Phân Tích Khổ 3 Tây Tiến Với Dàn ý Ngắn Gọn Nhất

Với đề tài phân tích khổ thơ thứ 3 bài thơ Tây tiến của Quang Dũng để thấy được hình tượng những người lính Tây Tiến từ ngoại hình đến nội tâm. Đặc biệt là tính cách hào hoa lãng mạn, bi mà không lụy đã làm nên vẻ đẹp hào khí của người lính cụ Hồ một thời.

Để làm tốt đề bài này, mời các em tham khảo bài hướng dẫn chi tiết dưới đây của Đọc tài liệu cùng tuyển tập những bài văn mẫu hay, đạt điểm cao phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tây Tiến.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài thơ Tây tiến

Khổ thơ thứ 3 trong bài Tây Tiến của Quang Dũng

"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Hướng dẫn phân tích khổ thơ thứ 3 bài thơ Tây tiến

1. Phân tích đề

- Yêu cầu đề bài: Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ thứ 3 của bài Tây Tiến

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các hình ảnh, từ ngữ, chi tiết,... trong khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Gợi ý làm bài phân tích khổ 3 Tây Tiến

Trước hết cần xác định yêu cầu chính về nội dung của đề bài đó là phân tích khổ thơ thứ 3 của bài Tây Tiến. Đoạn thơ này có nội dung chính là khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa.

Để làm được bài văn này, các em có thể bám sát các ý chính sau đây:

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề và trích dẫn đoạn thơ thứ 3 bài Tây Tiến

- Khái quát về tác phẩm có thể nêu ra: hoàn cảnh sáng tác, nội dung bài thơ, vị trí đoạn thơ, nội dung chủ yếu của đoạn thơ.

- Phần nội dung phân tích chính có thể bám theo 3 luận điểm chính sau:

+ Luận điểm 1: Bức chân dung tự họa độc đáo, lạ thường của người lính Tây Tiến với những chi tiết tả thực sống động.

+ Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến giữa chiến tranh ác liệt

Luận điểm 3: Lí tưởng sống cao đẹp, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

- Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ:

+ Bút pháp tả thực

+ Thủ pháp nhân hóa, ẩn dụ

+ Sử dụng từ ngữ Hán Việt

+ Nói giảm, nói tránh.

- Đánh giá về đặc sắc nội dung: vẻ đẹp bi tráng, tượng đài bất tử của người lính Tây Tiến trong khí thế hiên ngang, trong niềm tin tưởng vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.

- Cuối cùng kết bài bằng việc khẳng định lại giá trị của đoạn thơ, nêu cảm nghĩ của mình về đoạn thơ.

Xem thêm: Phân tích chân dung người lính Tây Tiến

3. Sơ đồ tư duy phân tích đoạn 3 Tây Tiến

Sơ đồ tư duy phân tích khổ 3 Tây Tiến của Quang Dũng

Xem thêm: Sơ đồ tư duy Tây Tiến chi tiết các dạng bài

4. Kiến thức cơ bản về tác giả tác phẩm

- Quang Dũng (1921 - 1988) quê làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, Hà Nội, thuộc thế hệ nhà thơ tài năng, trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa biết làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc.

- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến: Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hà Nội), ông viết bài thơ Nhớ Tây Tiến, mà sau này ông cho đổi tên là Tây Tiến.

- Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên (như nhà thơ Quang Dũng). Chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng "họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm".

- Nội dung và nghệ thuật đoạn 3 bài Tây Tiến:

+ Nội dung: Tái hiện vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng của núi rừng Tây Bắc cùng chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hi sinh mất mát.

+ Nghệ thuật: Bút pháp tả thực, dùng từ Hán - Việt cổ kính, nói giảm,...

- Một số nhận định hay về Quang Dũng và đoạn 3 bài thơ Tây Tiến:

+ "Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, "Tây Tiến" cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó." (Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp)

+ “Một ngọn hút đầy tài hoa vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng lại vừa diễn tả được cái tươi mát, sâu lẳng, đau thương mà không hề bi lụy”.

+ “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ.“ (Nhà thơ Phan Quế)

+ "...Tây Tiến... nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ... Tất cả đều gợi ấn tượng của sự lạ hóa, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên..." (Đinh Minh Hằng, in trong "Vẻ đẹp văn học cách mạng")

Lập dàn ý phân tích khổ 3 Tây tiến

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến

- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích và trích dẫn đoạn thơ thứ 3.

Mở bài mẫu:

Quang Dũng là một trong những người nghệ sĩ rất đa tài. Ông có khả năng vẽ tranh, làm thơ và còn biết cả sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng luôn nổi bật với một hồn thơ vừa lãng mạn, hào hoa lại thắm đượm nghĩa tình cùng tinh thần dân tộc sâu sắc. Bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ đã thể hiện được cái nghĩa tình đó của Quang Dũng. Trong đó, hình tượng của những chiến sĩ Tây Tiến được thể hiện rất rõ thông qua khổ thơ thứ 3 của bài thơ. (có thể trích dẫn nội dung khổ 3 bài thơ Tây Tiến)

2. Thân bài phân tích khổ 3 Tây tiến

a) Khái quát chung về tác phẩm và đoạn thơ

- Hoàn cảnh sáng tác: Sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ, cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết nên bài thơ Tây Tiến.

- Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả.

- Đoạn thơ thứ 3 khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến với sự hi sinh bi tráng.

b) Phân tích nội dung khổ thơ thứ 3

Cách viết thân bài 1: Phân tích khổ 3 Tây Tiến

- Bức chân dung tự họa độc đáo, lạ thường của người lính Tây Tiến với những chi tiết tả thực sống động.

+ Chân dung ngoại hình lạ thường:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

  • Đoàn binh với mái đầu trọc không mọc tóc.
  • Làn da xanh xao xanh màu lá.
  • Nét dị thường ấy phản ánh sự khắc nghiệt, khó khăn về thuốc men, lương thực, thực phẩm.
  • Người lính ốm mà không yếu với nét dữ oai hùm - ẩn dụ về sức mạnh đoàn quân Tây Tiến.

=> Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không hề né tránh hiện thực, và điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt của người lính Tây Tiến.

- Tâm hồn hào hoa, lãng mạn, và kiêu hùng:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

+ Mắt trừng là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác.

+ Mộng qua biên giới là giấc mộng lập công, giấc mộng chiến thắng và sớm ngày giành được tự do.

+ Mơ về Hà Nội với dáng kiều thơm: người chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên trí thức xuất thân từ thủ đô, ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy mà là động lực để người lính vững tin trong những tháng ngày gian khổ.

=> Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng: đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất (xanh xao tiều tụy) là sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàn, lẫm liệt (“dữ oai hùm”). Qua đó ta thấy được khí thế và quyết tâm của người lính Tây Tiến.

- Lí tưởng cao đẹp, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sự hi sinh cao cả của người lính Tây Tiến:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

+ Sử dụng hầu hết từ Hán Việt tăng sự trang trọng cho câu thơ và giảm bớt sự bi thương trước mất mát, hi sinh của người lính Tây Tiến.

  • Áo bào: chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh.
  • Về đất: nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước.
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành là sự nghiêng mình tiễn đưa đầy thành kính với các anh trong khúc hùng ca sông Mã.

+ Rải rác: số lượng ít ỏi, không tập trung trên một khu vực mà là rừng sâu biên giới ít có người qua lại, không có điều kiện hương khói.

+ “Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh.

+ "Chẳng tiếc đời xanh": cách nói ngang tàng, ngạo nghễ và đầy tự tin => Người lính ra đi không hẹn ngày về, hi sinh cả tuổi trẻ cả thanh xuân.

+ “Anh về đất” => Nói giảm nói tránh, sự hóa thân cho đất nước của người lính.

=> Không trốn tránh hiện thực, tác giả đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên.

Cách viết thân bài 2: Phân tích đoạn 3 Tây Tiến

* Hai câu đầu: Chân dung hiện thực của người lính:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 

Quân xanh màu lá dữ oai hùm” 

- Vừa bi: Ngoại hình khác thường do hiện thực nghiệt ngã:

+ “không mọc tóc”: người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi giáp lá cà, người thì bị sốt rét đến rụng tóc.

+ “Quân xanh màu lá”: nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, sốt rét, bệnh tật hành hạ.

- Vừa hùng: không né tránh mà nhìn vào hiện thực khốc liệt của chiến tranh qua cái nhìn lãng mạn.

+ “đoàn binh không mọc tóc”: “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” => Hào hùng như hình ảnh những anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời

+ “Quân xanh màu lá” nhưng vẫn “dữ oai hùm” => Tính cách anh hùng, nét oai phong dữ dằn như chúa tể chốn rừng thiêng.

* Hai câu tiếp: Giấc mộng lãng mạn của người lính.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” 

- “Mắt trừng”: cái nhìn nảy lửa đối với kẻ thù, thể hiện nét oai phong, lòng quyết tâm đánh giặc đến cùng

- “gửi mộng qua biên giới”: chiến đấu dũng cảm nhưng cũng rất nhớ quê hương

- Nỗi nhớ trong giấc mơ:

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

+ Nhớ người yêu, những cô gái Hà Thành duyên dáng, xinh đẹp

=> Đằng sau vẻ ngoài dữ dằn, oai nghiêm là trái tim khao khát yêu thương đầy chất nghệ sĩ (họ mang trong mình một bóng hình lãng mạn)

+ Diễn tả đúng thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

=> Cảm hứng có bi nhưng không lụy, ta thấy cái gian khổ của chiến tranh nhưng cũng cảm nhận được vẻ oai hùng, lãng mạn của người lính

* Bốn câu tiếp: Cái chết bi tráng và sự bất tử:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ 

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 

Áo bào thay chiếu anh về đất 

Sông Mã gầm lên khúc độc hành” 

- Miêu tả cái chết nhưng không bi lụy:

+ Những từ Hán Việt cổ kính: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” tạo không khí trang trọng, thiêng liêng, làm giảm nhẹ cái bi thương của hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi.

