Phân Tích Khổ 2 Bài Thơ Bếp Lửa Hay Nhất (6 Mẫu) - Văn 9

TOP 10 bài Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa hay nhất của các bạn học sinh giỏi trong cả nước, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em thấy rõ hoàn cảnh khó khăn, cơ cực mà người nông dân Việt Nam phải trải qua.

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa

Khổ 1 Bếp lửa đã đưa người đọc về với những năm tháng tuổi thơ cơ cực nhưng ấm áp bên bà. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để hiểu rõ hơn bài thơ Bếp lửa được học trong chương trình Văn 9, Bài 6 sách Ngữ văn 8 Kết nối tri thức Tập 2.

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

  • Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa
    • Dàn ý 1
    • Dàn ý 2
    • Dàn ý 3
  • Phân tích khổ 2 Bếp lửa
  • Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 1
  • Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2
  • Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 3
  • Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 4
  • Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 5
  • Đoạn văn cảm nhận khổ 2 bài thơ Bếp lửa
    • Đoạn văn 1
    • Đoạn văn 2
    • Đoạn văn 3
    • Đoạn văn 4

Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa

Dàn ý 1

1. Mở bài:

  • Giới thiệu về nhà thơ Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
  • Giới thiệu khái quát về nội dung chính của khổ thơ thứ 2.

2. Thân bài:

  • Mùi khói của bếp lửa đã trở thành một phần thân thuộc của tuổi thơ "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói"
  • Bên bếp lửa cháu cùng bà sẻ chia những bữa cơm nghèo, mùi khói hun nhuộm cả tuổi thơ cơ cực mà ấm áp.

→ Mùi khói bếp trở nên gắn bó, thấm vào từng hơi thở nồng nàn của quê hương.

- Kí ức về nạn đói, về thời gian vất vả, cơ cực:

  • Nạn đói bao trùm làng xóm "đói mòn, đói mỏi".
  • Bố mưu sinh chăm lo cho gia đình, bươn chải ngày ngày đến héo mòn sức khoẻ " khô rạc ngựa gầy".
  • Cái đói, cái nghèo dai dẳng của quê hương đã in sâu trong tâm trí của nhà thơ.

- Nhớ về những năm tháng xưa, sống lại trong lòng nhà thơ là nỗi nghẹn ngào "đến giờ sống mũi còn cay"

- Bao kí ức yêu thương và cả những xót xa, cay đắng của tuổi thơ cơ cực, đói khổ vẫn còn vẹn trong tâm trí nhà thơ.

3. Kết bài:

  • Khái quát về giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ.

Dàn ý 2

I. Mở bài:

  • Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
  • Giới thiệu nội dung khổ hai: những kỉ niệm năm lên bốn tuổi

II. Thân bài:

- Dẫn dắt: từ hình ảnh bếp lửa đã khơi dậy cảm xúc về người bà đáng kính và những kỉ niệm năm tác giả lên 4 tuổi

- Phân tích:

- Kỉ niệm của những năm tháng lên 4 tuổi là mùi khói từ căn bếp của bà

Lên 4 tuổi cháu đã quen mùi khói

+ Mùi khói đã gợi dậy biết bao cảm xúc

- Hình ảnh người bố

  • Đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
  • Bươn trải vì cuộc sống khốn khó, mong gia đình thoát nghèo nhưng vẫn "đói mòn đói mỏi"

"đói mòn đói mỏi": cái đói kéo dài dai dẳng

=> Nạn đói năm 1945 hoành hành, cướp đi mạng sống của biết bao nhiêu người

=> Quá khứ hiện về nhuốm màu bi thương

- "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

  • Cái đói hoành hành đã khắc sâu vào tâm trí đứa trẻ mới lên 4 tuổi
  • Một tuổi thơ không tràn ngập sắc hồng như bao người vẫn nghĩ

- Liên hệ mở rộng

- Khái quát lại nghệ thuật

  • Sử dụng thành ngữ "đói mòn đói mỏi"
  • Giọng thơ trĩu nặng nỗi đau
  • Chi tiết ngôn từ mộc mạc, giản dị

III. Kết bài:

  • Khái quát lại nội dung của khổ thơ.
  • Đánh giá, nhận xét, cảm nhận của cá nhân

Dàn ý 3

1. Mở bài:

  • Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và bài thơ "Bếp lửa".
  • Dẫn dắt vào khổ thơ thứ 2 của tác phẩm: Những kí ức đầy xúc động về tuổi thơ được sống bên bà.

