Phân Tích Mô Hình SWOT Của Coca Cola Trong ... - Sangtaotrongtamtay
Có thể bạn quan tâm
Phân tích mô hình SWOT của coca cola trong môi trường kinh doanh việt nam
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.8 KB, 32 trang )
Bạn đang đọc: Phân tích mô hình SWOT của coca cola trong môi trường kinh doanh việt nam
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAMHỌC VIỆN NGÂN HÀNG===== + + + =====Bài thảo luận:PHÂN TÍCH MÔ HÌNH SWOT CỦACOCA – COLA TRONG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VIỆT NAMNhóm: 50 Cent Lớp: NHE – K10 GVHD: Ths. Nguyễn Thị Hưng2DANH SÁCH THÀNH VIÊN:1. Vũ Thị Hiền Hòa (nhóm trưởng)2. Trần Thị Vui3. Trần Huyền Trang4. Lương Thùy Ninh5. Lương Thu Hường6. Lê Thị Phú7. Nguyễn Thị Lan Anh8. Dương Thị Sỹ9. Phạm Thị Huyền10. Phạm Thị Huế3MỤC LỤC:I. Các yếu tố và tác động của môi trường kinh doanh Việt Nam. 1. Các yếu tố môi trường kinh doanh Việt Nam.2. Những tác động của môi trường kinh doanh Việt Nam.II. Đánh giá tiềm lực công ty coca – cola:1. Đối thủ cạnh tranh.2. Điểm mạnh của cocacola.3. Điểm yếu của công ty.
III. Mô hình swot và những chiến lược marketing của coca – cola.1. Kết hợp S – O2. Kết hợp S – T3. Kết hợp W – O4. Kết hợp W – T4I. Các yếu tố và tác động của môi trường kinh doanh Việt Nam. 1. Các yếu tố môi trường kinh doanh Việt Nam:Yếu tố kinh tế:Biểu đồ tăng trưởng và thất nghiệp trong các chu kỳ kinh tế – Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hộiTừ biểu đồ ta thấy từ năm 2000-2008, việc tiếp tục kiên trì đường lối đổi mới với nhiều cải cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự ra đời Luật Doanh nghiệp đã giải phóng nguồn lực dồi dào trong khu vực dân doanh. GDP liên tục tăng qua các năm và đạt 8,5% năm 2007, thất nghiệp giảm xuống chỉ còn 4,2%. Tuy nhiên, để đạt được kết quả đó, trong giai đoạn 2003-2007 cung tiền cũng tăng cao trung bình 25%/năm, tín dụng nội địa tăng trên 35%/năm và đạt mức cao nhất thế giới là 53% trong năm 2007Môi trường chính trị – pháp luật: Thủ tục đăng kí doanh nghiệp:5Các nghiên cứu về môi trường kinh doanh hầu hết đều nhận định rằng thủ tục đăng kí kinh doanh đã được cải thiện rất nhiều và là một điểm sáng của môi trường kinh doanh Việt Nam.Thành tựu lớn nhất trong quá trình phát triển doanh nghiệp chính là sự cải thiện về khung pháp lý liên quan đăng kí kinh doanh và gia nhập thị trường. Hiện tại, các doanh nghiệp gia nhập dễ dàng hơn rất nhiều so với các năm trước, thủ tục, thời gian và chi phí đã thực sự được cắt giảm.Luật doanh nghiệp năm 2000 và năm 2005 là một bước tiến rất dài trong việc
tạo lập môi trường tích cực cho sự phát triển công nghiệp của Việt Nam. Đây là một trong những lí do chính yếu giải thích những tiến bộ vượt bậc của khu vực tư nhân những năm gần đây. Từ năm 2000 đến năm 2005, hơn 160 nghìn doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập với tổng vốn đăng kí gần 27 tỉ USD, gấp 2 lần vốn FDI trong cùng thời kì.Các văn bản mà các địa phương (ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) ban hành đã được đơn giản hóa và cụ thể hóa. Việc thực hiện chế độ phân cấp toàn diện cho ủy ban nhân dân tỉnh và ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất trong các thủ tục đăng kí, thẩm tra đầu tư và quản lý đầu tư đã giải tỏa được hiện tượng ách tắc trong tiếp nhận, phân loại, thẩm tra và cấp giấy chứng nhận đầu tư. Bảo vệ nhà đầu tư:Trong Báo cáo Môi trường kinh doanh của WB, chỉ tiêu “bảo vệ nhà đầu tư” xem xét ba phương diện bảo vệ nhà đầu tư bao gồm:– Tính minh bạch trong giao dịch.– Trách nhiệm pháp lý của giám đốc.– Khả năng của cổ đông kiện các nhà quản trị có hành vi sai trái.Việc đưa vào thực thi 2 luật mới của Việt Nam là luật Doanh nghiệp và luật Chứng khoán đã giúp tăng cường bảo vệ nhà đầu tư. Luật Chứng khoán quy định rõ hoạt động của thị trường chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng khoán. Luật 6Doanh nghiệp yêu cầu các nhà đầu tư phải có tiếng nói trong các hoạt động chính của công ty. Cả 2 luật đều nâng cao yêu cầu báo cáo và minh bạch thông tin của công ty, đặc biệt là thông tin về giao dịch với bên có liên quan.Tuy nhiên, mặc dù Luật mới có quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của giám đốc và thành viên hội động quản trị nhưng chưa cung cấp cơ chế thực thi các quy định này. Các tòa án kinh tế ở VN chưa có quyền xét xử các vụ việc liên quan đến nhà đầu tư kiện giám đốc hay thành viên hội đồng quản trị. Theo báo cáo của WB, VN vẫn nằm trong nhóm nước bảo vệ nhà đầu tư kém nhất. Việt Nam chỉ đạt 2.7/10 điểm cho chỉ số này, trong đó chỉ số về trách nhiệm
của giám đốc nằm trong nhóm thấp nhất thế giới (0/10), quyền khiếu kiện của cổ đông và tính minh bạch đều thấp (2/10 và 6/10).VN cần phải tiến hành nhiều cải cách trong lĩnh vực bảo vệ nhà đầu tư để họ có thể tự tin hơn khi bỏ vốn đầu tư.Môi trường dân số: Môi trường nhân khẩu:Đời sống các tầng lớp dân cư Việt Nam ở các vùng, miền trên cả nước tiếp tục được cải thiện – đó là kết quả sơ bộ khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004 do Tổng cục Thống kê tiến hành.Về thu nhập của dân cư, trong năm 2003-2004, thu nhập bình quân đầu người/tháng theo giá hiện hành đạt 484.000 đồng, tăng 36% so với năm 2001-2002. Ở khu vực thành thị, thu nhập đạt 795.000 đồng, tăng 27,8%; khu vực nông thôn đạt 377.000 đồng, tăng 36,9% so với năm 2001-2002 và tăng nhanh hơn khu vực thành thị.So với các vùng trong nước, thu nhập bình quân đầu người ở Tây Nguyên tăng cao nhất do giá cà phê và một số mặt hàng nông sản tăng; đặc biệt do tác động của các chính sách của Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên. Nhờ đó đến nay, tỷ lệ hộ nghèo về lương thực, thực phẩm của cả nước đã giảm từ 9,9% xuống còn 7,8%, 7trong đó ở thành thị còn 3,5%, riêng ở khu vực nông thôn còn 8,9%, giảm 3% so với năm 2001-2002.Mức chi tiêu cho đời sống năm 2003-2004 của cả nước đạt 370.000 đồng/người/tháng theo giá hiện hành, tăng 37,5% so với năm 2001-2002, góp phần giảm số hộ nghèo cả nước xuống còn 24,1%. Cũng theo kết quả khảo sát, hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân 1 người/tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất trong thời kỳ 2003-2004 tăng so với các năm trước 13,5 lần ( năm 2001-2002 là 12,5 lần) Cơ cấu dân số:Bảng 1: Cơ cấu dân số theo tuổi của Việt Nam (1979-2007)Đơn vị : %
Nguồn: – TĐTDS 1979, 1989, 1999 – Điều tra biến động DS-KHHGĐ năm 20078Số liệu bảng 1, cho thấy cơ cấu dân số theo tuổi của Việt Nam thay đổi nhanh chóng: tỷ lệ dân số của các nhóm tuổi đều tăng lên hoặc giảm đi một cách rõ rệt. Đặc biệt, tỷ lệ trẻ em ở nhóm (0-4) tuổi, năm 2007 so với năm 1979 chỉ còn khoảng 1/2. Ngược lại, trong 20 năm, tỷ lệ nhóm tuổi từ 5 trở lên đó tăng tới hơn hai lần: từ 0,16% năm 1979 tăng lên 0,38 % năm 1999. Điều này báo hiệu tuổi thọ tăng lên và xu hướng già hoá dân số đang diễn ra.Sự biến đổi cơ cấu dân số theo tuổi đã và đang tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta theo cả hai chiều: tạo ra cơ hội và nảy sinh những thách thức lớn. Bảng 2: Cơ cấu dân số Việt Nam theo nhóm tuổi phản ảnh khả năng tham gia lao động:Như vậy, sau gần 30 năm, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động của Việt Nam đã tăng từ khoảng 50% lên 65%, nghĩa là tăng thêm 15%. Nói khác đi, so với năm 1979, số người ở độ tuổi lao động trong 100 người dân, năm 2007 đã tăng thêm 15 9người. Năm 2005, ở các nước phát triển, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động là 63%, các nước đang phát triển khoảng 61,1% còn các nước kém phát triển nhất chỉ có 52,6%.Quy mô và cơ cấu dân số theo tuổi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định số lượng người “trong độ tuổi lao động”. Ở Việt Nam, không chỉ quy mô dân số tăng lên không ngừng mà cả “Tỷ lệ dân số từ 15 đến 59 tuổi” cũng tăng nhanh. Do vậy, số người trong độ tuổi lao động tăng lên với tốc độ thường cao hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số: Việt Nam là quốc gia có dân số đông. Dân số Việt Nam năm 2008 đạt xấp xỉ 86,2 triệu người, đông thứ 12 trên thế giới (sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Brazil, Pakistan, Bangladesh, Nigeria, Nhật Bản, Mexico, Philippines). Mật độ dân số cao 260 người/km
2 (đứng thứ 41/208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới) trong khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp thấp, nên diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người thấp và giảm mạnh (chỉ còn 0,11 ha, nếu tính riêng diện tích đất trồng lúa thì chỉ còn một nửa). Điều này đặt ra vấn đề cấp bách về bảo vệ quỹ đất. Dân số năm 2008 đã tăng gần 70,6 triệu người, hay cao gấp trên 5,5 lần so với năm 1921, bình quân một năm tăng 1,98% (tăng thấp nhất là thời kỳ 1943-1951 do hàng triệu người chết đói và chết trong chiến tranh). Tốc độ tăng dân số trong các thời kỳ đã có xu hướng giảm xuống, đến thời kỳ 1986-2008 còn 1,31%/năm, trong đó năm 2008 còn 1,2%. Tuy nhiên, đó vẫn là tỷ lệ cao thứ 32 ở châu Á và thứ 114 trên thế giới; mức tăng tuyệt đối vẫn còn trên 1 triệu người. Dân số đông, lại tăng lớn, nên sức ép về lao động việc làm rất lớn.Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đạt 72, đứng thứ 20 châu Á, thứ 83 thế giới. Đây là kết quả của việc nâng cao mức sống, kết quả tích cực của công tác y tế và chăm sóc sức khỏe. Đó cũng là một trong những yếu tố làm cho thứ bậc về chỉ số 10phát triển con người (HDI) của Việt Nam hơn một số nước có GDP bình quân đầu người cao hơn.Tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam nếu năm 1930 mới là 7,4%, đến năm 1951 là 10%, đến năm 1976 đã vượt qua mốc 20%, và đến năm 2008 là 27,9%. Tỷ lệ này chỉ đứng thứ 41 châu Á, 177 thế giới. Mặc dù tỷ lệ còn thấp, nhưng vẫn có cảm giác chật chội trong đô thị Việt Nam là do những yếu kém về quy hoạch, trật tự giao thông, môi trường nước, không khí Tỷ lệ nữ trong dân số vẫn còn cao hơn nam (năm 2008 là 50,9% so với 49,1%), đặc biệt là tỷ lệ sinh nam/nữ (112/100) mất cân bằng lớn Việt Nam là quốc gia có dân số đông. 1. Những tác động của môi trường kinh doanh Việt Nam:Thách thức: Hệ thống pháp luật yếu kém vẫn còn là một cản trở lớn:Theo Điều tra về Cảm nhận của Doanh nghiệp năm 2004 do Diễn đàn Doanh
Nghiệp Việt Nam thực hiện, các doanh nghiệp được phỏng vấn vẫn chưa hài lòng với môi trường pháp lý và chính sách hiện tại. Hệ thống pháp luật và chính sách về kinh doanh hiện nay còn nhiều mâu thuẫn và thiếu đồng bộ. Mâu thuẫn không chỉ tồn tại trong bản thân các luật và chính sách mà còn xuất hiện thêm khi các luật và chính sách mới ra đời tồn tại song song với các văn bản cũ. Việc thực thi pháp luật là một khâu yếu nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Cũng trong điều tra nói trên của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam, các doanh nghiệp đã bày tỏ mức độ hài lòng với việc thực thi luật pháp. Ví dụ, chế tài thực thi các quy định bảo đảm hiệu lực hợp đồng của Việt Nam là một chế tài được coi là kém hiệu quả nhất trong khu vực. Thời gian trung bình để giải quyết tranh chấp hợp đồng ở Việt Nam là 404 ngày với 37 thủ tục và chi phí lên đến 30% GDP trên đầu người- trong khi đó số liệu tương ứng ở Thái Lan là 390 ngày, 26 thủ tục và chi phí ở mức 13,4%. Hệ thống hành chính nặng nề, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp:11Trong năm qua, đã có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực cải cách hành chính công, một ví dụ cụ thể là cho đến tháng 10 năm 2004, mô hình Một cửa-Một dấu đã được triển khai ở 40% các tỉnh, 86% các huyện và 12% các xã. Tuy nhiên, các thủ tục hành chính công vẫn được coi là một trong những yếu tố ảnh hưởng chính tới môi trường kinh doanh và những vấn đề thường được nhắc đến nhiều nhất là:i. Thủ tục hành chính cho kinh doanh còn quá nhiều, có thủ tục không cần thiết.ii. Sự can thiệp hành chính thái quá và tuỳ tiện của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh. iii. Tình trạng cán bộ nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho doanh nghiệp chưa giảm.iv. Sự thiếu minh bạch và thiếu trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính.Một ví dụ cụ thể là việc đăng ký kinh doanh, mặc dù đã có rất nhiều cải thiện kể từ khi có Luật Doanh nghiệp, nhưng hiện nay để đăng ký kinh doanh ở Việt
Nam, doanh nghiệp vẫn cần phải chờ 56 ngày để hoàn thành 11 thủ tục với tổng chi phí chiếm khoảng 29% thu nhập bình quân đầu người/năm. Cũng với công việc đó ở Singapore, doanh nghiệp chỉ cần đợi 8 ngày, hoàn thành 7 thủ tục với chi phí chiếm khoảng 1% thu nhập bình quân đầu người/năm. Tham nhũng đe doạ sự ổn định xã hội và phát triển kinh tế:Các doanh nghiệp trả lời điều tra về cảm nhận môi trường kinh doanh năm 2004 của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng đấu tranh chống tham nhũng là hành động cấp bách nhất mà Chính phủ cần tiến hành trong năm tới. Tham nhũng làm tăng chi phí kinh doanh và có thể làm méo mó các chính sách phát triển kinh tế. Theo một điều tra gần đây của Ban Nội chính Trung ương, kết quả sơ bộ cho thấy rằng tham nhũng đang lan tràn ở những lĩnh vực như đầu tư cơ sở hạ tầng, quản lý đất đai, thuế. Một loạt những vụ việc tham nhũng lớn ở các bộ ngành và tổng công ty (như dầu khí, thương mại…) được phát hiện trong năm qua 12một mặt thể hiện quyết tâm chống tham nhũng của Chính phủ, mặt khác thể hiện mức độ trầm trọng và ảnh hưởng tiêu cực của tệ nạn này tới nền kinh tế và môi trường kinh doanh. Chi phí đầu vào cao:Cộng đồng doanh nhân trong và ngoài nước cho rằng cơ sở hạ tầng yếu kém, chi phí đầu vào sản xuất cao đang làm ảnh hưởng nhiều tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong Diễn đàn Doanh nghiệp năm 2004, các doanh nghiệp đã thảo luận nhiều về vấn đề này. Các chi phí đầu vào hiện đang còn cao bao gồm chi phí vận tải, thuê văn phòng, đóng góp an sinh xã hội và thiết bị sản xuất. Bảng dưới đây so sánh ba loại chi phí kinh doanh tại Hà Nội và một số thành phố khác ở châu Á, qua đó cho thấy Việt Nam có chi phí cao nhất so với các đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực.