+ Từ phủ định “chẳng” (khác với không - sắc thái trung tính) và cách nói hoán dụ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” thể hiện thái độ kiên quyết hi sinh vì Tổ quốc, lí tưởng quên mình thật cao đẹp làm vơi đi cái đau thương.

- Hai câu thơ tiếp theo thấm đẫm tinh thần bi tráng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất 

Sông Mã gầm lên khúc độc hành” 

+ Hình ảnh “Áo bào thay chiếu” phản ánh một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, phải mai táng bằng chính chiếc áo các anh mặc hàng ngày.

+ Gọi áo các anh là “áo bào”: nghe trang trọng, thiêng liêng, thể hiện tình cảm yêu thương đồng đội. Những người lính Tây Tiến giống như những chiến tướng thuở xưa oai phong lẫm liệt trong những tấm áo bào đỏ thắm.

+ Cách nói giảm nói tránh “anh về đất” => làm vơi đi cảm giác đau thương => Ẩn chứa hàm nghĩa: chết là hóa thân với đất mẹ, là hóa thân với non sông đất nước, cái chết đã trở thành bất tử.

+ Biện pháp nhân hóa + động từ “gầm”: dữ dội, hào hùng => âm thanh làm át đi cảm xúc bi thương, gợi về sự ra đi của những anh hùng nghĩa sĩ thuở xưa.

=> Đưa tiễn người là khúc nhạc bi tráng của núi sông, cái chết thấm đẫm tinh thần bi tráng.

=> Giọng thơ trang trọng, thể hiện tình cảm tiếc thương và sự trân trọng, kính cẩn trước sự hi sinh của đồng đội. Hai cảm hứng lãng mạn và bi tráng đan cài dựng nên tượng đài bất tử trong thơ.

3. Kết bài phân tích khổ 3 Tây Tiến

- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn 3 bài Tây Tiến.

* Giá trị nội dung:

- Tái hiện vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến.

- Khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc.

* Đánh giá về nghệ thuật

- Bút pháp tả thực khắc họa chân dung người lính với hiện thực gian khổ nơi chiến trường

- Dùng từ Hán - Việt cổ kính để tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người đã khuất

- Nói giảm để thể hiện lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ trong chiến đấu, khắc họa sự hi sinh, nhấn mạnh sự mất mát nơi chiến trường.

Tham khảo thêm: Hướng dẫn soạn bài Tây Tiến chi tiết

TOP 3 bài văn mẫu hay phân tích khổ 3 Tây Tiến (Quang Dũng)

Phân tích khổ 3 Tây Tiến ngắn gọn mẫu số 1

Có người từng nói "Thơ chỉ tràn ra khi trong ta cuộc sống đã tràn đầy". Thật đúng là như vậy! Chiến tranh đã đi qua, hòa bình lập lại vậy mà ở vùng Tây Bắc ấy lại khơi gợi cho Quang Dũng một nỗi nhớ da diết khôn nguôi, phải chăng nơi đây đã đọng lại trong tác giả nhiều kỷ niệm? Chính vì nỗi nhớ ấy đã thổi hồn cho ông viết nên bài thơ Tây Tiến. Người lính Tây Tiến qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên thật nhiều khó khăn, gian nan, ta có thể thấy được qua khổ thơ cuối:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài vừa viết văn vừa làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Thơ ông phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác ở Phù Lưu Chanh năm 1948 khi ông chuyển sang hoạt động ở đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ. Tuy đã chuyển hoạt động sang ở nơi khác nhưng những hình ảnh về vùng đất, con người nơi cũ vẫn luôn thường trực trong sâu thẳm tâm trí ông. Tây Tiến lúc mới ra đời đã bị cấm lưu hành, qua thời gian nét độc đáo, sáng tạo, cái hay trong thơ hiện rõ chính vì vậy mà nó được đưa vào sách giáo khoa ngày nay.

Điều kiện thời tiết vùng Tây Bắc rất khắc nghiệt, nó ảnh hưởng trực tiếp đến người lính hành quân nơi đây:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

"Không mọc tóc" có thể hiểu là thời tiết ảnh hưởng, bị sốt rét làm đau đớn thân xác người lính. Tác giả nói "không mọc tóc" chứ không phải "không mọc được tóc" chứng tỏ nó được coi như các người lính cạo trọc đầu để dễ dàng cho việc chiến đấu, chứ không phải do bệnh tật để giảm đi sự đau thương đối với người đọc. "Quân xanh màu lá", nếu sự thật trần trụi là do bệnh sốt rét gây nên thì Quang Dũng lại cho rằng đó là màu xanh của lá cây hóa thân cho người lính để giặc khó nhận ra. Tuy khó khăn chồng chất, bệnh tật liên miên, nhưng qua lăng kính của tác giả, đoàn binh hiện lên với sự yêu đời, không quản gian nan.