2. Thân bài:

a, Tuổi thơ cơ cực với những kí ức kinh hoàng về nạn đói:

- Mùi khói bếp là một phần của tuổi thơ khó khăn, cơ cực mà ấm áp, gắn với những bữa cơm đạm bạc, với người bà tần tảo.

- Nạn đói kinh hoàng năm 1945:

  • "năm đói mòn đói mỏi": Cái đói bao trùm làng xóm.
  • Hình ảnh người cha vất vả đi đánh xe, bươn chải đến "khô rạc ngựa gầy".

=> Kí ức về cái đói, cái nghèo in sâu vào tâm trí người cháu.

b, Cảm xúc của nhân vật trữ tình:

- "Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu": Kí ức tuổi thơ dần mờ nhạt nhưng cảm giác cay của khói bếp vẫn còn y nguyên.

- "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!":

  • Những kí ức về tuổi thơ in đậm trong lòng người cháu đến tận bây giờ: có cả cay đắng, xót xa, cơ cực của sự đói khổ nhưng cũng có cả những yêu thương, đùm bọc của bà.
  • Nỗi nghẹn ngào mỗi khi nhắc đến khiến người cháu cay sống mũi.

3. Kết bài:

  • Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của khổ thơ thứ 2 trong bài "Bếp lửa".
  • Liên hệ mở rộng.

Phân tích khổ 2 Bếp lửa

Chiến tranh dai dẳng đã đem lại bao mất mát, đau thương. Kí ức về những năm tháng kinh hoàng ấy vẫn còn ám ảnh con người đến tận ngày hôm nay. Nhà thơ Bằng Việt cũng đã nhắc đến chủ đề này qua khổ thứ hai của thi phẩm "Bếp lửa". Đoạn trích tuy chỉ vỏn vẹn năm câu nhưng cũng phần nào cho độc giả thấy được hoàn cảnh khó khăn, cơ cực mà người nông dân Việt Nam phải trải qua trong những năm 45 của thế kỉ XX.

Trước tiên, người đọc được đến với kí ức của nhân vật trữ tình về năm tháng tuổi thơ cơ cực:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói"

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã giới thiệu đến người đọc về hình tượng bếp lửa thân thuộc, gần gũi thì đến khổ thơ này, "mùi khói" lại hiện hữu và gắn liền với kí ức của đứa cháu nhỏ. Đó là những buổi sớm cùng bà ngồi nhóm bếp, là kỉ niệm về những bữa cơm đạm bạc. Mùi khói bếp ấy tượng trưng cho tuổi thơ cơ cực, khó khăn nhưng vô cùng ấm áp bên bà.

Tiếp tục đến những câu thơ tiếp theo. Người đọc lại được theo dòng kí ức của nhân vật để ngược lại về nạn đói kinh hoàng năm 1945:

"Năm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy"

Cụm từ "đói mòn đói mỏi" đã vạch ra sự thật trần trụi của cả một xã hội lúc bây giờ. Cái đói, cái khổ không chỉ là nỗi ám ảnh của riêng tác giả mà còn là kí ức kinh hoàng của toàn bộ dân tộc Việt Nam nói chung. Sự kiện ấy đã gây ra bao lầm than, cứa sâu vào nỗi đau trong lòng con người. Ở đây, hình ảnh người bố xuất hiện như một minh chứng rõ ràng cho nạn nhân của cái đói, cái khổ. Vì nghèo, cha mẹ phải gửi con ở với bà để đi lao động kiếm sống. Người cha làm công việc tay chân, vất vả đến "khô rạc ngựa gầy". Chỉ bốn chữ ngắn gọn thôi nhưng lại ẩn chứa bao xót xa, cay đắng cho số phận của biết bao người lao động nghèo trong xã hội bấy giờ. Chính những kí ức kinh hoàng đã hằn sâu vào tâm trí đứa trẻ bốn tuổi cũng như rất nhiều thế hệ người dân Việt Nam, mãi không thể xóa nhòa.