Hà NộiBangkokManila
JakartaKuala LumpurThuê văn phòng (US$/m2/ tháng)251171814Chi phí giao thông (US$/ công-ten-nơ 40 feet tới t/p Yokohama, Nhật Bản)1.3001.200850990575Chi phí đóng góp của chủ doanh nghiệp tính trên lương tháng (lương hưu, BHYT, BH thất nghiệp)1746.217.2412Nguồn: JETRO: “So sánh chi phí đầu tư tại các thành phố châu Á”, tháng 3
Xem thêm: 5 cách để phục hồi đã xoá tài liệu Word có lẽ có thể lưu công việc của bạn
năm 2004.13 Hệ thống cơ sở hạ tầng kém:Về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (của VN năm 2005 là 3.112 USD, năm 2006 ước đạt khoảng 3.325 USD), nếu so với VN thì Indonesia gấp 1,4 lần; Philippines gấp 1,5 lần; CHND Trung Hoa gấp 1,9 lần; Thái Lan gấp 2,8 lần; Malaysia gấp 3,6 lần; Hàn Quốc gấp 6,6 lần; Singapore gấp 9,1 lần; Nhật Bản gấp 9,4 lần Nhưng so về cơ sở hạ tầng thì khoảng cách sẽ còn lớn hơn nữa. Thời gian để VN đạt mức như hiện nay của các nước trên về cơ sở hạ tầng chắc chắn sẽ nhiều hơn về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương! Đó là chưa nói, những nước này trong thời gian tương ứng cũng tăng trưởng với giá trị tuyệt đối của 1% tăng lên cao hơn VN. Chính phủ sẽ tập trung đầu tư hệ thống đường cao tốc, cảng biển, hệ thống điện, đường sắt Chủ trương nội địa hóa, phát triển công nghiệp phụ trợ đã được đề ra từ khá lâu, nhưng việc triển khai thực hiện rất chậm, vừa thiếu chủ động, vừa tăng tính gia công, vừa phụ thuộc vào nước ngoài, trong khi giá cả tăng giảm thất thường. Đã vậy, đối với một số đơn vị trong nước sản xuất cung cấp phụ tùng ô tô, xe máy, linh kiện điện tử cũng tham gia vào việc lắp ráp hoặc gia công, trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với khách hàng của họ, nên các công ty nước ngoài sẽ không dám chuyển giao công nghệ, đào tạo cho các nhà cung cấp trong nước và như thế sẽ ảnh hưởng đến khả năng phát triển. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ diễn ra phổ biến trên nhiều lĩnh vực, làm cho môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh và rất dễ dẫn đến những vụ kiện về mặt này. Công nhân lành nghề nói riêng và đào tạo nguồn nhân lực nói chung còn thiếu và yếu. Đồng thời với việc tăng ngân sách cho giáo dục – đào tạo, đẩy mạnh xã hội hóa, thí điểm cổ phần hóa các trường đại học công lập là việc mở rộng chương trình hợp tác đào tạo giữa các trường đại học VN và đại học nước ngoài. 14
Trong giai đoạn 2008 – 2010, Bộ sẽ chọn thêm 9 trường nữa tham gia chương trình liên kết đào tạo này. Ngoài ra, Bộ còn chủ trương đẩy mạnh việc đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp; nâng cao chất lượng giảng viên, giáo viên theo yêu cầu mới về chuẩn tri thức, đổi mới cơ chế tài chính Khu vực nông thôn rộng lớn còn chiếm tỷ trọng cao về lao động, chuyển dịch lao động chậm, tỷ lệ thiếu việc làm còn lớn, thu nhập thấp, lao động chưa qua đào tạo nhiều, tỷ lệ nghèo còn cao, nên dung lượng thị trường nhỏ, tâm lý tiểu nông còn nặng Ngay cả ba yếu tố được coi là hấp dẫn, thì yếu tố giá nhân công rẻ sẽ mất dần lợi thế; còn tiềm năng thị trường thì về số dân không thể sánh được với Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, về tốc độ tăng trưởng từ nhiều năm nay ta vẫn thấp thua Trung Quốc (năm 2002 tăng 9,1%, năm 2003 tăng 10%, năm 2004 tăng 10,1%, năm 2005 tăng 9,9%, năm 2006 tăng 10,5%, quý I/2007 tăng 10,5%) và từ vài năm nay ta cũng thấp thua Ấn Độ (năm 2003 tăng 8,28%, năm 2004 tăng 8,53%, năm 2005 tăng 8,53%, năm 2006 tăng khoảng 8,3%) Vấn đề sa thải lao động: Dù vấn đề tuyển dụng đã cải thiện rất nhiều và thuận lợi nhưng vấn đề sa thải còn nhiều khó khăn. Những người sử dụng lao động hiện nay thường đau đầu với việc không có đủ nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng yêu cầu công việc của mình, trong khi muốn sa thải lao động lại không dễ dàng, khiến cho thị trường lao động của Việt Nam bị mất đi tính linh hoạt. Thời gian lo thủ tục xuất nhập khẩu và chi phí xuất khẩu rất cao (trung bình 24 ngày và số tiền lên tới 669 USD/container). Điều này sẽ làm hạn chế sức cạnh tranh của Việt Nam thời kỳ hậu WTO, dù đây cũng là lĩnh vực quan trọng trong GDP, được kỳ vọng nhiều trong việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Thời gian và chi phí giải quyết các trường hợp phá sản ở Việt Nam vẫn còn kém hiệu quả, xếp hạng 121/178. Cơ chế hiện tại để giải quyết phá sản ở Việt Nam vẫn còn khó khăn và mất nhiều thời gian. 15Một trường hợp phá sản tại Việt Nam ước tính mất khoảng hơn 5 năm và tốn 15% chi phí giá trị tài sản nếu áp dụng quy trình chính thức. Hơn nữa khi kết thúc
việc phá sản, các bên liên quan chỉ thu hồi lại được 18% giá trị tài sản. Vì thế rất ít doanh nghiệp tuân theo các quy định và thủ tục chính thức khi muốn đóng cửa hoạt động. Sự sinh sôi của các đối thủ cạnh tranh:Những đối thủ cạnh tranh đáng gờm thâm nhập vào thị trường từ mọi phía. Các đối thủ mới không chỉ tạo sức ép về giá, thị trường có nhiều thương hiệu hơn, điều đó có nghĩa là việc tìm được chỗ đứng cho thương hiệu trở nên khó khăn hơn. Theo đó, mỗi thương hiệu có xu hướng bị đặt vào những vị trí nhỏ hẹp hơn. Các thị trường được nhắm đến trở nên nhỏ hơn và những thị trường không nhắm tới được lại phình to hơn. Những nỗ lực để tìm thấy một đoạn thị trường rộng lớn trở nên khó khăn hơn trong bối cảnh các thương hiệu tràn ngập trên thị trường. Hơn nữa, một số đối thủ cạnh tranh sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tìm phương thức hoạt động mới. Hậu quả có thể dẫn đến sự mất ổn định của môi trường cạnh tranh. Bên cạnh đó, trên thị trường cũng xuất hiện một xu hướng là các đối thủ sẽ bắt chước bất cứ phương thức hoạt động nào đang đạt được sự thành công. Sự phân tán của thị trường và hoạt động truyền thống: Nếu như trước đây, một thương hiệu có thể dễ dàng đạt được hiệu quả qua các phương tiện truyền thông bởi khi đó chỉ có một số rất ít sự lựa chọn cũng như phương tiện để quảng bá hình ảnh thương hiệu. Các thị trường tập trung còn hết sức phổ biến và chưa có các đoạn thị trường nhỏ. Trong khi đó, các nhà quản lý thương hiệu hiện nay phải đối mặt với một môi trường rất khác mà ở đó khó có thể đạt được sự nhất quán cần thiết để xây dựng và duy trì một thương hiệu mạnh.Việc điều phối càng trở nên khó khăn hơn do các hoạt động hỗ trợ thương hiệu thường được các tổ chức và cá nhân khác nhau tiến hành để đạt được những triển vọng và mục tiêu khác nhau. Các hoạt động như quảng cáo, PR, tài trợ, khuyến mãi, triễn lãm, dự trữ hàng hóa, tiếp thị trực tiếp, thiết kế bao bì, thiết kế 16định danh doanh nghiệp hay đặc trưng thương hiệu (corporate identity) đều có ảnh hưởng trực tiếp đến thương hiệu. Đôi khi chính những đơn vị trong nội bộ một công ty cũng sử dụng một hoặc nhiều trong những hình thức này làm phương tiện
cạnh tranh, điều đó có thể dẫn đến sự thiếu phối hợp và xung đột mục tiêu.Thêm vào đó, các công ty đang chia dân cư thành những thị trường mục tiêu nhỏ hơn và có nhiều tiềm năng hơn. Công việc này được thực hiện thông qua những phương tiện truyền thông và những kênh phân phối đặc biệt. Bên cạnh đó, họ còn phát triển những đặc trưng thương hiệu khác nhau cho những đoạn thị trường mới. Tuy nhiên, việc phát triển và quản lý các đặc trưng khác nhau cho cùng một thương hiệu luôn mang đến những rắc rối cho cả thương hiệu và khách hàng do các thông điệp được gửi đi trên các phương tiện truyền thông hay bị chồng chéo nhau khiến khách hàng biết đến rất nhiều đặc trưng cho cùng một thương hiệu. Như vậy càng có nhiều đặc trưng thương hiệu khác nhau thì việc điều phối để phát triển một thương hiệu mạnh càng trở nên khó khăn hơn. Việc xây dựng một thương hiệu trong môi trường kinh doanh hiện nay là không dễ dàng. Sự phức tạp của các chiến lược thương hiệu:Trước đây, một thương hiệu là một thực thể đơn lẻ và là đối tượng trọng tâm cần được củng cố và phát triển đối với các nhà quản lý thương hiệu. Ngày nay tình thế đã thay đổi. Sự ra đời của những thương hiệu phụ, thương hiệu mở rộng, thương hiệu về thành phần sản phẩm, các thương hiệu về nhà tài trợ và các thương hiệu công ty khiến cho các nhà quản lý thương hiệu phải bận rộn hơn nhiều. Như trường hợp của thương hiệu Coke là một ví dụ. Biểu trưng Coke được trông thấy trên hàng chục sản phẩm, bao gồm Diet Cherry Coke, Caffein Free Diet Coke, Coke Classic … Tuy nhiên, ở mỗi định vị thị trường, thương hiệu Coke lại mang một hình ảnh khác nhau. Ở các cửa hàng rau quả, Coke được coi là một thương hiệu sản phẩm; tại các sự kiện thể thao, nó là một thương hiệu tài trợ; và tại các cộng đồng có các nhà máy đóng chai sản phẩm thì Coke là một thương hiệu công ty. Sự phức hợp này làm cho việc quản lý thương hiệu trở nên khó khăn. Ngoài 17việc phải thiết kế được đặc trưng thương hiệu, các nhà quản lý thương hiệu cần phải hiểu được vai trò của thương hiệu trong từng bối cảnh. Ngoài ra, họ cũng cần phải làm rõ về mặt chiến lược và nâng cao nhận thức của khách hàng về những mối quan hệ giữa các thương hiệu (thương hiệu công ty với thương hiệu phụ, thương