Cho dù chịu nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nó không làm cho người lính Tây Tiến nguôi đi tình cảm lãng mạn của mình. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả nét đẹp cũng như sự mạnh mẽ của con người:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Dù ngày đêm đánh giặc nhưng tâm hồn của những người lính luôn trong trạng thái mộng mơ. Cái mộng họ gửi qua biên giới, nơi vẫn còn đầy bóng giặc thù, đó là cái mộng giết giặc để lập công danh. "Mắt trừng" gợi sự mạnh mẽ, đầy nội lực, quyết tâm vì dân tộc, ở đâu đó trong họ vẫn luôn tồn tại một nỗi căm thù giặc sâu sắc. Đoàn binh Tây Tiến chủ yếu là học sinh, sinh viên người Hà Nội - là thủ đô văn hiến, là cả trái tim của Tổ quốc chính vì thế họ lấy đó làm động lực chiến đấu. "Dáng kiều thơm" chính là nét đẹp thanh lịch, thướt tha của con gái Hà Nội, cũng là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp của quê hương đã thúc giục người lính phải chiến đấu, đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ từng nét đẹp nơi họ sống. Đó là động lực lớn để tinh thần chiến đấu thêm mạnh mẽ. Hình ảnh dáng kiều thơm là vầng sáng lung linh trong kí ức nhưng cũng là thứ giúp cho họ tìm được sự cân bằng, tìm được sự thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả.

Ra biên cương là chấp nhận đối mặt với hi sinh, biết đi là sẽ chết, vậy mà các anh vẫn xung phong ra trận với hi vọng sẽ đem chiến thắng trở về:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Biết bao nhiêu anh hùng đã ngã xuống ở nơi biên cương. Chiến tranh nó luôn tồn tại song song với chết chóc, tuy vậy tinh thần xung phong ra trận vẫn luôn sôi nổi. Tuổi xuân là độ tuổi đẹp nhất, là thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người nhưng các anh cũng đành gác lại để đặt nhiệm vụ Tổ quốc lên trên hết "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Những tình cảm đôi lứa, những cái tôi vị kỉ đều gạt sang một bên, những người chiến sĩ vẫn nối tiếp nhau tầng tầng lớp lớp lên đường, đi để bảo vệ từng đồng lúa, mùa ngô, bảo vệ nhịp đập con tim của toàn dân tộc.

Tiếp nối âm hưởng bi tráng, hai câu thơ cuối đã tô đậm thêm sự mất mát hi sinh, thể hiện cái chết cao đẹp, cái chết bất tử của người lính:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Quang Dũng dường như đã khóc khi viết đến dòng thơ này. Đây chính là cái chết nhưng tác giả đã nói giảm nói tránh để giảm bớt sự đau thương mất mát cho người ở lại. Thời gian chiến tranh là khoảng thời gian thiếu thốn, nghèo khổ của toàn dân tộc ta. "Áo bào" thay "chiếu" vì người hi sinh quá nhiều, họ chỉ được quấn chiếc áo bào trên vai để về với đất mẹ. Anh về với đất, nghĩa là anh đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình và giờ đây anh hóa thân cho dáng hình xứ sở. Câu thơ cuối miêu tả tiếng gầm của sông Mã như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Bằng việc sử dụng những bút pháp nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn dụ, Quang Dũng đã khắc họa lại một đoàn binh Tây Tiến với nhiều vẻ đẹp khác nhau cả hình dáng, sự mạnh mẽ từ ánh mắt đến tính cách và cả sự hi sinh cao cả. Tất cả vì lòng yêu Tổ quốc, mong muốn được sống trong hòa bình và hạnh phúc, không tồn tại những đau thương mất mát. Đoạn thơ này có nhạc, có họa, vừa bi hùng lại vừa kiêu hãnh. Những hình ảnh khắc họa đoàn quân Tây Tiến trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng.

Phân tích Tây Tiến khổ 3 học sinh giỏi mẫu số 2

Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả Quang Dũng. Ban đầu thì tác phẩm có nhan đề là Nhớ Tây Tiến, về sau tác giả mới đổi lại thành Tây Tiến. Hiện nay, tác phẩm Tây Tiến được đưa vào và giảng dạy ở trong chương trình Ngữ văn cấp THPT. Thông qua khổ thơ thứ 3 bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã cho độc giả cảm nhận một khúc tráng ca đầy hào hùng về hình ảnh của những người lính Tây Tiến hào hoa đã in đậm vào lịch sử văn chương.

Sau một khoảng thời gian xa đơn vị và đồng đội của mình, ông đã sáng tác bài thơ “Tây Tiến” này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh là một địa danh bên cạnh bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo bao phủ toàn bài thơ là nỗi nhớ, niềm tự hào với đoàn quân Tây Tiến, đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó cũng chính là nỗi nhớ “chơi vơi” gọi lên bao kỉ niệm đẹp và cảm động của một thời chiến tranh đầy gian khổ, hy sinh. Khổ thơ thứ 3 nằm trong bài “Tây Tiến” đã khắc họa được khí phách anh hùng cùng với tâm hồn lãng mạn của những người chiến sĩ trong khói lửa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

(…)