Để rồi sau khi nhớ lại những kỉ niệm đau thương ấy, cảm xúc của người cháu càng nghẹn ngào, xót xa:

"Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

Trong những buổi sớm mai cùng bà ngồi nhóm bếp, đứa cháu nhỏ đã quen với mùi khói. Nhân vật trữ tình cảm nhận được trọn vẹn cái nồng từ làn khói bếp. Vì những kí ức khắc sâu, đến tận bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, người cháu vẫn thấy "sống mũi còn cay". Đó vừa là cái cay do khói từ bếp củi, vừa là sự xúc động không thể kìm nén khi nhớ lại hoàn cảnh của bao con người trong những năm tháng đói khổ. Nhưng bên cạnh đó, đứa cháu nhỏ vẫn còn tình yêu thương và sự bao bọc của bà. Chính điều này đã tạo nên sức mạnh để hai bà cháu vượt qua hoàn cảnh bi thảm khi xưa.

Bằng lời thơ giản dị, chân thực cùng những hình ảnh giàu sức gợi, Bằng Việt đã thành công tái hiện bức tranh hiện thực tàn khốc của xã hội Việt Nam giữa thế kỉ XX. Ông còn làm nổi bật sức mạnh của tình cảm gia đình, tình yêu thương, đùm bọc giữa hai bà cháu. Qua đó, độc giả càng thêm xót xa cho những con người lao động nghèo khổ. Đồng thời, thêm trân quý những giá trị đẹp đẽ mà tác giả muốn truyền tải.

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 1

Tình cảm gia đình mà một chủ đề lớn trong thơ văn Việt Nam, đã có rất nhiều cây bút tài năng, nhiều tác phẩm xuất sắc viết về gia đình - nguồn cội, chốn yêu thương trong cuộc đời mỗi người. Chúng ta từng xúc động trước tình cảm của ông Sáu và bé Thu trong Chiếc lược ngà, từng rung động trước tấm lòng người mẹ trong Con cò của Chế Lan Viên, và chắc hẳn chúng ta cũng không thể nào quên được hình ảnh một người bà tận tụy, sớm hôm tảo tần, vì con vì cháu, giàu tình yêu thương trong Bếp lửa của Bằng Việt. Bài thơ viết về bà, về những kí ức tuổi thơ gian khó nhưng ấm áp bên bà, đặc biệt trong khổ thơ thứ 2, tác giả đã tái hiện đầy xúc động về những ngày tháng sống bên bà:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!"

Khi trưởng thành, những kỉ niệm về những ngày tháng sống bên bà vẫn là những kí ức đẹp đẽ, là "hành trang" ấm áp, giá trị nhất mà người cháu luôn mang theo bên mình.

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói"

Kí ức năm lên bốn tuổi vẫn còn đó, mùi khói của bếp lửa đã mở ra những kỉ niệm về tuổi thơ gian khó và cả những nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Mùi khói của bếp lửa hay vị yêu thương được hun đúc từng ngày khi cháu bên bà.

Trong những năm tháng ấy, bên bếp lửa cháu cùng bà sẻ chia những bữa cơm nghèo, mùi khói hun vương vấn trong kí ức tuổi thơ cơ cực mà ấm áp. Mùi khói không biết tự bao giờ trở nên quen thuộc, trở thành một phần không thể thiếu của tuổi thơ cháu. Tuổi thơ của người cháu tuy không nhuốm sắc hồng viên mãn của sự đủ đầy nhưng vẫn đầy niềm vui khi được sống trong tình yêu thương và che chở của người bà kính mến.

"Năm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy"

Một hiện thực trần trụi của những năm tháng tuổi thơ được tái hiện bằng lời thơ trần thuật đầy tinh tế. Hai câu thơ chỉ với 16 tiếng mà đã mở ra cả bầu không khí đói khổ, cùng cực của người dân lúc bấy giờ. Trong nạn đói, ai cũng rơi vào cảnh khốn cùng, ngôi làng nhỏ của tác giả phải chịu đói, chịu lầm than trước sự tàn phá của lũ giặc cướp nước "đói mòn", "đói mỏi". Bố mưu sinh chăm lo cho gia đình, bươn chải ngày ngày đến héo mòn " khô rạc ngựa gầy". Cái đói, cái nghèo dai dẳng của quê hương đã in sâu trong tâm trí tác giả khi còn là một cậu bé "lên bốn". Đọc đến những câu thơ thực ấy, khiến ai cũng ngậm ngùi, xót xa bởi những thăng trầm nơi làng quê năm ấy, đồng cảm với những nhọc nhằn, vất vả của bao người lao động nghèo cơ cực, khốn khó.

