó cũng chính là cái số…”. Bằng một vài câu nói giản đơn ấy, Tràng đã giới thiệu vợ với mẹ cũng như xác định được mối quan hệ rõ ràng của mình với Thị.

Những sự hồi hộp xen lẫn lo lắng và hạnh phúc lẫn lộn ấy dần chuyển sang sự tự ý thức về trách nhiệm của bản thân. Chính hạnh phúc đã làm thay đổi bản thân con người. Lần đầu tiên, Tràng run rẩy với những cảm xúc ngỡ ngàng “bỗng nhiên hắn thấy gắn bó thương yêu với cái nhà của hắn lạ lùng”.Vậy là từ giờ hắn đã chính thức có vợ, đã trở thành một người chồng, đã có gia đình hạnh phúc những niềm vui giản dị.

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt chúng ta cần tìm hiểu kĩ những thay đổi trong việc tự nhận thức của Tràng. Cái gốc của sự biến đổi trong tâm lý nhân vật chính là gia đình. Đó chính là cội nguồn của hạnh phúc, của những mong ước và khát khao những niềm vui đời thường. Nhân vật Tràng, cũng vì thế mà phục sinh nhân tính vươn tới ý thức cao cả về hạnh phúc gia đình.

Chi tiết đắt giá nhất trong diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng có lẽ là hình ảnh “hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm việc gì để tu sửa căn nhà…”. Đó chính là sự háo hức đầy hăm hở của một thanh niên đã có gia đình, đã trở thành người có vợ. Đây chính là bước ngoặt lớn giúp Tràng thay đổi cuộc đời mình.

So với cái ngờ nghệch, cái ngật ngưỡng ở phần đầu của tác phẩm, thì đến đây sự nhận thức ở nhân vật đã thay đổi đáng kể. Tràng nhận thức được số phận và cuộc đời của mình. Từ sự nghèo hèn, đau khổ, tối tăm đến chỗ hạnh phúc và tự ý thức chúng là dấu mốc quan trọng khiến tương lai của hắn được thay đổi tích cực.

Việc nhận thức được tương lai và hạnh phúc của mình, tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt cũng có những nét bứt phá lớn. Hắn có một dự cảm về đổi đời, về một miền no ấm… Miếng cám đắng chát ngậm ứ xuất hiện cùng với tiếng trống dồn dập trong cảnh thu thuế cũng là lúc trong tâm trí hắn hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Khi mà cuộc sống bị đẩy tới đường cùng bởi cái đói cái chết rình rập thì cũng là lúc mà những tia hi vọng xuất hiện.

Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt đi theo tiến trình phù hợp của tâm lí con người. Sự hi vọng qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng ở phần cuối tác phẩm khiến cho câu chuyện có một cái kết mở rất sâu sắc. Những nhân vật như Tràng, như Thị, như bà cụ Tứ… vẫn tiếp tục được vận động theo hướng tích cực đầy lạc quan, sự đi lên rất đúng đắn chứ không hề bế tắc như chị Dậu của Ngô Tất Tố, anh Pha của Nguyễn Công Hoan hay Chí Phèo của Nam Cao…

Qua việc diễn tả tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã phản ánh rõ nét sự đen tối, mờ mịt, nghèo khổ trong xã hội trước năm 1945. Đồng thời qua đó, Kim Lân cũng phát hiện những vẻ đẹp tâm hồn và tính cách đáng trân quý của những người nông dân nghèo khổ. Cũng chính bởi vậy mà những trang viết của nhà văn Kim Lân luôn rất giàu chất nhân văn cao đẹp.

Nhà văn nông thôn đầy lỗi lạc của chúng ta đã đi vào nơi vĩnh hằng, ấy vậy mà những người yêu văn học vẫn thường xuyên nhắc đến ông bởi những tác phẩm kiệt tác và những di sản tinh thần mà ông đã để lại. Vợ nhặt chính là sự thành công mà Kim Lân để lại cho muôn đời sau.

» Sưu tầm và tuyển chọn những bài văn mẫu 12 phân tích truyện Vợ Nhặt của Kim Lân

Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng bài mẫu số 3:

Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn với đề tài quen thuộc là hình ảnh nông thôn và người nông dân. Khác với tác giả Tô Hoài – ông không khai thác cuộc sống của người dân nơi rẻo cao Tây Bắc mà lại lặn sâu vào cuộc sống của người dân quê – những con người gắn bó thiết tha với quê hương và cách mạng. Trong đó, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho tài năng của Kim Lân. Và trong suốt những trang sách kể về tình huống nhặt vợ có một không hai trong nền văn học Việt Nam, diễn biến tâm lí nhân vật Tràng đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Nạn đói năm 1945 đã khiến cho hơn hai triệu người chết, tình hình đất nước rơi hẳn vào cảnh u ám, tối tăm: “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây/ Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy/ Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ” (Văn Cao). Nhiều gia đình trở thành nạn nhân, rơi vào cảnh khốn cùng, bị đe dọa bởi miếng cơm manh áo, trong đó, có gia đình Tràng. Tràng là một thanh niên xấu xí, nghèo khổ, mưu sinh bằng nghề kéo xe bò thuê, cùng sống với mẹ già nơi xóm ngụ cư. Giữa lúc cái đói đang bám riết sự sống, Tràng dẫn về một người phụ nữ xa lạ, đúng hơn là một người vợ anh mới “nhặt” được bằng bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa, nửa thật. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng đón nhận người con dâu đáng thương kia bằng tâm trạng ngổn ngang, âu lo. Và kết thúc tác phẩm là chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói được đan cài cùng niềm tin tưởng le lói vào tương lai qua hình ảnh lá cờ trong đầu Tràng “Trong đầu Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Trong suốt đoạn trích, ta có thể dễ dàng quan sát tâm trạng của Tràng qua sự kiện nhặt vợ: Tràng trước khi nhặt được vợ và Tràng sau khi nhặt được vợ.