hiệu mở rộng …) Xu hướng thay đổi các chiến lược:Đôi khi, trong các công ty cũng xảy ra những áp lực nội bộ lớn liên quan đến việc thay đổi đặc trưng và phương pháp thực hiện chương trình phát triển thương hiệu trong khi đặc trưng cũ vẫn còn hiệu quả hay còn chưa hết tiềm năng. Những thay đổi kiểu này có thể làm giảm giá trị hay thậm chí làm mất đi giá trị thương hiệu. Một thực tế là có rất nhiều công ty đã quá chú trọng đến việc phát triển thương hiệu mà không lưu tâm đến việc đầu tư chất xám và vốn để đổi mới sản phẩm và dịch vụ một cách thực sự toàn diện. Hiển nhiên việc đầu tư này luôn không chỉ tốn kém và mạo hiểm mà còn dẫn đến việc giảm lợi nhuận về mặt ngắn hạn. Ngoài ra, các nhà quản lý thương hiệu có thể đang quá tự mãn với những thành công của hiện tại và quá khứ, mặt khác do luôn phải luôn bận tâm đến những vấn đề thường trực hằng ngày. Do đó họ không nhìn thấy rõ những diễn biến và thay đổi của môi trường cạnh tranh. Do bỏ qua và không nắm được những diễn biến trên thị trường cũng như những bước phát triển về công nghệ, các nhà quản lý làm cho các thương hiệu của mình ngày càng mờ nhạt, mất đi động lực cạnh tranh. Kết quả là sức mạnh cạnh tranh của thương hiệu dần dần bị suy yếu. Đây chính là cơ hội tốt để các đối thủ cạnh tranh, vốn không có gì nhiều để mất, xâm nhập thị trường và chiến thắng với những nỗ lực đổi mới của mình. Áp lực đầu tư ở nơi khác:Vị trí của một thương hiệu hùng mạnh là một vấn đề chiến lược tiềm năng bởi nó thu hút cả sự tự mãn và lòng tham. Khi một thương hiệu được coi là hùng mạnh sẽ xuất hiện xu hướng giảm đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh trọng tâm để tăng 18cường các hoạt động kinh doanh ngắn hạn hay đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh mới. Tuy nhiên, người ta luôn lầm tưởng rằng thương hiệu không bị ảnh hưởng nếu ít được hỗ trợ và rằng có nhiều cơ hội đầu tư khác hấp dẫn hơn. Cuối cùng là các lĩnh vực kinh doanh mới thu hút nhiều nguồn lực công ty lại thường không thành công do chúng có những đòi hỏi quá cao trong khi khả năng của các công ty để tổ
chức và quản lý những lĩnh vực kinh doanh mới lại chỉ có hạn. Các áp lực về kết quả kinh doanh ngắn hạn:Những áp lực đạt được những kết quả kinh doanh ngắn hạn thường gây cản trở đến những đầu tư vào thương hiệu, đặc biệt là ở Mỹ. Người sáng lập ra hãng Sony, ông Akio Morita cho rằng phần lớn các nhà quản trị công ty ở Mỹ đều mong muốn tạo ra lợi nhuận nhanh chóng hơn là cố gắng làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh lâu dài. Một nghiên cứu tại các công ty ở lĩnh vực công nghiệp lớn như dệt may, thép, điện tử gia dụng, chế tạo máy bay và chế tạo ô tô đã kết luận rằng những sức ép thái quá về lợi nhuận tức thời mà hy sinh những cơ hội lâu dài là một nhân tố chủ yếu gây nên sự suy giảm khả năng cạnh tranh của các hãng kinh doanh Mỹ so với Nhật Bản và Châu Âu. Cơ hội: Quy mô thị trường vốn nợ của Việt Nam là tương đối nhỏ, chiếm khoảng dưới 10% GDP, trong khi tỷ lệ này ở các thị trường phát triển là 80% GDP. Điều này cho thấy thị trường nó có tiềm năng phát triển rất lớn. Về ảnh hưởng của tình hình suy thoái nền kinh tế Mỹ đến Việt Nam, Việt Nam đang có một nền kinh tế vững mạnh, thị trường vốn và tài chính vững chắc, về trung hạn và dài hạn là rất ổn định. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam cũng như một số nước châu Á hiện nay rất “khỏe” và sẽ không có những ảnh hưởng quá lớn đối với các thị trường này”. Việt Nam gia nhập WTO cuối năm ngoái đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Thời gian tiêu tốn cho thủ tục xuất nhập khẩu giảm đáng kể so với năm ngoái. 19 Việt Nam tăng cường bảo vệ nhà đầu tư thông qua việc ban hành Luật Doanh nghiệp mới và Luật chứng khoán, trong đó quy định những hoạt động chính của công ty phải có sự tham gia của nhà đầu tư và nâng cao yêu cầu công khai thông tin của công ty, đặc biệt thông tin về giao dịch của các bên có liên quan. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự 2005 và Nghị định 163/2006 về giao dịch bảo đảm đã cho phép doanh nghiệp sử dụng tất cả động sản hiện có và sẽ có trong
tương lai, hữu hình và vô hình làm vật thế chấp. Giá nhân công rẻ, môi trường xã hội ổn định, nhiều ưu đãi đầu tư chi phí sản xuất ở mức thấp nhất trong khu vực, giúp tăng sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh, trình độ lao động khá, đặc biệt là lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tinII. Đánh giá tiềm lực công ty coca – cola:Năm 1886, khi CocaCola lần đầu tiên được giới thiệu đến công chúng Alanta, chắc hẳn người Mỹ không ngờ được tương lai là “bá chủ toàn cầu” của thức uống này. Sự lan rộng của thương hiệu Cocacola gói gọn trong thông điệp “ăn, ngủ, nghỉ với Cocacola” của tập đoàn này. Hay nói một cách khác, hình ảnh của từng lon nước giải khát Coca đã trở thành biểu trưng cho cách sống vồn vã, bận rộn nhưng đầy trẻ trung, sức sống của người dân Mỹ.Sự hiện diện của Cocacola trên khắp 5 châu lục của thế giới là thành công của hơn 100 năm sáng tạo, tìm tòi và chuyển tải yếu tố văn hóa Mỹ vào thương hiệu, đồng thời quang bá yếu tố văn hóa đó đến toàn thế giới. Vượt qua thành kiến, yếu tố khác biệt văn hóa và tâm lý người tiêu dùng kể cả ở những thị trường khó khăn như Trung Quốc, Trung Đông, CocaCola vẫn tìm được sự hòa nhập, thích nghi mà không đánh mất hình ảnh của thứ nước giải khát “của người Mỹ”.Ngày nay, Coca – Cola được bán trên 150 quốc gia trên thế giới, doanh thu trong năm 2003 của Coca Cola đã vượt 15 tỷ USD. Nhưng không phải những bộ óc siêu việt của những ông vua thương mại không mắc lỗi lầm. Vào năm 1985, ban quản trị của Coca Cola đã vấp phải một lỗi lầm nghiêm trọng khi họ thay đổi công 20thức của Coca Cola để cho ra đời một sản phẩm mới gọi là “New Coke”. Kết quả là những năm sau đó, doanh số bán của Coca Cola tuột dốc thảm hại, khiến họ lập tức ngưng sản xuất “New Coke” và trở lại sản xuất “Classic Coke”. Sự thay đổi về công thức đã làm Coca Cola mất đi một số khách hàng đáng kể.1. Đối thủ cạnh tranh.Thị trường nước giải khát Việt Nam trong những năm gần đây có sự cạnh tranh sản phẩm giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Chiếm lĩnh thị trường nước giải khát hiện nay vẫn là hai đại gia Coca-Cola và Pepsi Cola (chiếm hơn 60% thị phần cả nước), còn lại thị trường của các đơn vị sản xuất trong nước như Tân Hiệp Phát, TRIBECO, BIDRICO… Do áp lực cạnh tranh trên thị trường, khiến các doanh nghiệp không ngừng tung ra các sản phẩm mới và thay đổi chiến lược sản xuất; trong đó có việc giảm tỷ trọng sản xuất nước giải khát có gas.Thị trường xuất khẩu nước giải khát, đặc biệt là các loại nước ép hoa quả, nước uống bổ dưỡng đã tăng trưởng nhanh chóng trong vài năm trở lại đây. Giá trị xuất khẩu nước uống bổ dưỡng chiếm trên 60% tổng giá trị xuất khẩu nước giải khát. Ngành nước giải khát đã chiếm được một thị phần lớn tại các thị trường cao cấp như: Hà Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Canada, Singapre, Trung Quốc. Các doanh nghiệp nước giải khát có nhiều sản phẩm xuất khẩu phải kể đến như: Công ty CP thực phẩm Đồng Giao, Công ty Yến sào Khánh Hòa, Công ty CP Nước giải khát TRIBECO…Vậy có thể thấy đối thủ cạnh tranh lớn nhất của côcacola hiện nay là Pepsi cola.2. Điểm mạnh của cocacola: Coca-Cola là công ty nước giải khát lớn nhất thế giới với hơn 450 thương hiệu sáng giá. Trên quy mô toàn cầu, Coca-Cola là nhà cung cấp số một thế giới về nước uống, nước ép và các đồ uống làm từ nước ép, trà và cà phê pha sẵn.21Kể từ khi quay lại thị trường Việt Nam năm 1994, Coca-Cola đã đầu tư hơn 200 triệu USD cho thị trường này và có các nhà máy đóng chai ở Hà Tây (cũ), Đà Nẵng và TP HCM. Công ty cung cấp cho người tiêu dùng Việt Nam nhiều thương hiệu nước giải khát nổi tiếng như Coca-Cola, Sprite, Fanta, Thumbs Up, Coca-Cola Light (cho người ăn kiêng), Schweppes; cùng các sản phẩm mới như nước cam có tép Minute Maid Splash, nước uống tinh khiết đóng chai Joy và nước tăng lực Samurai. Xây dựng nên một thương hiệu hàng hoá nổi tiếng: coca – cola là một
trong số ít các công ty dành một số tiền tương đương chi phí sản xuất để đánh bóng tên thương hiệu ngay từ khi mới thành lập. Sự tự tin: Nếu có một thương hiệu nào đó được xem là tự tin thì đó phải là Coca-Cola và sự tự tin này được thể hiện rõ ràng trong các khẩu hiệu quảng cáo của họ. Những câu chủ đề như “Thức uống không cồn tuyệt vời của quốc gia” (1906), “6 triệu một ngày” (1925), “Thứ thật” (1942), “Cái bạn muốn là một chai Coke” (1952), “Coke là thế” (1982) và “Luôn luôn là Coca-Cola” (1993) đều chứng tỏ tham vọng và sự tự tin của thương hiệu này. Tính xác thực: Kể từ chiến tranh thế giới thứ hai, Coca-Cola đã tự gán cho mình là “Thứ thật”. Mặc cho sự có mặt của những loại thức uống hương vị cola trước đó, ví như rượu Vin Mariani, và cho dù Pepsi-Cola có khởi đầu sau đó một thập niên so với đối thủ của mình ở Atlanta (năm 1894), Coca-Cola vẫn luôn được xem là loại thức uống cola đích thực nhất trên thị trường. Tính bền vững: Khác hẳn với sự xuất hiện ngắn ngủi vào thập niên 1980 của sản phẩm yểu mệnh “New Coke”, Coca-Cola vẫn luôn duy trì được tính cách nhất quán của mình. Tính cách này được xác lập trong thời kỳ trị vì lâu dài của Robert Woodruff, Tổng giám đốc của công ty từ năm 1923 cho đến khi Roberto Goizeta tiếp nhận cương vị này vào năm 1981. Công ty này chỉ 22mới chứng kiến 10 triều đại giám đốc điều hành trong suốt lịch sử lâu dài của mình. Sức hấp dẫn trẻ trung: ngay từ lúc ban sơ, Coca-Cola đã nhắm vào giới trẻ, thậm chí họ còn đặt cả những mẫu quảng cáo trên những bản tin học đường ở Atlanta trong các thập niên 1880, 1890. Sau đó vào năm 1931, thương hiệu này đã phối hợp với hình ảnh ông già Noel vừa uống xong một chai Coca-Cola để trở thành một trong những chứng nhận sản phẩm nổi bật nhất mọi thời đại. Phong cách Mỹ: Suốt thế kỷ 20, hình ảnh của Coca-Cola luôn là tiêu biểu cho tính cách Mỹ, từ những áp phích quảng cáo ban đầu có hình huyền