Nhớ về những năm tháng xưa, lòng nhà thơ như nghẹn lại:

"Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

Những kí ức in đậm trong tâm trí khiến người cháu như cảm nhận trọn vẹn hương vị cay nồng quen thuộc của mùi khói để giờ đây khi nghĩ lại mọi cảm xúc như vỡ òa khiến "sống mũi còn cay". Bao kỉ niệm yêu thương bên bà và cả những xót xa, cay đắng của cuộc sống cơ cực, đói khổ vẫn còn vẹn nguyên.

Bằng bút pháp tả, kể kết hợp với biểu cảm, ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị nhưng giàu sức gợi, chỉ với năm câu thơ ngắn thôi mà tác giả đã lay động tâm can người đọc. Mùi khói từ bếp lửa, từ bàn tay gầy guộc mà bà nhen nhóm đã khơi dậy trong lòng cháu bao nhiêu tình cảm thiết tha, hồn hậu mà đẹp đẽ. Đọc khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương mình, chút gì đó nghẹn ngào, xúc động và tự hào về những người bà một đời tần tảo bên cháu con:

"Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thươngDù da dẻ khô đi tấm lòng không hẹp lạiGiàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãiChỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm"

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đang ở nước ngoài, bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động về tình bà cháu đồng thời thể hiện lòng kính trọng, biết ơn của cháu đối với bà, với gia đình, quê hương.

Hình ảnh bếp lửa như khơi dậy toàn bộ hình ảnh của một tuổi thơ đầy gian khổ, khó nhọc của tác giả bên người bà của mình. Có thể nói “bếp lửa’ đã khơi nguồn cảm xúc về bà, những kỉ niệm như sống dậy:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.

“Đói mòn đói mỏi” là một câu thành ngữ, gợi về một cái đói kéo dài khiến con người ta kiệt quệ. Những vần thơ như một thước phim tái hiện khoảng thời gian ấu thơ của cháu có nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn, có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Bao kỉ niệm ùa về, lay động lòng người:

“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Mùi khói bếp cay nồng như đọng lại, mới ngày hôm qua. Nó nhấn mạnh xoáy sâu vào tiềm thức nhà thơ. Đọc thơ mà ta cũng thấy cay cay nơi đầu mũi. Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi nhi đồng, “bếp lửa” đã thổi bùng kỉ niệm của tuổi thiếu niên khi đất nước còn trong cảnh chiến tranh.

Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 3

Gia đình là cái nôi êm, tổ ấm, là điểm tựa vững chắc của mỗi người. Vì lẽ đó mà tình cảm gia đình đã chẳng còn xa lạ trong thơ ca Việt Nam từ muôn đời. Cũng như bao nhà thơ khác, Bằng Việt đã mạnh dạn bày tỏ tình cảm chân thành của mình với người bà đáng kính qua bài thơ "Bếp lửa". Đây là một trong những bài thơ rất hay và cảm động về tình cảm bà cháu và những năm tháng sống bên bà mà khổ thơ thứ hai đã bày tỏ được những kí ức tuổi thơ năm lên bốn tuổi. Đọc thơ ta như được sưởi ấm cùng Bằng Việt hơi lửa ấm áp của tình người giàu ân nghĩa, cao đẹp.

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói………………………..……………Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

Bài thơ "Bếp lửa" được viết năm 1963 khi ấy Bằng Việt đang du học ngành luật ở nước ngoài. Bài thơ chính là lời tâm tình thủ thỉ nhẹ nhàng của đứa cháu ở nơi xa hướng về bà cũng nỗi nhớ quê hương, gia đình khắc khoải. Chiều sâu của nỗi nhớ nằm trong dòng kí ức của tuổi thơ và một tuổi thơ không mấy may mắn và rực rỡ là năm lên bốn tuổi:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói"