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trên từng nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua vô vàn núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến xuất hiện giữa màu xanh của thiên nhiên núi rừng hào hùng, vừa kiêu hãnh lại vừa cảm động. Người chiến binh năm ấy với quân trang là màu xanh của lá rừng, với nước da cũng xanh xao phong sương vì bị sốt rét trong rừng, thiếu đủ thứ thuốc men và lương thực nên mới “không mọc tóc”. Câu thơ mô tả trần trụi hiện thực chiến tranh vào những năm đầu tiên kháng chiến. “Không mọc tóc” là một hình ảnh phản ánh sự nghiệt ngã của chiến trường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Cái hình dáng không có gì đẹp như “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với dáng vẻ “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình nhấn mạnh được chí khí hiên ngang, tinh thần dũng cảm dám xung trận của những chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân địch phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ thể hiện chí khí của những người lính mang tính kế thừa sáng tạo của tác giả Quang Dũng. Những chiến binh “Sát Thát” đời nhà Trần: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão) hay “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm chói sáng” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn cũng xung trận với một khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên công cuộc đánh giặc, thời đại nào thì cũng có những người chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như vậy! Với niềm tự hào trào dâng, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái thô sơ, mộc mạc để điểm tô nên cái đẹp, cái dũng khí ẩn sâu bên trong tâm hồn của những người chiến sĩ. Dù có đói khổ, thiếu thốn và chịu đựng bệnh tật hay trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng trong họ vẫn có giấc “mơ”, giấc “mộng” vô cùng đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Mộng mơ được gửi về hai phía là biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy rẫy những bóng giặc thù. “Mắt trừng” - hình ảnh gợi tả sự dữ dội, oai phong lẫm liệt cùng tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của những người chiến sĩ trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” - mộng sẽ tiêu diệt được hết quân địch, bảo vệ được biên cương, lập nên biết bao chiến công và nêu cao truyền thống anh dũng của đoàn quân Tây Tiến. Những người chiến sĩ Tây Tiến ấy vốn là những học sinh, sinh viên và những chàng trai trẻ từ Hà thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung” và tràn đầy tinh thần yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước / Nghìn năm thương nhớ đất ở Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa thiên nhiên núi rừng miền Tây đầy gian khổ, ác liệt, cái chết luôn rình rập, bủa vây và lửa đạn mịt mù mà các anh vẫn luôn mơ về Hà Nội lãng mạn. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những con phố cổ, trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may”?... Quên sao được tà áo dài trắng, những thiếu nữ thân yêu, những “dáng kiều thơm” các anh từng hò hẹn. Hình ảnh “Dáng kiều thơm” trong câu thơ của nhà thơ Quang Dũng đem đến cho người đọc rất nhiều điều thú vị: ngôn từ vốn có xuất hiện trong bài đầy chất thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của tác giả là chiến sĩ thì nó trở nên có hồn, miêu tả rõ được chất lính hào hoa, lãng mạn và trẻ trung của những người lính trẻ thuộc đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

Nếu những người nông dân mặc áo lính xuất hiện trong thơ của Chính Hữu mang đến nỗi nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ về mái nhà, nhớ ruộng nương…; trong các câu thơ của Hồng Nguyên thể hiện nỗi nhớ “người vợ trẻ - Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì hình ảnh người lính trong thơ Quang Dũng bộc lộ nỗi nhớ gắn liền với hai chữ “mộng” và “mơ”. Mộng về một ngày lập được chiến công, mơ về “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng đã viết rất hay về những nỗi nhớ của người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp:

“Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”

Viết về “mộng”, “mơ” của những người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của toàn bộ đồng đội của mình. Đó là một nét khám phá độc đáo của nhà thơ khi vẽ lên chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống giặc Pháp.

Bốn câu thơ tiếp theo chính là những nét vẽ bổ sung, tô đậm lên chân dung của những người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trong gian khó của chiến trận, bao nhiêu đồng đội đã ngã xuống ở chính nơi chiến trường miền Tây. Họ đã nằm ở lại, ở nơi chân đèo góc núi lạnh lẽo, hoang vu. Nấm mồ của những người chiến sĩ được mô tả “rải rác biên cương”. Câu thơ đã để lại trong lòng chúng ta rất nhiều thương cảm xen lẫn tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ này ra khỏi đoạn thơ thì nó sẽ làm hiện lên bức tranh lạnh lẽo, ảm đạm, hiu hắt và đem đến vô vàn xót thương. Nhưng khi nằm trong hoàn cảnh, mạch thơ và câu thơ tiếp theo là: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao được chí khí và tầm vóc của người lính. Các anh sẵn sàng ra trận vì một lý tưởng rất đẹp. “Đời xanh” là nhắc đến đời trai trẻ, tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những người mới chỉ là học sinh, sinh viên ở khắp nơi trong Hà Nội. Họ đã lên đường hành quân vì một nghĩa cử lớn lao của chí khí làm trai, họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang vọng như một tiếng nói thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết tâm đem xương máu của mình để bảo vệ nền độc lập và tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội như nhân dân ta đã đứng lên trong kháng chiến, quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định là không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng đã ghi lại được cảnh tượng bi tráng giữa nơi chiến trường miền Tây khi đó:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Những tráng sĩ năm xưa giữa chốn sa trường đã phải lấy da ngựa bọc thây chính là niềm kiêu hãnh. Những người lính Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ cùng tấm “áo bào” bình dị ấy “anh về đất”. Một cái chết hết sức nhẹ nhàng thanh thản mà lại oanh liệt. Anh ra trận giết địch để bảo vệ hạnh phúc cho quê hương. Anh đã ngã xuống là “về đất”, là nằm trong lòng của Đất mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không sử dụng từ “chết” hay từ “hi sinh” mà dùng cụm từ “về đất” để ca ngợi lên sự hy sinh cao cả bình lặng mà thanh thản, coi cái chết chỉ nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu hết mình cho quê hương và đã chết vì tình yêu đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng toàn bộ tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác bên dòng sông Mã “gầm lên” giữa thiên nhiên rừng núi miền Tây được coi như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tiễn linh hồn của những liệt sĩ về an giấc ngàn thu.

Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ rất hay gợi tả được một không khí thiêng liêng, đồng thời cũng tạo nên những âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng vô cùng đặc sắc, bên cạnh từ ngữ bình dị đời thường như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, chiếu, về đất, gầm lên… lại có một vài những từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, viễn xứ, dáng kiều, áo bào và khúc độc hành nhờ đó mà những điều bình dị làm nổi bật lên cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường lại tô đậm được chí khí anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng mang màu sắc lãng mạn từ vần thơ lan tỏa trong không gian và chiều dài của lịch sử.

Khổ thơ thứ ba đã thể hiện rõ chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là khổ thơ có thể nói là độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng hết sức sáng tạo nhằm miêu tả bộc lộ cảm xúc, tạo nên những vần thơ “có hồn”. Người lính đã sống thật sự anh dũng và chết một cách oanh liệt. Hình tượng của người chiến sĩ Tây Tiến sẽ mãi mãi là tượng đài nghệ thuật bi tráng hằn sâu vào tâm hồn của các thế hệ dân tộc.

“Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!”

(Cá nước năm 1947, Tố Hữu)

Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn 3 mẫu số 3

Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.

Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói ngời, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tụy đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.

Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ hai dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. Ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.

Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gần lên khúc độc hành.

“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:

“Áo bào thay chiếu anh về đất”

Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa. Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.

Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”

“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.

Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hưởng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc".

Phân tích khổ 3 Tây Tiến chuyên sâu mẫu số 4

Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.

Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.

Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh / Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng. Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.

Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che giấu theo cách riêng của ông:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” kết hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.

Hai câu thơ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.

Phân tích đoạn 3 Tây Tiến ngắn nhất mẫu số 5

Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ của Tây Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người lính Tây Ttiến với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá giữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc", tác giả đã gợi lại hình ảnh anh "vệ trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần trụi và khắc nghiệt: những con suối độc, những trận sốt rét rừng đã làm cho người lính xanh xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: "không mọc tóc" chứ không phải là "tóc không mọc". "Không mọc tóc" có vẻ như là không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc… thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến.

Ba tiếng "Dữ oai hùm" đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời, tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính. Câu thơ giống như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ người lính Tây Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ, trở thành người anh hùng. Trong bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ: Hà Nội, nhưng đó không phải là một cái mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong cuộc chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.

Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ hào hùng lẫm liệt và sang trọng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương", "viễn xứ" đã làm cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì người lính Tây tiến với hình ảnh "áo bào thay chiếu" đầy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi là "áo bào". Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa tiễn hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nối truyền thống cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng đội không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài thơ Tây tiến mẫu số 6

Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh đoàn quân ấy:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành!

Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp - nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động - thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùng

Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.

Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc - mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu - mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong ký ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi "mồ viễn xứ" của những người con "chết xa nhà". Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn. Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.

Áo bào thay chiếu anh về đất. Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi” ... nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.

Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là niềm kiêu hãnh anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài thơ Tây tiến mẫu số 7

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:

"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

...

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hóa, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

"Tây Tiến đoàn quân... khúc độc hành"

Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc họa lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu: "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi", nay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo.

Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hóa của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hóa" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ:

"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu

Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"

Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:

"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu

Thể diện sài long xâm lược quân"

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông A.

Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:

"Từ thuở mang gươm đi mở nước

Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"

Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.

Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.

Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

Trong Chinh phụ ngâm:

"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"

Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.

Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hóa trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất". Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận.

Hai câu thơ mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:

Áo bào thay chiếu anh về đất.

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

Tham khảo thêm:

  • Bài thơ Tây Tiến phảng phất những nét buồn đau bi tráng, chứ không bi lụy
  • Cảm nhận về hình tượng người lính trong đoạn thứ ba bài thơ Tây Tiến

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài thơ Tây tiến mẫu số 8

Tây Tiến là bài thơ độc đáo của người nghệ sĩ tài hoa Quang Dũng sáng tác năm 1948, sau khi chuyển đến công tác ở đơn vị khác. Bài thơ được viết theo thể hành rắn rỏi, chỉ có 34 câu nhưng câu nào cũng hay, chẳng có chữ nào thừa. Bài thơ là sự hồi tưởng những kỉ niệm trong kháng chiến của những người lính trẻ, tái hiện khung cảnh núi rừng hoang dã đến những tình cảm thắm thiết của hậu phương lúc dừng quân. Đặc biệt khổ thơ thứ ba đã khắc họa sinh động hình ảnh người lính Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

......