thoại Ty Cobb cho đến biểu ngữ to lớn có tên thương hiệu để chào đón sự trở về của phi hành gia Phil Armstrong sau chuyến du hành đến mặt trăng. Và trong suốt Thế chiến thứ hai, công ty này thậm chí còn hỗ trợ tiếp tế quân nhu cho quân đội Mỹ ở nước ngoài. Tính thẩm mỹ: Coca-Cola thấu hiểu sức mạnh của tính thẩm mỹ hơn bất cứ một thương hiệu tiêu dùng nào khác. Năm 1915, họ tổ chức một cuộc thi thiết kế mẫu chai Coca-Cola. Mẫu đoạt giải chính là kiểu chai thuỷ tinh Coca-Cola tròn trịa mà chúng ta vẫn nhìn thấy cho đến ngày nay, được đánh giá là một thiết kế thương mại tốt nhất của mọi thời. Chính kiểu chai mới này đã giúp Coca-Cola tái xuất hiện và chiếm lại vị thế hàng đầu của mình trên khắp thị trường thế giới. Hai màu biểu tượng thương hiệu đơn giản trắng và đỏ được sử dụng từ năm 1955 là một minh chứng khác nữa cho sự tập trung vào chất lượng thẩm mỹ của thương hiệu này. Thương hiệu hàng đầu thế giới:Coca-Cola được xem là một biểu tượng mang lại sự sảng khoái cho tất cả mọi người. Kiểu dáng quen thuộc và nổi bật của chai Coca-Cola cũng như sự khác biệt của nhãn hiệu đã trở thành một phần cuộc sống của người tiêu dùng. Thật vậy, cứ mỗi phút trong mỗi ngày lại có một người uống một trong những sản phẩm của 23Coca-Cola như – Coca classic, diet Coca, hoặc Coca-light với nhiều mùi như vani, cherry hoặc chanh có hoặc không có caffeine.Nước uống có gas luôn là một phần của phong cách Mỹ từ hơn 100 năm nay và vẫn giữ vững vị trí nước uống mang lại sự sảng khoái nhất. Theo số liệu thực tế cho thấy, một trong bốn loại nước uống được tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ hiện nay là loại nước có gas, trong đó doanh số bán lẻ đạt đến con số 61 tỉ USD mỗi năm.Coca-cola là một thương hiệu vững chắc được thừa nhận trên toàn thế giới. Coca-cola là một trong 100 thương hiệu hàng đầu thế giới (2006, theo Business week-Interbrand). Có giá trị là 67000 tỷ đola(2006). Giành được vị trí tốt trong cuộc cạnh tranh với Pepsi (xếp hạng 22 với 12690 tỷ USD). Sở hữu 4 trong 5 thương hiệu nước giải khát hàng đầu thế giới : coca-cola, diet coke,sprite và Fanta.
Xem thêm: 5 cách để phục hồi đã xoá tài liệu Word có lẽ có thể lưu công việc của bạn
Trong những năm qua, công ty đã có 1 cuộc đầu tư lớn vào việc phát triển thương hiệu. Do đó, ngày nay Coca-cola được thế giới công nhận là thương hiệu hàng đầu thế giới. Niềm đam mê của khách hàng dành cho Coca-Cola nguyên thủy: Giám đốc sản xuất Donald Keough của cocacola đã từng thừa nhận: “Đơn giản là tất cả thời gian, tiền bạc và các kĩ năng chúng tôi bỏ ra nghiên cứu khách hàng để cho ra một loại Coca-Cola mới đã không khám phá được sự gắn bó sâu sắc bên trong mà nhiều người dành cho Coca-Cola nguyên thủy. Niềm đam mê dành cho Coca-Cola nguyên thủy, vâng phải chính từ “đam mê” đã khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên. Nó là một bí mật tuyệt vời của người Mỹ, một điều khó hiểu rất đáng yêu của người Mỹ và bạn có thể xem nó tương tự như là một tình yêu, một niềm tự hào và một lòng yêu nước.” Có hệ thống phân phối hiệu quả: ví dụ có nhiều máy bán hàng tự động bán Coke hơn là bán Pepsi. Chiến lược marketing và mẫu mã sản phẩm luôn được ưu tiên hàng đầu: Coca Cola luôn đầu tư cho các chiến lược quảng cáo sản phẩm của hãng. Tại những cửa hàng bán lẻ và tại các siêu thị, Coca Cola bao giờ cũng được bày bán 24ngang tầm mắt, ngay trước những hành lang, hoặc những nơi bắt mắt. Coca Cola được đựng trong lon nhôm hoặc trong chai thuỷ tinh, bên ngoài dán nhãn hiệu màu đỏ tươi với hai chữ Coca Cola viết hoa theo chiều nghiêng 45 độ. Với màu đỏ tươi và với những đường cong trắng tuyệt diệu, Coca Cola đã thành công trong việc hấp dẫn và lôi cuốn khách hàng. Có một tổ chức lớn mạnh:Với thu nhập trên 24 tỷ USD, coca-cola có một tổ chức lớn mạnh. Coca-cola có nhà máy, hệ thống phân phối và thị trường nước giải khát lớn nhất thế giới. Bán sp đầu tiên của mình ở Mỹ vào năm 1886 và ngày nay, coca-cola đã có mặt trên 200 quốc gia, đã bán được trên 52 tỷ chai của tất cả các loại sản phẩm mỗi ngày.Cty đã xây dựng 1 cơ sở hạ tầng vững mạnh trên toàn tg. Sở hữu trên 32 nhà máy sản xuất chủ yếu đặt ở khắp thế giới. sở hữu hoặc thu hút trên 37 tổ chức với
97 nhà máy đóng chai chủ yếu đặt ở ngoài nước mỹ.3. Điểm yếu: Hương vị của coca – cola không ngọt bằng của Pespi.Trong những năm 1970, sau khi tiến hành chiến dịch “ Thử thách Pepsi” – để khách hàng so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của Pepsi và sản phẩm mang khẩu hiệu của Coca-Cola “the real thing”. Kết quả là hầu hết những ai tham gia đều thích công thức ngọt hơn của Pepsi. Mùi vị không thay đổi qua trên 100 năm: Đã từ lâu lắm rồi cái tên nước giải khát Coca-Cola gần như được coi là một biểu tượng văn hoá tiêu dùng và ẩm thực của người Mỹ. Coca-Cola cũng là thương hiệu nổi tiếng nhất toàn cầu khi mà cứ mỗi giây đồng hồ có tới 11.200 người đang uống thứ nước giải khát màu nâu này. Tập đoàn Coca-Cola hiện có mặt tại 200 nước trên thế giới. Lịch sử ra đời và phát triển của nước Coca-Cola là lịch sử chiến thắng vinh quang và ngoạn mục của mặt hàng tiêu dùng bình thường nhất. Tập đoàn Coca-Cola có trên 30.000 công nhân ở khắp thế giới ngày đêm trực tiếp sản xuất bên những dây chuyền đóng chai 25và đóng lon Coca-Cola hiện đại.Đó chỉ là con số những người ăn lương trực tiếp của tập đoàn. Còn số lượng những người kinh doanh, làm đại lý phân phối độc quyền hưởng hoa hồng của Coca-Cola thì có thể lên đến hàng trăm nghìn người. Coca-Cola luôn luôn tự hào, dù đóng chai ở đâu, nước nào thì mùi vị và chất lượng nước giải khát Coca-Cola không đổi. III. Mô hình swot và những chiến lược marketing của coca – cola.OTSS/OS/TW
W/TW/TKết hợp S – O: Ưu tiên hàng đầu chiến lược marketing và mẫu mã sản phẩm:Coca Cola luôn đầu tư cho các chiến lược quảng cáo sản phẩm của hãng. Tại những cửa hàng bán lẻ và tại các siêu thị, Coca Cola bao giờ cũng được bày bán ngang tầm mắt, ngay trước những hành lang, hoặc những nơi bắt mắt. Để có được sự ưu tiên này, Coca Cola phải trả những khoản tiền không nhỏ chút nào. Một yếu tố khác dẫn đến thành công của Coca Cola là hình thức trình bày sản phẩm. Coca Cola được đựng trong lon nhôm hoặc trong chai thuỷ tinh, bên ngoài dán nhãn hiệu màu đỏ tươi với hai chữ Coca Cola viết hoa theo chiều nghiêng 45 độ. Với màu đỏ tươi và với những đường cong trắng tuyệt diệu, Coca Cola đã thành công trong việc hấp dẫn và lôi cuốn khách hàng. Nhấn mạnh quản lý danh tiếng:Coca-Cola hoạt động trên phạm vi nhiều nước, thành đạt trong kinh doanh, đánh bại các đối thủ cạnh tranh, song chưa từng dùng cách đút lót, mặc dù tham III. Mô hình swot và những kế hoạch marketing của coca – cola. 1. Kết hợp S – O2. Kết hợp S – T3. Kết hợp W – O4. Kết hợp W – TI. Các yếu tố và tác động ảnh hưởng của môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại Nước Ta. 1. Các yếu tố thiên nhiên và môi trường kinh doanh thương mại Nước Ta : Yếu tố kinh tế tài chính : Biểu đồ tăng trưởng và thất nghiệp trong những chu kỳkinh tế – Nguồn : Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hộiTừ biểu đồ ta thấy từ năm 2000 – 2008, việc liên tục kiên trì đường lối đổi mớivới nhiều cải cách can đảm và mạnh mẽ, đặc biệt quan trọng là sự sinh ra Luật Doanh nghiệp đã giải phóngnguồn lực dồi dào trong khu vực dân doanh. GDP liên tục tăng qua những năm và đạt8, 5 % năm 2007, thất nghiệp giảm xuống chỉ còn 4,2 %. Tuy nhiên, để đạt được kếtquả đó, trong quá trình 2003 – 2007 cung tiền cũng tăng cao trung bình 25 % / năm, tín dụng thanh toán trong nước tăng trên 35 % / năm và đạt mức cao nhất quốc tế là 53 % trong năm2007Môi trường chính trị – pháp lý : Thủ tục đăng kí doanh nghiệp : Các điều tra và nghiên cứu về thiên nhiên và môi trường kinh doanh thương mại hầu hết đều đánh giá và nhận định rằng thủ tụcđăng kí kinh doanh thương mại đã được cải tổ rất nhiều và là một điểm sáng của môi trườngkinh doanh Nước Ta. Thành tựu lớn nhất trong quy trình tăng trưởng doanh nghiệp chính là sự cảithiện về khung pháp lý tương quan đăng kí kinh doanh thương mại và gia nhập thị trường. Hiệntại, những doanh nghiệp gia nhập thuận tiện hơn rất nhiều so với những năm trước, thủ tục, thời hạn và ngân sách đã thực sự được cắt giảm. Luật doanh nghiệp năm 2000 và năm 2005 là một bước tiến rất dài trong việctạo lập thiên nhiên và môi trường tích cực cho sự tăng trưởng công nghiệp của Nước Ta. Đây làmột trong những lí do chính yếu lý giải những văn minh vượt bậc của khu vực tưnhân những năm gần đây. Từ năm 2000 đến năm 2005, hơn 160 nghìn doanhnghiệp tư nhân mới được xây dựng với tổng vốn đăng kí gần 27 tỉ USD, gấp 2 lầnvốn FDI trong cùng thời kì. Các văn bản mà những địa phương ( ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộctrung ương ) phát hành đã được đơn giản hóa và cụ thể hóa. Việc thực thi chế độphân cấp tổng lực cho ủy ban nhân dân tỉnh và ban quản trị khu công nghiệp, khuchế xuất trong những thủ tục đăng kí, thẩm tra góp vốn đầu tư và quản trị góp vốn đầu tư đã giải tỏađược hiện tượng kỳ lạ ách tắc trong tiếp đón, phân loại, thẩm tra và cấp giấy chứngnhận góp vốn đầu tư. Bảo vệ nhà đầu tư : Trong Báo cáo Môi trường kinh doanh thương mại của WB, chỉ tiêu “ bảo vệ nhà đầu tư ” xem xét ba phương diện bảo vệ nhà đầu tư gồm có : – Tính minh bạch trong thanh toán giao dịch. – Trách nhiệm pháp lý của giám đốc. – Khả năng của cổ đông kiện những nhà quản trị có hành vi sai lầm. Việc đưa vào thực thi 2 luật mới của Nước Ta là luật Doanh nghiệp và luậtChứng khoán đã giúp tăng cường bảo vệ nhà đầu tư. Luật Chứng khoán pháp luật rõhoạt động của đầu tư và chứng khoán và TT thanh toán giao dịch sàn chứng khoán. LuậtDoanh nghiệp nhu yếu những nhà đầu tư phải có lời nói trong những hoạt động giải trí chínhcủa công ty. Cả 2 luật đều nâng cao nhu yếu báo cáo giải trình và minh bạch thông tin củacông ty, đặc biệt quan trọng là thông tin về thanh toán giao dịch với bên có tương quan. Tuy nhiên, mặc dầu Luật mới có lao lý nghĩa vụ và trách nhiệm và nghĩa vụ và trách nhiệm của giámđốc và thành viên hội