Kí ức năm lên bốn tuổi hiện về trong hình ảnh của làn khói rồi khói hun. Đó là dấu ấn về cuộc sống của hai bà cháu trong những năm tháng ngày xưa ấy. Cũng trong hình ảnh làn khói mờ ảo là tình cảm khi tỏ, khi mờ, lúc da diết khi thì bâng khuâng. Tuổi thơ ấy không phải nhuộm một sắc hồng viên mãn mà là những ngày tháng của cái đói rình rập:

"Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy"

Hình ảnh của bố – trụ cột gia đình hiện lên đầy xót xa: khô rạc ngựa gầy. Bố đang cố gắng gượng mình bươn trải cho cuộc sống gia đình nhưng có cố gắng đến mức héo mòn sức sống thì vẫn không đủ chăm lo chu toàn được cho cả gia đình. Dường như lời thơ đang hướng ta về với nạn đói năm 1945. Cái đói dai dẳng, đeo bám đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm, hàng nghìn người. Tuổi thơ ấy, nhà thơ đã phải chứng kiến một viễn cảnh nhuốm màu bi thương, khốn khổ. Đến đây giọng thơ như đang trĩu xuống làm nôn nao lòng người. Đọc thơ thôi sẽ một ai đó thấy nghẹn ngào và cũng sẽ có ai đó đã phải rơi lệ. Tất cả là một nỗi đau, một tuổi thơ thăng trầm chứ không náo nhiệt, vui nhộn như mọi người từng nghĩ. Phải chăng kí ức, kỉ niệm quá sâu đậm để đến tận bây giờ khi nghĩ đến chính nhà thơ cũng còn phải thấy nghẹn lòng:

"Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

Ngôn ngữ thơ mộc mạc đã lay động tâm can, khắc sâu vào lòng người về một quãng thời gian đầy khó khăn, nhọc nhằn. Mùi khói từ bếp lửa của bà đã khơi dậy trong lòng người cháu những năm tháng không thể nào quên. Nơi đây tuy khốn khó nhưng lại đầy ắp tình cảm yêu thương của bà:

"Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thươngDù da dẻ khô đi tấm lòng không hẹp lạiGiàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãiChỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm"

Giọng thơ tha thiết, trìu mến, trầm lắng tác giả đã kể cho ta nghe về kỉ niệm năm lên bốn tuổi của mình cùng những hình ảnh không thể nào quên. Đọc thơ, có một chút nghẹn ngào pha thêm sự xót xa đau đớn.

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 4

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.

Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là Bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Tuổi thơ khó nhọc gian nan cháu bên bà, là những gì mà đã đi cùng cháu đến suốt quãng đời trưởng thành con lại, nhưng những hình ảnh đẹp đẽ, tình thương bà da diết không ngăn nổi những ký ức ùa về:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!"

Dường như tuổi thơ đầy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí của tác giả. Nhớ về những tháng ngày thơ ấu bên bà, tác giả như cảm nhận được mùi khói vẫn còn đang hăng nồng bên sống mũi. Cái mùi khói bếp ấy, mùi khói quen thuộc mà cháu đã được chịu đựng từ khi cháu lên bốn, mùi khói đã từng hun nhèm đôi mắt của cháu ngày xưa, mùi khói cay, khét vì củi ướt, ví sương nhiều và giá lạnh.

Mùi khói ấy đâu chỉ do ngọn lửa bập bùng từ bếp của bà, mà đó còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời của hai bà cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao.

Tuổi thơ ấy thật gian khổ, nhọc nhằn và vất vả. Tuổi thơ ấy có cái bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cụm từ "đói mòn đói mỏi" đã diễn tả xúc động về cái khổ của con người, của cuộc sống trong thời kỳ đó. Ta chợt nhớ đến lời thơ của Tố Hữu miêu tả tình cảnh nhân dân ta ngày ấy:

"Con đói lả ôm lưng mẹ khócMẹ đợ con đấu thóc cầm hơiKiếp người cơm vãi cơm vãi rơiBiết đâu nẻo đất phương trời mà đi".

Nỗi khổ ấy đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng những chi tiết gợi tả:

"Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy"

Bút pháp kể, tả đan lồng vào nhau gây xúc động lòng người. câu thơ vừa miêu tả cái biểu hiện đáng sợ của "giặc đói", vừa là nguyên nhân khiến đứa cháu phải sống với bà. Cái đói, cái nghèo lan tràn khắp thôn xóm khiến người bố phải lên thành thị đánh xe cùng với con người gầy rộc đi vì không đủ ăn, bỏ lại đứa con thơ cho người đàn bà yêu thương, chăm sóc.