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức (các trường: Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang...), là những chàng trai Hà Thành còn rất trẻ. Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm tận máu, tận hồn, là một chàng trai đa tài (làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc...), lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại..

Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc. Và người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến.

Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Có một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo khi nói về người lính. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh “đoàn binh không tóc” và “dữ oai hùm" là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo” mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

“Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá - đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.

Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”. Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Múa giáo non sông đã mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).

Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay.

Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng” thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt“, “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!

Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ" gợi cảm giác buồn thầm lặng - sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”.

Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.

Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.

Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán - Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.

Cuối cùng ta càng nhận thấy rõ hơn, ở đoạn ba của bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.

Phân tích đoạn 3 Tây tiến mẫu số 9

Tác phẩm “Tây Tiến” được Quang Dũng cho ra đời sau khi ông phải chuyển đơn vị công tác. Toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ da diết đồng đội Tây Tiến của tác giả. Đặc biệt khi phân tích Tây Tiến khổ 3, chúng ta sẽ cảm nhận được sự nhức nhối trong tâm khảm của nhà thơ khi nhớ đồng đội. Nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ miêu tả sâu sắc và lắng đọng nhất trong tám câu thơ ở khổ 3.

Mở đầu khổ 3 của bài thơ Tây Tiến chính là bức chân dung vừa bi tráng, hào hùng vừa lãng mạn, tài hoa của đội quân Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” không phải nói rằng họ là những nhà sư cạo trọc đầu, mà đang miêu tả hiện thực vẻ ngoài ốm yếu xanh xao, đến nỗi tóc không thể mọc. Giữa rừng thiêng nước độc, những người lính cụ Hồ phải chống chọi lại với không chỉ quân thù mà còn với bạo bệnh, như sốt rét. Rất nhiều đồng đội đã hy sinh vì căn bênh quái ác này. Tàn khốc là vậy, nhưng những người lính ấy vẫn rất kiên cường, anh dung. Đồng đội của tác giả vẫn rất “dữ oai hùm”. Một cách nói đậm chất lính và nhà thơ đã phác họa phần nào bức chân dung hiên ngang, có thể san bằng mọi khó khăn, vượt qua mọi thử thách của người lính. Khí phách đó của họ được nhà thơ ví von như vị chúa tể rừng xanh.

Có thể nói, bằng bút phát tả thực, nhà thơ Quang Dũng đã miêu tả sự vượt qua gian khổ của người lính. Và chính việc xem nhẹ mọi thử thách ấy đã thể hiện thông điệp ca ngợi vẻ đẹp người lính cụ Hồ trong thời chiến của nhà thơ.

Sau khi phác họa khung sườn, tác giả đi vào lột tả chi tiết. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Câu thơ này vừa miêu tả cử chỉ, hành động của những người lính khi hành quân. Họ luôn mở to mắt, hướng về phía trước với ánh mắt ngời ngời ý chí chiến đấu và khát khao chiến thắng. Việc “mắt trừng”ở đây không phải là chi về tâm lý giận dữ mà như thiêu đốt vào lũ quân thù. Dù trong đầu có “gửi mộng qua biên giới” thì tâm thế vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu.

Ban ngày, mọi lúc mọi nơi, đoàn quân Tây Tiến luôn luôn tập trung vào nhiệm vụ, dù cho ốm đau bệnh tật. Tuy nhiên khi bóng tối bao trùm, khi họ được nghỉ ngơi, tâm hồn những chàng trai trẻ ấy lại không thôi nhớ nhung, mơ mộng “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đọc câu thơ lên ta nhận ra ngay “dáng kiều thơm” là ai. Đó là hình ảnh, bóng dáng người thiếu nữ, thiết tha, yêu kiều. Bóng dáng ấy vừa là điểm tựa, động lực để nâng đỡ tâm hồn các chiến sĩ, vừa là mục tiêu phấn đấu, điểm hẹn của niềm khát khao, bởi không gì lý tưởng cao đẹp hơn là sự hi sinh vì những người thân yêu.

Khi phân tích khổ 3 Tây Tiến, nếu như đoạn đầu ta thấy được bức chân dung đoàn quân Tây Tiến rõ nét khi còn sống, thì 4 câu thơ sau lại là lúc người chiến sĩ đã ngã xuống:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Có đứng trong hàng ngũ những chiến binh ấy, tác giả mới có thể miêu tả một cách chân thực cái chết của đồng đội như vậy. Đúng thế, không như những cái chết thông thường, được tổ chức ma chay, được chôn cất tử tế. Ở đây, khi hy sinh, các chiến sĩ chỉ có thể được đồng đội vùi tạm dưới đất, như nấm mồ nhỏ vô danh, không phải thành khu, thành nghĩa trang mà là nằm rải rác. Ở đây, đoàn quân Tây Tiến chiến đấu ở vùng biên giới nên những nấm mồ ấy mới “viễn xứ”, mới ở nơi biên cương xa xôi, lạnh lẽo. Đọc tới đây, ta có cảm tưởng như Quang Dũng đang xúc động đến nghẹn ngào.