động quản trị nhưng chưa phân phối chính sách thực thi những quyđịnh này. Các TANDTC kinh tế tài chính ở việt nam chưa có quyền xét xử những vấn đề tương quan đếnnhà góp vốn đầu tư kiện giám đốc hay thành viên hội đồng quản trị. Theo báo cáo giải trình của WB, việt nam vẫn nằm trong nhóm nước bảo vệ nhà đầu tư kém nhất. Nước Ta chỉ đạt 2.7 / 10 điểm cho chỉ số này, trong đó chỉ số về trách nhiệmcủa giám đốc nằm trong nhóm thấp nhất quốc tế ( 0/10 ), quyền khiếu kiện của cổđông và tính minh bạch đều thấp ( 2/10 và 6/10 ). việt nam cần phải triển khai nhiều cải cách trong nghành nghề dịch vụ bảo vệ nhà đầu tư để họcó thể tự tin hơn khi bỏ vốn góp vốn đầu tư. Môi trường dân số : Môi trường nhân khẩu : Đời sống những những tầng lớp dân cư Nước Ta ở những vùng, miền trên cả nước tiếp tụcđược cải tổ – đó là hiệu quả sơ bộ khảo sát mức sống hộ mái ấm gia đình năm 2004 doTổng cục Thống kê triển khai. Về thu nhập của dân cư, trong năm 2003 – 2004, thu nhập trung bình đầungười / tháng theo giá hiện hành đạt 484.000 đồng, tăng 36 % so với năm 2001 – 2002. Ở khu vực thành thị, thu nhập đạt 795.000 đồng, tăng 27,8 % ; khu vực nôngthôn đạt 377.000 đồng, tăng 36,9 % so với năm 2001 – 2002 và tăng nhanh hơn khuvực thành thị. So với những vùng trong nước, thu nhập trung bình đầu người ở Tây Nguyên tăngcao nhất do giá cafe và một số ít loại sản phẩm nông sản tăng ; đặc biệt quan trọng do tác động ảnh hưởng củacác chủ trương của Nhà nước so với vùng Tây Nguyên. Nhờ đó đến nay, tỷ suất hộnghèo về lương thực, thực phẩm của cả nước đã giảm từ 9,9 % xuống còn 7,8 %, trong đó ở thành thị còn 3,5 %, riêng ở khu vực nông thôn còn 8,9 %, giảm 3 % sovới năm 2001 – 2002. Mức tiêu tốn cho đời sống năm 2003 – 2004 của cả nước đạt 370.000 đồng / người / tháng theo giá hiện hành, tăng 37,5 % so với năm 2001 – 2002, góp phầngiảm số hộ nghèo cả nước xuống còn 24,1 %. Cũng theo hiệu quả khảo sát, hệ sốchênh lệch về thu nhập trung bình 1 người / tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhómhộ nghèo nhất trong thời kỳ 2003 – 2004 tăng so với những năm trước 13,5 lần ( năm2001-2002 là 12,5 lần ) Cơ cấu dân số : Bảng 1 : Cơ cấu dân số theo tuổi của Nước Ta ( 1979 – 2007 ) Đơn vị : % Nguồn : – TĐTDS 1979, 1989, 1999 – Điều tra dịch chuyển DS-KHHGĐ năm 2007S ố liệu bảng 1, cho thấy cơ cấu tổ chức dân số theo tuổi của Nước Ta biến hóa nhanhchóng : tỷ suất dân số của những nhóm tuổi đều tăng lên hoặc giảm đi một cách rõ ràng. Đặc biệt, tỷ suất trẻ nhỏ ở nhóm ( 0-4 ) tuổi, năm 2007 so với năm 1979 chỉ còn khoảng1 / 2. trái lại, trong 20 năm, tỷ suất nhóm tuổi từ 5 trở lên đó tăng tới hơn hai lần : từ0, 16 % năm 1979 tăng lên 0,38 % năm 1999. Điều này báo hiệu tuổi thọ tăng lên vàxu hướng già hoá dân số đang diễn ra. Sự biến đổi cơ cấu tổ chức dân số theo tuổi đã và đang ảnh hưởng tác động to lớn đến sự pháttriển kinh tế tài chính – xã hội ở nước ta theo cả hai chiều : tạo ra thời cơ và phát sinh nhữngthách thức lớn. Bảng 2 : Cơ cấu dân số Nước Ta theo nhóm tuổi phản ảnh năng lực tham gialao động : Như vậy, sau gần 30 năm, tỷ suất người trong độ tuổi lao động của Nước Ta đãtăng từ khoảng chừng 50 % lên 65 %, nghĩa là tăng thêm 15 %. Nói khác đi, so với năm1979, số người ở độ tuổi lao động trong 100 người dân, năm 2007 đã tăng thêm 15 người. Năm 2005, ở những nước tăng trưởng, tỷ suất người trong độ tuổi lao động là 63 %, những nước đang tăng trưởng khoảng chừng 61,1 % còn những nước kém tăng trưởng nhất chỉ có52, 6 %. Quy mô và cơ cấu tổ chức dân số theo tuổi có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác lập sốlượng người “ trong độ tuổi lao động ”. Ở Nước Ta, không riêng gì quy mô dân số tănglên không ngừng mà cả “ Tỷ lệ dân số từ 15 đến 59 tuổi ” cũng tăng nhanh. Do vậy, số người trong độ tuổi lao động tăng lên với vận tốc thường cao hơn nhiều so vớitốc độ tăng dân số. Quy mô dân số : Nước Ta là vương quốc có dân số đông. Dân số Nước Ta năm 2008 đạt xấp xỉ86, 2 triệu người, đông thứ 12 trên quốc tế ( sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Brazil, Pakistan, Bangladesh, Nigeria, Nhật Bản, Mexico, Philippines ). Mật độ dân số cao 260 người / km ( đứng thứ 41/208 nước và vùng chủ quyền lãnh thổ trên thếgiới ) trong khi diện tích quy hoạnh đất sản xuất nông nghiệp thấp, nên diện tích quy hoạnh đất sản xuấtnông nghiệp trung bình đầu người thấp và giảm mạnh ( chỉ còn 0,11 ha, nếu tínhriêng diện tích quy hoạnh đất trồng lúa thì chỉ còn 50% ). Điều này đặt ra yếu tố cấp báchvề bảo vệ quỹ đất. Dân số năm 2008 đã tăng gần 70,6 triệu người, hay cao gấp trên 5,5 lần so vớinăm 1921, trung bình một năm tăng 1,98 % ( tăng thấp nhất là thời kỳ 1943 – 1951 dohàng triệu người chết đói và chết trong cuộc chiến tranh ). Tốc độ tăng dân số trong cácthời kỳ đã có khuynh hướng giảm xuống, đến thời kỳ 1986 – 2008 còn 1,31 % / năm, trongđó năm 2008 còn 1,2 %. Tuy nhiên, đó vẫn là tỷ suất cao thứ 32 ở châu Á và thứ 114 trên quốc tế ; mức tăng tuyệt đối vẫn còn trên 1 triệu người. Dân số đông, lại tănglớn, nên sức ép về lao động việc làm rất lớn. Tuổi thọ trung bình của Nước Ta đạt 72, đứng thứ 20 châu Á, thứ 83 quốc tế. Đây là tác dụng của việc nâng cao mức sống, hiệu quả tích cực của công tác làm việc y tế vàchăm sóc sức khỏe thể chất. Đó cũng là một trong những yếu tố làm cho thứ bậc về chỉ số10phát triển con người ( HDI ) của Nước Ta hơn một số ít nước có GDP trung bình đầungười cao hơn. Tỷ lệ dân số thành thị của Nước Ta nếu năm 1930 mới là 7,4 %, đến năm1951 là 10 %, đến năm 1976 đã vượt qua mốc 20 %, và đến năm 2008 là 27,9 %. Tỷlệ này chỉ đứng thứ 41 châu Á, 177 quốc tế. Mặc dù tỷ suất còn thấp, nhưng vẫn cócảm giác eo hẹp trong đô thị Nước Ta là do những yếu kém về quy hoạch, trậttự giao thông vận tải, môi trường tự nhiên nước, không khí Tỷ lệ nữ trong dân số vẫn còn cao hơnnam ( năm 2008 là 50,9 % so với 49,1 % ), đặc biệt quan trọng là tỷ suất sinh nam / nữ ( 112 / 100 ) mất cân đối lớn Nước Ta là vương quốc có dân số đông. 1. Những ảnh hưởng tác động của môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại Nước Ta : Thách thức : Hệ thống pháp lý yếu kém vẫn còn là một cản trở lớn : Theo Điều tra về Cảm nhận của Doanh nghiệp năm 2004 do Diễn đàn DoanhNghiệp Nước Ta thực thi, những doanh nghiệp được phỏng vấn vẫn chưa hài lòngvới môi trường tự nhiên pháp lý và chủ trương hiện tại. Hệ thống pháp lý và chủ trương vềkinh doanh lúc bấy giờ còn nhiều xích míc và thiếu đồng điệu. Mâu thuẫn không chỉtồn tại trong bản thân những luật và chủ trương mà còn Open thêm khi những luật vàchính sách mới sinh ra sống sót song song với những văn bản cũ. Việc thực thi pháp lý là một khâu yếu nhất trong mạng lưới hệ thống pháp lý của ViệtNam. Cũng trong tìm hiểu nói trên của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam, những doanhnghiệp đã bày tỏ mức độ hài lòng với việc thực thi pháp luật. Ví dụ, chế tài thực thicác lao lý bảo vệ hiệu lực thực thi hiện hành hợp đồng của Nước Ta là một chế tài được coi làkém hiệu suất cao nhất trong khu vực. Thời gian trung bình để xử lý tranh chấphợp đồng ở Nước Ta là 404 ngày với 37 thủ tục và ngân sách lên đến 30 % GDP trênđầu người – trong khi đó số liệu tương ứng ở Vương Quốc của nụ cười là 390 ngày, 26 thủ tục và chiphí ở mức 13,4 %. Hệ thống hành chính nặng nề, làm tăng ngân sách cho doanh nghiệp : 11T rong năm qua, đã có nhiều văn minh trong nghành cải cách hành chính công, một ví dụ đơn cử là cho đến tháng 10 năm 2004, mô hình Một cửa-Một dấu đã đượctriển khai ở 40 % những tỉnh, 86 % những huyện và 12 % những xã. Tuy nhiên, những thủ tụchành chính công vẫn được coi là một trong những yếu tố tác động ảnh hưởng chính tới môitrường kinh doanh thương mại và những yếu tố thường được nhắc đến nhiều nhất là : i. Thủ tục hành chính cho kinh doanh thương mại còn quá nhiều, có thủ tục không cầnthiết. ii. Sự can thiệp hành chính thái quá và tuỳ tiện của những cơ quan nhà nước vàohoạt động sản xuất kinh doanh.iii. Tình trạng cán bộ nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn vất vả cho doanh nghiệpchưa giảm. iv. Sự thiếu minh bạch và thiếu nghĩa vụ và trách nhiệm báo cáo giải trình của những cơ quan hànhchính. Một ví dụ đơn cử là việc ĐK kinh doanh thương mại, mặc dầu đã có rất nhiều cải thiệnkể từ khi có Luật Doanh nghiệp, nhưng lúc bấy giờ để ĐK kinh doanh thương mại ở ViệtNam, doanh nghiệp vẫn cần phải chờ 56 ngày để triển khai xong 11 thủ tục với tổng chiphí chiếm khoảng chừng 29 % thu nhập trung bình đầu người / năm. Cũng với việc làm đóở Singapore, doanh nghiệp chỉ cần đợi 8 ngày, triển khai xong 7 thủ tục với chi phíchiếm khoảng chừng 1 % thu nhập trung bình đầu người / năm. Tham nhũng đe doạ sự không thay đổi xã hội và tăng trưởng kinh tế tài chính : Các doanh nghiệp vấn đáp tìm hiểu về cảm nhận môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại năm2004 của Diễn đàn Doanh nghiệp Nước Ta đều cho rằng đấu tranh chống thamnhũng là hành vi cấp bách nhất mà nhà nước cần thực thi trong năm tới. Tham nhũng làm tăng ngân sách kinh doanh thương mại và hoàn toàn có thể làm méo mó những chính sáchphát triển kinh tế tài chính. Theo một tìm hiểu gần đây của Ban Nội chính Trung ương, kếtquả sơ bộ cho thấy rằng tham nhũng đang lan tràn ở những nghành nghề dịch vụ như góp vốn đầu tư cơsở hạ tầng, quản trị đất đai, thuế. Một loạt những vấn đề tham nhũng lớn ở những bộngành và tổng công ty ( như dầu khí, thương mại … ) được phát hiện trong năm qua12một mặt bộc lộ quyết tâm chống tham nhũng của nhà nước, mặt khác thể hiệnmức độ trầm trọng và tác động ảnh hưởng xấu đi của tệ nạn này tới nền kinh tế tài chính và môitrường kinh doanh thương mại. Ngân sách chi tiêu