Trước khi nhặt được vợ, sự gặp gỡ giữa Tràng và thị chẳng có gì đặc biệt. Thâm chí, đó còn chẳng được gọi là một cuộc gặp gỡ hay một cuộc hẹn hò đúng nghĩa. Họ chỉ là những người lao động nghèo khổ, những người vật vờ đói khát trong thảm cảnh lịch sử. Họ chỉ là những nạn nhân của mất mát đau thương, ngày ngày đi trên lằn ranh của sự sống và cái chết. Mới lần đầu gặp gỡ, “thị cười tít mắt” với Tràng sau khi đẩy xe bò lên dốc tỉnh. Gặp gỡ lần thứ hai, thị “sưng sỉa, cong cớn, chao chát, chỏng lỏn” đòi ăn cho bằng được. Cô dâu của Tràng đích thị là nạn nhân của cái đói. Chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận như thế, Tràng và thị đã thành vợ thành chồng. Tràng hò chơi cho đỡ nhọc, Tràng mời thị bốn bát bánh đúc vì lời thất hứa và sự xót thương cho hoàn cảnh: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” và cùng lời nói đùa: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng ai ngờ được: “Nói thế Tràng cũng được là nói đùa, ai ngờ thị về thật”. Tràng thật sự thấy lo lắng cho cuộc hôn nhân quá đỗi bất ngờ: “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng sau đó, sự lo lắng của Tràng bắt đầu nhường chỗ cho hạnh phúc mới – hạnh phúc lứa đôi – dù là lứa đôi khốn khổ và bất hạnh: “Chậc, kệ!”.

Sau khi nhặt được vợ, tâm trạng Tràng có sự thay đổi rõ rệt. Có ai ngờ được làm câu hôn ngờ nghệch đã thay đổi tâm trạng và số phận của những con người trong gia đình đói khổ. Đời sống tinh thần chuyển những gam màu u ám, chết chóc sang ấm áp và hi vọng. Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khao khát hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. Khi chấp nhận thị làm vợ, Tràng đã thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của một người chồng: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…” Tràng còn hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”. Trên đường về nhà, Tràng cảm nhận được niềm vui mới đang len lỏi trong từng nấc thang suy nghĩ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Khi đi bên thị, Tràng rụt rè bỡ ngỡ khác thường, khi thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia. Tràng muốn nói bông đùa đôi câu nhưng lại cứ cảm thấy ngường ngượng. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã cho người đọc thấy được diễn biến tâm lí chân thực, sinh động của Tràng. Tràng hôm nay đã thực sự khác với Tràng hôm qua. Một cuộc hôn nhân đã khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc thầm kín bên trong, bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp chưa có điều kiện bộc lộ. Cảnh đời tối tăm, sự đói khát dường như đã tạm lùi để còn lại là niềm vui sướng miên man: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve dọc sống lưng”. Hạnh phúc đã thực sự làm thay đổi mọi thứ.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng cảm thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Tràng vẫn sung sướng tột bực, sung sướng đến mức không dám tin là mình đã có vợ - lại có vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, éo le như thế này: “hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Trong lúc đợi bà cụ Tứ về, Tràng nôn nóng sốt ruột, cứ đi đi lại lại. Chưa bao giờ hắn lại thấy nôn nóng như thế. Phải chăng Tràng nóng lòng thông báo tin vui này cùng mẹ, nóng lòng khoe cái hạnh phúc đơn sơ giản dị này cho những người thương yêu? Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con. Anh không phải là người vô tư, nông cạn mà vô cùng sâu sắc và hiểu đời. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là hệ trọng cả đời, ý thức được sự thay đổi tinh thần của mình. Đây là khoảnh khắc thiêng liêng mà trong hoàn cảnh đói kém đương thời, không phải ai cũng có được.

Sáng hôm sau, cảm nhận đầu tiên của Tràng là: “Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng cảm động khi thấy hình ảnh mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa, cảm động nghe tiếng chổi sàn sạt trên sân. Sự yêu thương nảy nở từ bên trong: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Tràng bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của sự sống, suy nghĩ về cuộc đời ở tương lai. Khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên dữ dội, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi. Tràng nghĩ đến cảnh “những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”.

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được tài miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Lúc này đây, Tràng không còn là nhân vật khô cứng trên trang giấy nữa mà như một con người thật hiển hiện trước mắt người đọc. Đặt nhân vật trong một hoàn cảnh độc đáo cùng với ngôn ngữ phù hợp với tính cách, Kim Lân đã khắc họa thành công giá trị hiện thực cùng giá trị nhân đạo cao cả, thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, về tương lai như lời ông từng nói về tác phẩm: “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.

Tóm lại, qua diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn và tính cánh nhân vật. Chính những con người như Tràng, như thị, như bà cụ Tứ đã làm cho ta thực sự yêu thương, khâm phục và kính trọng.

Những bài văn hay lớp 12 chọn lọc nhất / Đọc Tài Liệu

Từ khóa » Cảm Nhận đoạn Trích Lá Cờ đỏ Bay Phấp Phới