Còn gì xót hơn khi phải tự tay lấp đất chôn bạn mình. Còn gì đau đớn hơn khi những người đồng đội cứ lần lượt ngã xuống. Thế nhưng miêu tả sự bi ai, khắc nghiệt đó của chiến trường là cách tác giả nâng tầm lý tưởng của đội quân Tây Tiến. Họ biết trước sẽ như thế, nhưng họ vẫn ung dung “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Những chàng trai đang lứa tuổi thanh xuân, cái lứa tuổi nuôi bao ước vọng, nhưng đã sẵn sàng dâng hiến tuổi trẻ, cuộc đời cho đất nước. Chỉ cần Tổ quốc gọi, không cần biết sống chết, họ sẵn sàng lên đường mang theo tinh thần và ý chí bất khuất. Chưa bao giờ, chưa có nhà thơ nào lại miêu tả cái chết đẹp, ngọt ngào và ấm áp như nhà thơ Quang Dũng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất”.

Trong chiến trường, việc có được một giây phút bình yên là không hề dễ. Bởi thế, khi người chiến sĩ hy sinh, dù vẫn phải chiến đấu, dù thiếu thốn đủ đường, nhưng đồng đội vẫn lo hậu sự chu đáo. Không có áo quan, các anh mặc cho nhau chiếc “áo bào”, miễn sao đồng đội nằm xuống không lạnh. Ở đây, nhà thơ Quang Dũng không bảo các anh chết, mà ông dùng cụm từ “về đất”. Cách nói giảm nói tránh, đồng thời kết hợp với chi tiết “áo bào” đã tôn lên sắc thái trang trọng trong sự hy sinh của người lính. Các anh trở về với đất mẹ, sau khi đã hóa thân mình vẹn tròn vào hình hài xứ sở.

Khi phân tích đoạn 3 Tây Tiến ta có thể thấy thiên nhiên dường như cũng nhỏ lệ, xót thương trước sự hy sinh của đoàn quân:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Sông Mã - dòng sông gắn liền với vùng biên giới phía Tây, con sông đã ngàn năm chứng kiến bao cuộc sinh ly tử biệt của những anh hùng chống giặc của đất nước. Sông Mã thường ngày cứ êm đềm trôi nhưng khi chứng kiến những đau thương mất mát của đoàn quân Tây Tiến, nó bỗng gầm lên dữ dội. Tiếng gầm của nó như loạt đại bác rền vang. Nó mang sắc thái thiêng liêng như một lời thề vững chãi. Nó như bức tượng đài của đoàn quân mãi mãi bất tử, khắc sâu trong lòng sông núi.

Có thể khẳng định, nhà thơ Quang Dũng đã không hề né tránh hiện thực, mà ông đối diện với nó bằng cái nhìn lãng mạn, bằng tâm thế hiên ngang. Bên cạnh bút pháp lãng mạn của một tâm hồn chàng trai xứ Đoài, kết hợp với hang loạt từ Hán - Việt như “viễn xứ”, “biên cương”, nhà thơ đã tạo nên bức tranh đoàn quân Tây Tiến thật trang nghiêm, cổ kính và oai hùng.

Hình ảnh về người lính cụ Hồ đã trở thành cảm hứng cho rất nhiều nhà thơ sáng tác. Mỗi người mỗi một vẻ, một phong cách khác nhau. Nhưng khi phân tích Tây Tiến khổ 3, ta nhận ra bức chân dung của đoàn quân Tây Tiến vẫn xúc động, bi tráng và lãng mạn. Nhà thơ Quang Dũng thực sự đã khắc họa thành công bức tượng đài bất tử, bất khuất về đoàn quân Tây Tiến. Ở khổ 3 này, cũng đã phần nào thể hiện phong cách văn chương tác giả: hào hoa, lãng mạn và độc đáo. Bức tranh ấy bên cạnh người lính còn có hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, vừa mĩ lệ vừa dữ dội. Sự tổng hợp hài hòa những yếu tố đó đã mang tới cho Tây Tiến một sức sống mãnh liệt, có sức hấp dẫn bền vững trong lòng độc giả.

-/-

Trên đây là những gợi ý chi tiết cho bài văn bình giảng, phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tây Tiến (Quang Dũng). Hi vọng, sau khi tham khảo cách làm cũng như bài văn mẫu mà chúng tôi tổng hợp và biên soạn trên, các em sẽ có cho mình một bài văn hay, súc tích và đáp ứng đúng các yêu cầu của đề bài. Xem thêm các bài văn mẫu 12 khác tại doctailieu.com để học tốt môn Văn em nhé. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!

Từ khóa » Bài Thơ Tây Tiến Khổ 3