nguồn vào cao : Cộng đồng người kinh doanh trong và ngoài nước cho rằng hạ tầng yếu kém, ngân sách nguồn vào sản xuất cao đang làm tác động ảnh hưởng nhiều tới năng lực cạnh tranh đối đầu củadoanh nghiệp. Trong Diễn đàn Doanh nghiệp năm 2004, những doanh nghiệp đã thảoluận nhiều về yếu tố này. Các ngân sách nguồn vào hiện đang còn cao gồm có chi phívận tải, thuê văn phòng, góp phần phúc lợi xã hội và thiết bị sản xuất. Bảng dướiđây so sánh ba loại ngân sách kinh doanh thương mại tại TP.HN và 1 số ít thành phố khác ở châuÁ, qua đó cho thấy Nước Ta có ngân sách cao nhất so với những đối thủ cạnh tranh cạnh tranhchính trong khu vực. Hà NộiBangkokManilaJakartaKualaLumpurThuê văn phòng ( US USD / mét vuông / tháng ) 25111814C hi phí giao thông vận tải ( US USD / công-ten-nơ 40 feet tới t / p Yokohama, Nhật Bản ) 1.3001.200850990575 Ngân sách chi tiêu đóng gópcủa chủ doanh nghiệptính trên lương tháng ( lương hưu, BHYT, BHthất nghiệp ) 176.217.2412 Nguồn : JETRO : ” So sánh ngân sách góp vốn đầu tư tại những thành phố châu Á ”, tháng 3 năm 2004.13 Hệ thống hạ tầng kém : Về GDP trung bình đầu người tính bằng USD theo tỷ giá nhu cầu mua sắm tươngđương ( của việt nam năm 2005 là 3.112 USD, năm 2006 ước đạt khoảng chừng 3.325 USD ), nếu so với việt nam thì Indonesia gấp 1,4 lần ; Philippines gấp 1,5 lần ; CHND TrungHoa gấp 1,9 lần ; Xứ sở nụ cười Thái Lan gấp 2,8 lần ; Malaysia gấp 3,6 lần ; Nước Hàn gấp 6,6 lần ; Nước Singapore gấp 9,1 lần ; Nhật Bản gấp 9,4 lầnNhưng so về hạ tầng thì khoảng cách sẽ còn lớn hơn nữa. Thời gian đểVN đạt mức như lúc bấy giờ của những nước trên về hạ tầng chắc như đinh sẽ nhiềuhơn về GDP trung bình đầu người tính bằng USD theo tỷ giá nhu cầu mua sắm tương tự ! Đó là chưa nói, những nước này trong thời hạn tương ứng cũng tăng trưởng với giátrị tuyệt đối của 1 % tăng lên cao hơn VN. nhà nước sẽ tập trung chuyên sâu góp vốn đầu tư hệ thốngđường cao tốc, cảng biển, mạng lưới hệ thống điện, đường tàu Chủ trương nội địa hóa, tăng trưởng công nghiệp phụ trợ đã được đề ra từkhá lâu, nhưng việc tiến hành thực thi rất chậm, vừa thiếu dữ thế chủ động, vừa tăng tínhgia công, vừa phụ thuộc vào vào quốc tế, trong khi giá thành tăng giảm thất thường. Đã vậy, so với 1 số ít đơn vị chức năng trong nước sản xuất cung ứng phụ tùng xe hơi, xemáy, linh phụ kiện điện tử cũng tham gia vào việc lắp ráp hoặc gia công, trở thành đốithủ cạnh tranh đối đầu trực tiếp với người mua của họ, nên những công ty quốc tế sẽkhông dám chuyển giao công nghệ tiên tiến, huấn luyện và đào tạo cho những nhà sản xuất trong nước vànhư thế sẽ ảnh hưởng tác động đến năng lực tăng trưởng. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ diễn ra phổ cập trên nhiều lĩnhvực, làm cho thiên nhiên và môi trường cạnh tranh đối đầu thiếu lành mạnh và rất dễ dẫn đến những vụkiện về mặt này. Công nhân tay nghề cao nói riêng và huấn luyện và đào tạo nguồn nhân lực nói chung cònthiếu và yếu. Đồng thời với việc tăng ngân sách cho giáo dục – huấn luyện và đào tạo, đẩy mạnhxã hội hóa, thử nghiệm cổ phần hóa những trường ĐH công lập là việc mở rộngchương trình hợp tác đào tạo và giảng dạy giữa những trường ĐH việt nam và ĐH quốc tế. 14T rong tiến trình 2008 – 2010, Bộ sẽ chọn thêm 9 trường nữa tham gia chươngtrình link giảng dạy này. Ngoài ra, Bộ còn chủ trương tăng nhanh việc giảng dạy theonhu cầu của doanh nghiệp ; nâng cao chất lượng giảng viên, giáo viên theo yêu cầumới về chuẩn tri thức, thay đổi chính sách kinh tế tài chính Khu vực nông thôn to lớn còn chiếm tỷ trọng cao về lao động, chuyểndịch lao động chậm, tỷ suất thiếu việc làm còn lớn, thu nhập thấp, lao động chưa quađào tạo nhiều, tỷ suất nghèo còn cao, nên dung tích thị trường nhỏ, tâm ý tiểu nôngcòn nặngNgay cả ba yếu tố được coi là mê hoặc, thì yếu tố giá nhân công rẻ sẽ mất dầnlợi thế ; còn tiềm năng thị trường thì về số dân không hề sánh được với Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, về vận tốc tăng trưởng từ nhiều năm nay ta vẫn thấp thuaTrung Quốc ( năm 2002 tăng 9,1 %, năm 2003 tăng 10 %, năm 2004 tăng 10,1 %, năm 2005 tăng 9,9 %, năm 2006 tăng 10,5 %, quý I / 2007 tăng 10,5 % ) và từ vài nămnay ta cũng thấp thua Ấn Độ ( năm 2003 tăng 8,28 %, năm 2004 tăng 8,53 %, năm2005 tăng 8,53 %, năm 2006 tăng khoảng chừng 8,3 % ) Vấn đề sa thải lao động : Dù yếu tố tuyển dụng đã cải tổ rất nhiều vàthuận lợi nhưng yếu tố sa thải còn nhiều khó khăn vất vả. Những người sử dụng lao độnghiện nay thường đau đầu với việc không có đủ nguồn nhân lực chất lượng đáp ứngyêu cầu việc làm của mình, trong khi muốn sa thải lao động lại không thuận tiện, khiến cho thị trường lao động của Nước Ta bị mất đi tính linh động. Thời gian lo thủ tục xuất nhập khẩu và ngân sách xuất khẩu rất cao ( trung bình24 ngày và số tiền lên tới 669 USD / container ). Điều này sẽ làm hạn chế sức cạnhtranh của Nước Ta thời kỳ hậu WTO, dù đây cũng là nghành quan trọng trongGDP, được kỳ vọng nhiều trong việc góp thêm phần thôi thúc tăng trưởng kinh tế tài chính. Thời gian và ngân sách xử lý những trường hợp phá sản ở Nước Ta vẫn cònkém hiệu suất cao, xếp hạng 121 / 178. Cơ chế hiện tại để xử lý phá sản ở Việt Namvẫn còn khó khăn vất vả và mất nhiều thời hạn. 15M ột trường hợp phá sản tại Nước Ta ước tính mất khoảng chừng hơn 5 năm và tốn15 % ngân sách giá trị gia tài nếu vận dụng quy trình tiến độ chính thức. Hơn nữa khi kết thúcviệc phá sản, những bên tương quan chỉ tịch thu lại được 18 % giá trị gia tài. Vì thế rất ítdoanh nghiệp tuân theo những lao lý và thủ tục chính thức khi muốn đóng cửa hoạtđộng. Sự sinh sôi của những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu : Những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu đáng gờm xâm nhập vào thị trường từ mọi phía. Các đối thủ cạnh tranh mới không riêng gì tạo sức ép về giá, thị trường có nhiều tên thương hiệu hơn, điều đó có nghĩa là việc tìm được chỗ đứng cho tên thương hiệu trở nên khó khăn vất vả hơn. Theo đó, mỗi tên thương hiệu có xu thế bị đặt vào những vị trí nhỏ hẹp hơn. Các thịtrường được nhắm đến trở nên nhỏ hơn và những thị trường không nhắm tới đượclại phình to hơn. Những nỗ lực để tìm thấy một đoạn thị trường to lớn trở nênkhó khăn hơn trong toàn cảnh những tên thương hiệu tràn ngập trên thị trường. Hơn nữa, một số ít đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu sẵn sàng chuẩn bị đồng ý rủi ro đáng tiếc để tìm phương pháp hoạt độngmới. Hậu quả hoàn toàn có thể dẫn đến sự mất không thay đổi của môi trường tự nhiên cạnh tranh đối đầu. Bên cạnhđó, trên thị trường cũng Open một khuynh hướng là những đối thủ cạnh tranh sẽ bắt chước bất cứphương thức hoạt động giải trí nào đang đạt được sự thành công xuất sắc. Sự phân tán của thị trường và hoạt động giải trí truyền thống cuội nguồn : Nếu như trước đây, một tên thương hiệu hoàn toàn có thể thuận tiện đạt được hiệu suất cao qua cácphương tiện truyền thông online bởi khi đó chỉ có 1 số ít rất ít sự lựa chọn cũng nhưphương tiện để tiếp thị hình ảnh tên thương hiệu. Các thị trường tập trung chuyên sâu còn hếtsức phổ cập và chưa có những đoạn thị trường nhỏ. Trong khi đó, những nhà quản lýthương hiệu lúc bấy giờ phải đương đầu với một thiên nhiên và môi trường rất khác mà ở đó khó có thểđạt được sự đồng nhất thiết yếu để thiết kế xây dựng và duy trì một tên thương hiệu mạnh. Việc điều phối càng trở nên khó khăn vất vả hơn do những hoạt động giải trí tương hỗ thươnghiệu thường được những tổ chức triển khai và cá thể khác nhau thực thi để đạt được nhữngtriển vọng và tiềm năng khác nhau. Các hoạt động giải trí như quảng cáo, PR, hỗ trợ vốn, khuyến mại, triễn lãm, dự trữ sản phẩm & hàng hóa, tiếp thị trực tiếp, phong cách thiết kế vỏ hộp, thiết kế16định danh doanh nghiệp hay đặc trưng tên thương hiệu ( corporate identity ) đều có ảnhhưởng trực tiếp đến tên thương hiệu. Đôi khi chính những đơn vị chức năng trong nội bộ mộtcông ty cũng sử dụng một hoặc nhiều trong những hình thức này làm phương tiệncạnh tranh, điều đó hoàn toàn có thể dẫn đến sự thiếu phối hợp và xung đột tiềm năng. Thêm vào đó, những công ty đang chia dân cư thành những thị trường mục tiêunhỏ hơn và có nhiều tiềm năng hơn. Công việc này được triển khai thông quanhững phương tiện đi lại truyền thông online và những kênh phân phối đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, họ còn tăng trưởng những đặc trưng tên thương hiệu khác nhau cho những đoạn thịtrường mới. Tuy nhiên, việc tăng trưởng và quản trị những đặc trưng khác nhau cho cùngmột tên thương hiệu luôn mang đến những rắc rối cho cả tên thương hiệu và khách hàngdo những thông điệp được gửi đi trên những phương tiện đi lại truyền thông online hay bị chồng chéonhau khiến người mua biết đến rất nhiều đặc trưng cho cùng một tên thương hiệu. Nhưvậy càng có nhiều đặc trưng tên thương hiệu khác nhau thì việc điều phối để phát triểnmột tên thương hiệu mạnh càng trở nên khó khăn vất vả hơn. Việc thiết kế xây dựng một thương hiệutrong môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại lúc bấy giờ là không thuận tiện. Sự phức tạp của những kế hoạch tên thương hiệu : Trước đây, một tên thương hiệu là một thực thể đơn lẻ và là đối tượng người tiêu dùng trọng tâmcần được củng cố và tăng trưởng so với những nhà quản trị tên thương hiệu. Ngày nay tìnhthế đã đổi khác. Sự sinh ra của những tên thương hiệu phụ, tên thương hiệu lan rộng ra, tên thương hiệu về thành phần mẫu sản phẩm, những tên thương hiệu về nhà hỗ trợ vốn và những thươnghiệu công ty khiến cho những nhà quản trị tên thương hiệu phải bận rộn hơn nhiều. Nhưtrường hợp của tên thương hiệu Coke là một ví dụ. Biểu trưng Coke được trông thấytrên hàng chục loại sản phẩm, gồm