Cảm nhận về nỗi vất vả, đói khổ của tuổi thơ ấu, kỉ niệm như vẫn còn nguyên, tác giả không thể nào quên:

"Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"

Cái cay, cái xót của cuộc sống đói khổ, cơ cực thầm đến lồng xương, ống máu để đến bây giờ, hơn mười năm sau nghĩ lại, cái cảm giác "cay" ấy vẫn còn nguyên vẹn nơi cánh mũi. Cái cay nơi sống mũi cứ lan tỏa, triền miên trong tâm hồn người cháu. Dường như đó là một nỗi niềm mang vị chua xót, nghẹn ngào lẫn yêu thương.

Lời thơ giản dị, đậm chất văn xuôi. Người đọc như đang lạc vào một câu chuyện cổ tích về tuổi thơ của người cháu. Ở đây, bà là một bà tiên, luôn gắn bó, chăm sóc, che chở về cả tinh thần lẫn vật chất cho cháu. Tình yêu thương của bà, tấm lòng nhân hậu của bà như xua tan đi bao đau thương, bao khổ cực chiến tranh. Khổ thơ đã trở thành một trong những khổ thơ gây xúc động lòng người trong cả bài thơ.

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 5

Hình ảnh người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa để sưởi ấm trái tim người cháu yêu thương!

Người bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, cẩn thận tích góp từng hơi ấm lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn lạc. Bà vẫn âm thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng già cả của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là mầm non tương lai của đất nước để mong phát triển dân tộc. Đến những khổ thơ tiếp theo, người bà hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nhỏ. Bà giống như người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà. Bà cũng là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ, đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Khi dặn cháu bố có gọi về chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên.

Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nỗi đau và những cơ cực túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu phương vững chắc nơi tiền tuyến. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh mọi nỗi thống khổ của tình riêng để đặt tình chung lên trên, đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đó ư. Bằng việt dường như đã thổi đến tâm hồn người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà hiện lên càng chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng của toàn bộ bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt. Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa ấm áp của thực tại, nhưng hơn hết bà cũng nhóm lên ngọn lửa của yêu thương hồng lên để sưởi ấm cháu trong những phút yếu lòng, luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, nối kết tình cảm đoàn kết với tình làng nghĩa xóm.

Như vậy, trái tim của bà chính là ngọn lửa của niềm tin, của chiến thắng của những tình cảm yêu thương và những kỉ niệm ấu thơ làm hành trang nâng đỡ cháu trong suốt chặng đường dài sau này. Để rồi dù có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm nhà thì cháu vẫn khôn nguôi nhắc nhở “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.

Đoạn văn cảm nhận khổ 2 bài thơ Bếp lửa

Đoạn văn 1

Khổ thơ thứ 2 là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

Đoạn văn 2

Bài thơ "Bếp lửa" là bài thơ của Bằng Việt viết về người bà, về những năm tháng tuổi thơ vất vả mà ấm áp bên bà. Trong khổ hai, nhà thơ đã tái hiện lại những năm tháng tuổi thơ bên bà. Bài thơ đưa người đọc trở về với tuổi thơ của tác giả, khi tác giả còn là cậu bé bốn tuổi. Đó là một tuổi thơ đầy những gian khổ, khó khăn. Từ bé, tác giả đã sống bên bà, mùi hương cay nồng của bếp lửa cũng đã trở thành một phần tuổi thơ của người cháu ấy "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói". Trong những tháng ngày tuổi thơ ấy, người cháu đã sống bên bà, cùng bà trải qua những ngày "đói mòn đói mỏi". Nghĩ về tuổi thơ đầy gian khổ ấy, cảm xúc của người cháu bỗng trào dâng mãnh liệt "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay". Mùi khói bếp lửa cũng như những năm tháng tuổi thơ cơ cực như quyện chặt lấy tâm hồn của cháu, dù có trưởng thành nhưng không bao giờ có thể quên. Bởi, chỉ cần nhớ lại thì cuộc đời bà lam lũ vất vả, nhọc nhằn của bà lại khắc khoải trong tâm hồn. Các từ láy "đói mòn đói mỏi" cùng hình ảnh tả thực "khô rạc ngựa gầy" trong khổ thơ khiến cho nạn đói hiện lên rõ nét, chân thực. Ngôn ngữ thơ dân dã, bình dị, giọng điệu da diết, khắc khoải đã đưa khổ thơ chạm tới được những rung cảm của người đọc đã giúp những hồi tưởng của Bằng Việt sâu sắc và chân thực tới mức người đọc cũng cảm thấy cay cay, nghẹn ngào.

Đoạn văn 3

Với khổ thơ thứ hai của thi phẩm "Bếp lửa", Bằng Việt đã tái hiện lại bức tranh về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam một cách vô cùng chân thực, xúc động. Kí ức của nhân vật trữ tình trở về năm bốn tuổi. Ở cái tuổi ấy, người cháu "đã quen mùi khói" khi cùng bà nhóm bếp mỗi ngày. Đó là một phần không thể thiếu của tuổi thơ, khiến đứa cháu ngậm ngùi xúc động mỗi lần nhớ lại. Và tiếp đó là những cảm xúc xót xa khi hồi tưởng về "những năm đói mòn đói mỏi". Cái đói, cái nghèo bủa vây cả xã hội. Nó như một nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với hai bà cháu cũng như đối với toàn bộ người dân trên đất nước Việt Nam. Hình ảnh người cha vất vả bươn chải, kéo xe đến "khô rạc ngựa gầy" chính là minh chứng rõ ràng nhất cho nỗi đau của dân tộc lúc bấy giờ. Bởi lí do ấy, nhân vật trữ tình đã dâng trào cảm xúc nghẹn ngào, xót xa. Những kí ức tuổi thơ dần mờ nhòa theo thời gian, nhưng cái mùi khói nồng đậm thì vẫn được nhân vật nhớ kĩ. Chi tiết "cay sống mũi" có thể được dùng để diễn tả phản ứng khi bị khói phả vào của con người. Nhưng bên cạnh đó, chi tiết này cũng có thể được hiểu là sự xúc động, nghẹn ngào đang bị dồn nén. Tất cả các yếu tố kể trên đều là thành phần không thể thiếu để tái hiện lại một thời kì lịch sử đau thương mà dân tộc phải trải qua. Nhờ vậy, các thế hệ sau lại càng trân trọng nền hòa bình, ấm no như ngày hôm nay của chính mình.

Đoạn văn 4

Bếp lửa của Bằng Việt là tiếng lòng người cháu nơi xa xôi nhớ về bà, nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ có bà, qua đó bày tỏ lòng kính yêu vô hạn và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời bà. Những kỉ niệm tuổi thơ được gợi nhắc thông qua khổ thơ thứ 2 của bài. Mùi khói bếp đã trở thành một phần tuổi thơ của cháu "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói". Mùi khói bếp không chỉ gợi nhớ về cuộc sống bình yên, ấm áp bên bà mà còn làm cháu nhớ về những tháng ngày gian khó, đó là khi nạn đói bao trùm xóm làng "đói mòn đói mỏi". Cái đói dai dẳng, quay quắt như vắt kiệt sự sống của con người. Bố vất vả mưu sinh đến "khô rạc ngựa gầy". Cái đói, cái nghèo đã trở thành một phần kí ức mà người cháu không thể nào quên. 5 câu thơ gợi ra hiện thực đen tối của đất nước khi nạn đói bùng nổ, những câu thơ thấm đượm cảm xúc khiến người đọc không khỏi xót xa trước những nhọc nhằn, thăng trầm của hai bà cháu và rất nhiều người lao động nghèo khổ khác. Những kí ức sống động tràn về trong tâm trí khiến cho người cháu như cảm nhận được hương vị cay nồng của khói bếp, để giờ đây khi nhớ lại, người cháu không giấu nổi sự xúc động "đến giờ sống mũi còn cay". Qua khổ thơ thứ hai, tác giả Bằng Việt đã tái hiện lại những kỉ niệm yêu thương bên bà, đó là những tháng ngày cơ cực, đói khổ nhưng đầy ấm áp bởi có tình thương của bà.

Từ khóa » Bài Thơ Cho Người Gầy