có Diet Cherry Coke, Caffein Free Diet Coke, Coke Classic … Tuy nhiên, ở mỗi xác định thị trường, tên thương hiệu Coke lại mangmột hình ảnh khác nhau. Ở những shop rau quả, Coke được coi là một thươnghiệu mẫu sản phẩm ; tại những sự kiện thể thao, nó là một tên thương hiệu hỗ trợ vốn ; và tại cáccộng đồng có những xí nghiệp sản xuất đóng chai mẫu sản phẩm thì Coke là một tên thương hiệu côngty. Sự phức tạp này làm cho việc quản trị tên thương hiệu trở nên khó khăn vất vả. Ngoài17việc phải phong cách thiết kế được đặc trưng tên thương hiệu, những nhà quản trị tên thương hiệu cầnphải hiểu được vai trò của tên thương hiệu trong từng toàn cảnh. Ngoài ra, họ cũng cầnphải làm rõ về mặt kế hoạch và nâng cao nhận thức của người mua về những mốiquan hệ giữa những tên thương hiệu ( tên thương hiệu công ty với tên thương hiệu phụ, thươnghiệu lan rộng ra … ) Xu hướng biến hóa những kế hoạch : Đôi khi, trong những công ty cũng xảy ra những áp lực đè nén nội bộ lớn tương quan đếnviệc biến hóa đặc trưng và chiêu thức thực thi chương trình tăng trưởng thươnghiệu trong khi đặc trưng cũ vẫn còn hiệu suất cao hay còn chưa hết tiềm năng. Nhữngthay đổi kiểu này hoàn toàn có thể làm giảm giá trị hay thậm chí còn làm mất đi giá trị thươnghiệu. Một trong thực tiễn là có rất nhiều công ty đã quá chú trọng đến việc tăng trưởng thươnghiệu mà không lưu tâm đến việc góp vốn đầu tư chất xám và vốn để thay đổi loại sản phẩm vàdịch vụ một cách thực sự tổng lực. Hiển nhiên việc góp vốn đầu tư này luôn không chỉ tốnkém và mạo hiểm mà còn dẫn đến việc giảm doanh thu về mặt thời gian ngắn. Ngoài ra, những nhà quản trị tên thương hiệu hoàn toàn có thể đang quá tự mãn với những thành công xuất sắc của hiệntại và quá khứ, mặt khác do luôn phải luôn bận tâm đến những yếu tố thường trựchằng ngày. Do đó họ không nhìn thấy rõ những diễn biến và biến hóa của môitrường cạnh tranh đối đầu. Do bỏ lỡ và không nắm được những diễn biến trên thị trườngcũng như những bước tăng trưởng về công nghệ tiên tiến, những nhà quản trị làm cho những thươnghiệu của mình ngày càng mờ nhạt, mất đi động lực cạnh tranh đối đầu. Kết quả là sức mạnhcạnh tranh của tên thương hiệu từ từ bị suy yếu. Đây chính là thời cơ tốt để những đốithủ cạnh tranh đối đầu, vốn không có gì nhiều để mất, xâm nhập thị trường và chiến thắngvới những nỗ lực thay đổi của mình. Áp lực góp vốn đầu tư ở nơi khác : Vị trí của một tên thương hiệu hùng mạnh là một yếu tố kế hoạch tiềm năng bởinó lôi cuốn cả sự tự mãn và lòng tham. Khi một tên thương hiệu được coi là hùng mạnhsẽ Open khuynh hướng giảm góp vốn đầu tư vào nghành kinh doanh thương mại trọng tâm để tăng18cường những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại thời gian ngắn hay góp vốn đầu tư vào những nghành kinh doanhmới. Tuy nhiên, người ta luôn lầm tưởng rằng tên thương hiệu không bị ảnh hưởng tác động nếuít được tương hỗ và rằng có nhiều thời cơ góp vốn đầu tư khác mê hoặc hơn. Cuối cùng là cáclĩnh vực kinh doanh thương mại mới lôi cuốn nhiều nguồn lực công ty lại thường không thànhcông do chúng có những yên cầu quá cao trong khi năng lực của những công ty để tổchức và quản trị những nghành kinh doanh thương mại mới lại chỉ có hạn. Các áp lực đè nén về tác dụng kinh doanh thương mại thời gian ngắn : Những áp lực đè nén đạt được những hiệu quả kinh doanh thương mại thời gian ngắn thường gây cảntrở đến những góp vốn đầu tư vào tên thương hiệu, đặc biệt quan trọng là ở Mỹ. Người sáng lập ra hãngSony, ông Akio Morita cho rằng phần nhiều những nhà quản trị công ty ở Mỹ đều mongmuốn tạo ra doanh thu nhanh gọn hơn là cố gắng nỗ lực làm cho loại sản phẩm có sức cạnhtranh vĩnh viễn. Một điều tra và nghiên cứu tại những công ty ở nghành nghề dịch vụ công nghiệp lớn như dệtmay, thép, điện tử gia dụng, sản xuất máy bay và sản xuất xe hơi đã Tóm lại rằng nhữngsức ép thái quá về doanh thu tức thời mà quyết tử những thời cơ lâu dài hơn là một nhântố đa phần gây nên sự suy giảm năng lực cạnh tranh đối đầu của những hãng kinh doanh thương mại Mỹso với Nhật Bản và Châu Âu. Cơ hội : Quy mô thị trường vốn nợ của Nước Ta là tương đối nhỏ, chiếm khoảngdưới 10 % GDP, trong khi tỷ suất này ở những thị trường tăng trưởng là 80 % GDP. Điềunày cho thấy thị trường nó có tiềm năng tăng trưởng rất lớn. Về tác động ảnh hưởng của tình hình suy thoái và khủng hoảng nền kinh tế tài chính Mỹ đến Nước Ta, ViệtNam đang có một nền kinh tế tài chính vững mạnh, thị trường vốn và kinh tế tài chính vững chãi, vềtrung hạn và dài hạn là rất không thay đổi. Tuy nhiên, nền kinh tế tài chính Nước Ta cũng như mộtsố nước châu Á lúc bấy giờ rất “ khỏe ” và sẽ không có những tác động ảnh hưởng quá lớn đốivới những thị trường này ”. Nước Ta gia nhập WTO cuối năm ngoái đã tạo điều kiện kèm theo thuận tiện hơncho những hoạt động giải trí xuất nhập khẩu. Thời gian tiêu tốn cho thủ tục xuất nhập khẩugiảm đáng kể so với năm ngoái. 19 Nước Ta tăng cường bảo vệ nhà đầu tư trải qua việc phát hành LuậtDoanh nghiệp mới và Luật chứng khoán, trong đó lao lý những hoạt động giải trí chínhcủa công ty phải có sự tham gia của nhà đầu tư và nâng cao nhu yếu công khaithông tin của công ty, đặc biệt quan trọng thông tin về thanh toán giao dịch của những bên có tương quan. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự 2005 và Nghị định 163 / 2006 về thanh toán giao dịch bảođảm đã được cho phép doanh nghiệp sử dụng toàn bộ động sản hiện có và sẽ có trongtương lai, hữu hình và vô hình dung làm vật thế chấp ngân hàng. Giá nhân công rẻ, môi trường tự nhiên xã hội không thay đổi, nhiều khuyến mại góp vốn đầu tư chi phísản xuất ở mức thấp nhất trong khu vực, giúp tăng sức cạnh tranh đối đầu của môi trườngkinh doanh, trình độ lao động khá, đặc biệt quan trọng là lao động trong nghành công nghệthông tinII. Đánh giá tiềm lực công ty coca – cola : Năm 1886, khi CocaCola lần tiên phong được trình làng đến công chúng Alanta, chắc rằng người Mỹ không ngờ được tương lai là “ bá chủ toàn thế giới ” của thức uốngnày. Sự lan rộng của tên thương hiệu Cocacola gói gọn trong thông điệp “ ăn, ngủ, nghỉvới Cocacola ” của tập đoàn lớn này. Hay nói một cách khác, hình ảnh của từng lonnước giải khát Coca đã trở thành biểu trưng cho cách sống vồn vã, bận rộn nhưngđầy tươi tắn, sức sống của người dân Mỹ. Sự hiện hữu của Cocacola trên khắp 5 lục địa của quốc tế là thành công xuất sắc củahơn 100 năm phát minh sáng tạo, tìm tòi và chuyển tải yếu tố văn hóa truyền thống Mỹ vào tên thương hiệu, đồng thời quang bá yếu tố văn hóa truyền thống đó đến toàn quốc tế. Vượt qua thành kiến, yếutố độc lạ văn hóa truyền thống và tâm ý người tiêu dùng kể cả ở những thị trường khó khănnhư Trung Quốc, Trung Đông, CocaCola vẫn tìm được sự hòa nhập, thích nghi màkhông đánh mất hình ảnh của thứ nước giải khát “ của người Mỹ ”. Ngày nay, Coca – Cola được bán trên 150 vương quốc trên quốc tế, doanh thutrong năm 2003 của Coca Cola đã vượt 15 tỷ USD. Nhưng không phải những bộ ócsiêu việt của những ông vua thương mại không mắc lỗi lầm. Vào năm 1985, banquản trị của Coca Cola đã vấp phải một lỗi lầm nghiêm trọng khi họ đổi khác công20thức của Coca Cola để cho sinh ra một mẫu sản phẩm mới gọi là ” New Coke “. Kết quả lànhững năm sau đó, doanh thu bán của Coca Cola tuột dốc thảm hại, khiến họ lập tứcngưng sản xuất ” New Coke ” và trở lại sản xuất ” Classic Coke “. Sự đổi khác vềcông thức đã làm Coca Cola mất đi 1 số ít người mua đáng kể. 1. Đối thủ cạnh tranh đối đầu. Thị trường nước giải khát Nước Ta trong những năm gần đây có sự cạnhtranh loại sản phẩm giữa những doanh nghiệp trong nước với những doanh nghiệp có vốn đầutư quốc tế. Chiếm lĩnh thị trường nước giải khát lúc bấy giờ vẫn là hai đại giaCoca-Cola và Pepsi Cola ( chiếm hơn 60 % thị trường cả nước ), còn lại thị trường củacác đơn vị chức năng sản xuất trong nước như Tân Hiệp Phát, TRIBECO, BIDRICO … Do áplực cạnh tranh đối đầu trên thị trường, khiến những doanh nghiệp không ngừng tung ra những sảnphẩm mới và đổi khác kế hoạch sản xuất ; trong đó có việc giảm tỷ trọng sản xuấtnước giải khát có gas. Thị trường xuất khẩu nước giải khát, đặc biệt quan trọng là những loại nước ép hoa quả, nước uống bổ dưỡng đã tăng trưởng nhanh gọn trong vài năm trở lại đây. Giá trịxuất khẩu nước uống bổ dưỡng chiếm trên 60 % tổng giá trị xuất khẩu nước giảikhát. Ngành nước giải khát đã chiếm được một thị phần lớn tại những thị trường caocấp như : Hà Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Canada, Singapre, Trung Quốc. Cácdoanh nghiệp nước giải khát có nhiều mẫu sản phẩm xuất khẩu phải kể đến như : Côngty CP thực phẩm Đồng Giao, Công ty Yến sào Khánh Hòa, Công ty CP Nước giảikhát TRIBECO … Vậy hoàn toàn có thể thấy đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu lớn nhất của côcacola lúc bấy giờ là Pepsicola. 2. Điểm mạnh của cocacola : Coca-Cola là công ty nước giải khát lớn nhất quốc tế với hơn 450 tên thương hiệu sáng giá. Trên quy mô toàn thế giới, Coca-Cola là nhà phân phối số một quốc tế về nướcuống, nước ép và những đồ uống làm từ nước ép, trà và cafe pha sẵn. 21K ể từ khi quay lại thị trường Nước Ta năm 1994, Coca-Cola đã góp vốn đầu tư hơn200 triệu USD cho thị trường này và có những nhà máy sản xuất đóng chai ở Hà Tây ( cũ ), ĐàNẵng và TP HCM. Công ty cung ứng cho người tiêu dùng Nước Ta nhiều thươnghiệu nước giải khát nổi tiếng như Coca-Cola, Sprite, Fanta, Thumbs Up, Coca-ColaLight ( cho người ăn kiêng ), Schweppes ; cùng những loại sản phẩm mới như nước cam cótép Minute Maid Splash, nước uống tinh khiết đóng chai Joy và nước tăng lựcSamurai. Xây dựng nên một tên thương hiệu hàng hoá nổi tiếng : coca – cola là mộttrong số ít những công ty dành một số tiền tương tự chi phí sản xuất để đánh bóngtên tên thương hiệu ngay từ khi mới xây dựng. Sự tự tin : Nếu có một tên thương hiệu nào đó được xem là tự tin thì đóphải là Coca-Cola và sự tự tin này được biểu lộ rõ ràng trong những khẩu hiệuquảng cáo của họ. Những câu chủ đề như “ Thức uống không cồn tuyệt vời củaquốc gia ” ( 1906 ), “ 6 triệu một ngày ” ( 1925 ), “ Thứ thật ” ( 1942 ), “ Cái bạnmuốn là một chai Coke ” ( 1952 ), “ Coke là thế ” ( 1982 ) và “ Luôn luôn là Coca-Cola ” ( 1993 ) đều chứng tỏ tham vọng và sự tự tin của tên thương hiệu này. Tính xác nhận : Kể từ cuộc chiến tranh quốc tế thứ hai, Coca-Cola đã tựgán cho mình là “ Thứ thật ”. Mặc cho sự xuất hiện của những loại thức uốnghương vị cola trước đó, ví như rượu Vin Mariani, và mặc dầu Pepsi-Cola cókhởi đầu sau đó một thập niên so với đối thủ cạnh tranh của mình ở Atlanta ( năm 1894 ), Coca-Cola vẫn luôn được xem là loại thức uống cola đích thực nhất trên thịtrường. Tính vững chắc : Khác hẳn với sự Open ngắn ngủi vào thập niên1980 của mẫu sản phẩm yểu mệnh “ New Coke ”, Coca-Cola vẫn luôn duy trì đượctính cách đồng điệu của mình. Tính cách này được xác lập trong thời kỳ trị vìlâu dài của Robert Woodruff, Tổng giám đốc của công ty từ năm 1923 cho đếnkhi Roberto Goizeta tiếp đón cương vị này vào năm 1981. Công ty này chỉ22mới tận mắt chứng kiến 10 triều đại giám đốc điều hành quản lý trong suốt lịch sử vẻ vang lâu dài hơn củamình. Sức hấp dẫn tươi tắn : ngay từ lúc ban sơ, Coca-Cola đã nhắm vàogiới trẻ, thậm chí còn họ còn đặt cả những mẫu quảng cáo trên những bản tin họcđường ở Atlanta trong những thập niên 1880, 1890. Sau đó vào năm 1931, tên thương hiệu này đã phối hợp với hình ảnh ông già Noel vừa uống xong mộtchai Coca-Cola để trở thành một trong những ghi nhận loại sản phẩm nổi bậtnhất mọi thời đại. Phong cách Mỹ : Suốt thế kỷ 20, hình ảnh của Coca-Cola luôn là tiêubiểu cho tính cách Mỹ, từ những áp phích quảng cáo khởi đầu có hình huyềnthoại Ty Cobb cho đến biểu ngữ to lớn có tên tên thương hiệu để nghênh đón sự trởvề của phi hành gia Phil Armstrong sau chuyến du hành đến mặt trăng. Vàtrong suốt Thế chiến thứ hai, công ty này thậm chí còn còn tương hỗ tiếp tế quân nhucho quân đội Mỹ ở quốc tế. Tính thẩm mỹ và nghệ thuật : Coca-Cola đồng cảm sức mạnh của tính thẩm mỹ và nghệ thuật hơnbất cứ một tên thương hiệu tiêu dùng nào khác. Năm 1915, họ tổ chức triển khai một cuộcthi thiết kế mẫu chai Coca-Cola. Mẫu đoạt giải chính là kiểu chai thuỷ tinhCoca-Cola tròn trịa mà tất cả chúng ta vẫn nhìn thấy cho đến ngày này, được đánhgiá là một phong cách thiết kế thương mại tốt nhất của mọi thời. Chính kiểu chai mới nàyđã giúp Coca-Cola tái xuất hiện và chiếm lại vị thế số 1 của mình trênkhắp thị trường quốc tế. Hai màu hình tượng tên thương hiệu đơn thuần trắng và đỏđược sử dụng từ năm 1955 là một vật chứng khác nữa cho sự tập trung chuyên sâu vàochất lượng thẩm mỹ và nghệ thuật của tên thương hiệu này. Thương hiệu số 1 quốc tế : Coca-Cola được xem là một hình tượng mang lại sự sảng khoái cho tổng thể mọingười. Kiểu dáng quen thuộc và điển hình nổi bật của chai Coca-Cola cũng như sự khác biệtcủa thương hiệu đã trở thành một phần đời sống của người tiêu dùng. Thật vậy, cứmỗi phút trong mỗi ngày lại có một người uống một trong những mẫu sản phẩm của23Coca-Cola như – Coca classic, diet Coca, hoặc Coca-light với nhiều mùi như vani, cherry hoặc chanh có hoặc không có caffeine. Nước uống có gas luôn là một phần của phong thái Mỹ từ hơn 100 năm nayvà vẫn giữ vững vị trí nước uống mang lại sự sảng khoái nhất. Theo số liệu thực tếcho thấy, một trong bốn loại nước uống được tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ lúc bấy giờ làloại nước có gas, trong đó doanh thu kinh doanh bán lẻ đạt đến số lượng 61 tỉ USD mỗi năm. Coca-cola là một tên thương hiệu vững chãi được thừa nhận trên toàn quốc tế. Coca-cola là một trong 100 tên thương hiệu số 1 quốc tế ( 2006, theo Businessweek-Interbrand ). Có giá trị là 67000 tỷ đola ( 2006 ). Giành được vị trí tốt trongcuộc cạnh tranh đối đầu với Pepsi ( xếp hạng 22 với 12690 tỷ USD ). Sở hữu 4 trong 5 tên thương hiệu nước giải khát số 1 quốc tế : coca-cola, diet coke, sprite và Fanta. Trong những năm qua, công ty đã có 1 cuộc góp vốn đầu tư lớn vào việc phát triểnthương hiệu. Do đó, ngày này Coca-cola được quốc tế công nhận là thương hiệuhàng đầu quốc tế. Niềm đam mê của người mua dành cho Coca-Cola nguyên thủy : Giámđốc sản xuất Donald Keough của cocacola đã từng thừa nhận : “ Đơn giản là tất cảthời gian, tiền tài và những kĩ năng chúng tôi bỏ ra nghiên cứu và điều tra người mua để cho ramột loại Coca-Cola mới đã không tò mò được sự gắn bó thâm thúy bên trong mànhiều người dành cho Coca-Cola nguyên thủy. Niềm đam mê dành cho Coca-Colanguyên thủy, vâng phải chính từ “ đam mê ” đã khiến chúng tôi vô cùng quá bất ngờ. Nó là một bí hiểm tuyệt vời của người Mỹ, một điều khó hiểu rất đáng yêu củangười Mỹ và bạn hoàn toàn có thể xem nó tựa như như là một tình yêu, một niềm tự hào vàmột lòng yêu nước. ” Có mạng lưới hệ thống phân phối hiệu suất cao : ví dụ có nhiều máy bán hàng tự độngbán Coke hơn là bán Pepsi. Chiến lược marketing và mẫu mã mẫu sản phẩm luôn được ưu tiên hàngđầu : Coca Cola luôn góp vốn đầu tư cho những kế hoạch quảng cáo loại sản phẩm của hãng. Tạinhững shop kinh doanh nhỏ và tại những siêu thị nhà hàng, Coca Cola khi nào cũng được bày bán24ngang tầm mắt, ngay trước những hiên chạy, hoặc những nơi đẹp mắt. Coca Colađược đựng trong lon nhôm hoặc trong chai thuỷ tinh, bên ngoài dán thương hiệu màuđỏ tươi với hai chữ Coca Cola viết hoa theo chiều nghiêng 45 độ. Với màu đỏ tươivà với những đường cong trắng tuyệt diệu, Coca Cola đã thành công xuất sắc trong việc hấpdẫn và hấp dẫn người mua. Có một tổ chức triển khai vững mạnh : Với thu nhập trên 24 tỷ USD, coca-cola có một tổ chức triển khai vững mạnh. Coca-colacó xí nghiệp sản xuất, mạng lưới hệ thống phân phối và thị trường nước giải khát lớn nhất quốc tế. Bánsp tiên phong của mình ở Mỹ vào năm 1886 và ngày này, coca-cola đã xuất hiện trên200 vương quốc, đã bán được trên 52 tỷ chai của toàn bộ những loại mẫu sản phẩm mỗi ngày. Cty đã kiến thiết xây dựng 1 hạ tầng vững mạnh trên toàn tg. Sở hữu trên 32 nhàmáy sản xuất đa phần đặt ở khắp quốc tế. chiếm hữu hoặc lôi cuốn trên 37 tổ chức triển khai với97 xí nghiệp sản xuất đóng chai đa phần đặt ở ngoài nước mỹ. 3. Điểm yếu : Hương vị của coca – cola không ngọt bằng của Pespi. Trong những năm 1970, sau khi thực thi chiến dịch “ Thử thách Pepsi ” – đểkhách hàng so sánh sự độc lạ giữa mẫu sản phẩm của Pepsi và mẫu sản phẩm mang khẩuhiệu của Coca-Cola “ the real thing ”. Kết quả là hầu hết những ai tham gia đềuthích công thức ngọt hơn của Pepsi. Mùi vị không biến hóa qua trên 100 năm : Đã từ lâu lắm rồi cái tên nước giải khát Coca-Cola gần như được coi là mộtbiểu tượng văn hoá tiêu dùng và ẩm thực ăn uống của người Mỹ. Coca-Cola cũng là thươnghiệu nổi tiếng nhất toàn thế giới khi mà cứ mỗi giây đồng hồ đeo tay có tới 11.200 người đanguống thứ nước giải khát màu nâu này. Tập đoàn Coca-Cola hiện xuất hiện tại 200 nước trên quốc tế. Lịch sử sinh ra vàphát triển của nước Coca-Cola là lịch sử vẻ vang thắng lợi vinh quang và ngoạn mục củamặt hàng tiêu dùng thông thường nhất. Tập đoàn Coca-Cola có trên 30.000 côngnhân ở khắp quốc tế ngày đêm trực tiếp sản xuất bên những dây chuyền sản xuất đóng chai25và đóng lon Coca-Cola văn minh. Đó chỉ là số lượng những người ăn lương trực tiếpcủa tập đoàn lớn. Còn số lượng những người kinh doanh thương mại, làm đại lý phân phối độcquyền hưởng hoa hồng của Coca-Cola thì hoàn toàn có thể lên đến hàng trăm nghìn người. Coca-Cola luôn luôn tự hào, dù đóng chai ở đâu, nước nào thì mùi vị và chất lượngnước giải khát Coca-Cola không đổi. III. Mô hình swot và những kế hoạch marketing của coca – cola. S / OS / TW / TW / TKết hợp S – O : Ưu tiên số 1 kế hoạch marketing và mẫu mã mẫu sản phẩm : Coca Cola luôn góp vốn đầu tư cho những kế hoạch quảng cáo mẫu sản phẩm của hãng. Tạinhững shop kinh doanh nhỏ và tại những nhà hàng, Coca Cola khi nào cũng được bày bánngang tầm mắt, ngay trước những hiên chạy dọc, hoặc những nơi đẹp mắt. Để có đượcsự ưu tiên này, Coca Cola phải trả những khoản tiền không nhỏ chút nào. Một yếu tố khác dẫn đến thành công xuất sắc của Coca Cola là hình thức trình diễn sảnphẩm. Coca Cola được đựng trong lon nhôm hoặc trong chai thuỷ tinh, bên ngoàidán thương hiệu màu đỏ tươi với hai chữ Coca Cola viết hoa theo chiều nghiêng 45 độ. Với màu đỏ tươi và với những đường cong trắng tuyệt diệu, Coca Cola đã thànhcông trong việc mê hoặc và hấp dẫn người mua. Nhấn mạnh quản trị nổi tiếng : Coca-Cola hoạt động giải trí trên khoanh vùng phạm vi nhiều nước, thành đạt trong kinh doanh thương mại, vượt mặt những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu, tuy nhiên chưa từng dùng cách đút lót, mặc dầu tham
Từ khóa » Chiến Lược Swot Của Coca Cola
-
Ma Trận SWOT Của Coca Cola - Phân Tích Mô Hình SWOT 2022
-
Phân Tích Mô Hình SWOT Coca Cola 2022 - ATP Software
-
Phân Tích Mô Hình SWOT Của Coca-Cola - rketing
-
Ma Trận Phân Tích SWOT Của Coca-Cola: Cơ Hội Và điểm Yếu
-
Mô Hình Swot Của Co Coca Cola Vieetj Nam - StuDocu
-
Mô Hình Swot Của Coca Cola Có Gì Những ưu điểm Gì? - Tahico
-
Phân Tích Mô Hình SWOT Của Coca Cola Trong Môi Trường ... - 123doc
-
Top 14 Chiến Lược Swot Của Coca Cola
-
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HỌC VIỆN ...
-
Mô Hình Swot Của Coca Cola (Phiên Bản đầy đủ Mới Nhất 2020)
-
Tổng Hợp Các Phân Tích Về Mô Hình Swot Của Coca Cola
-
Nội Dung Phân Tích Mô Hình SWOT Của Coca Cola Trong Môi Trường ...