Phân Tích Người đàn Bà Hàng Chài Trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa

Em đang băn khoăn làm thế nào để phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài với thế giới nội tâm đầy mâu thuẫn trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu? Đừng lo lắng! Bài viết này sẽ cung cấp cho em hướng dẫn chi tiết, từ việc tìm hiểu bối cảnh sáng tác, phân tích chân dung nhân vật đến khám phá những tầng ý nghĩa sâu sắc. Bất kể các em là học sinh, sinh viên hay người yêu văn học, bài viết này sẽ giúp em có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về hình tượng nhân vật đầy ám ảnh này.

Tài liệu hướng dẫn phân tích người đàn bà hàng chài do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm những gợi ý chi tiết giúp em làm tốt các bước phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy kèm theo những bài văn mẫu hay để tham khảo, mở rộng vốn từ ngữ.

Huong dan phan tich nhan vat nguoi dan ba hang chai

Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật người đàn bà hàng chài

1. Tác giả Nguyễn Minh Châu

- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam giai đoạn chiến tranh và thời kỳ đầu đổi mới với nhiều cống hiến. Ông luôn có trăn trở về cuộc đời con người cũng như sứ mệnh người nghệ sĩ.

- Trước khi mất, ông đã để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình.

- Tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977),...

- Một số ý kiến đánh giá về Nguyễn Minh Châu:

+ "Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này" (Nguyễn Khải)

+ "Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng". (Nhà phê bình Nikolai Nikulin)

2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

- Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư - thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống.

- Nội dung chính: Thông qua câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật, với một cốt truyện nhiều tình huống bất ngờ với hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập đến tính trung thực của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực cũng như những vấn đề phức tạp của cuộc sống, kể cả bi kịch số phận con người.

3. Người đàn bà hàng chài là ai?

- Người đàn bà hàng chài là nhân vật đặc sắc nhất của truyện, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả.

- Nhân vật người đàn bà hàng chài chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và trong câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

- Tại sao Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài?

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến mức không thể đặt cho chị một cái tên. Chị như một biểu tượng của những người phụ nữ ở vùng biển nhỏ bé này có cùng số phận. Tác giả gọi chị theo tên công việc làm ăn và giới tính, người đã có chồng, người đàn bà hàng chài vì nó vừa nêu được những nét cụ thể về cuộc đời, số phận của người phụ nữ trong xã hội còn phải chịu nhiều những nghịch lí vừa khái quát được về những bất cập còn đang tồn tại trong cuộc sống mỗi con người...

Để hiểu rõ hơn về nhân vật này, chúng ta hãy cùng đi vào các bước cụ thể phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ngay sau đây nhé!

Hướng dẫn phân tích người đàn bà hàng chài

Muốn làm được một bài phân tích người đàn bà hàng chài trọn vẹn và hay nhất, các em nên bám sát từng bước từ phân tích đề, xây dựng hệ thống luận điểm trước tiên để từ đó hình thành dàn ý chi tiết cho bài phân tích.

1. Phân tích yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài (tính cách, tâm lí, hành động...)

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: những câu văn, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm phân tích người đàn bà hàng chài

- Luận điểm 1: Người đàn bà hàng chài là hiện thân cho nỗi thống khổ của người phụ nữ làm nghề chài lưới.

- Luận điểm 2: Người đàn bà làng chài sở hữu những vẻ đẹp tiềm tàng trong tính cách và phẩm chất.

3. Sơ đồ tư duy phân tích người đàn bà hàng chài

So do tu duy phan tich nhan vat nguoi dan ba hang chai

Sơ đồ tư duy nhân vật người đàn bà hàng chài

Dàn ý phân tích người đàn bà hàng chài

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”, luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.

+ Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người.

- Giới thiệu nhân vật người đàn bà hàng chài - hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

2. Thân bài phân tích người đàn bà hàng chài

a) Khái quát tình huống truyện

- Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào vùng quê miền biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành công khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ.

- Ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo hành trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy.

- Những ngày sau, cảnh bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa án để giải quyết chuyện gia đình của chị.

=> Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của nhà văn về cách để nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời.

b) Phân tích chi tiết về nhân vật người đàn bà hàng chài

* Luận điểm 1: Người đàn bà hàng chài là hiện thân cho nỗi thống khổ của người phụ nữ làm nghề chài lưới.

- Hoàn cảnh, xuất thân của người đàn bà:

+ Không có tên gọi cụ thể

+ Được gọi bằng "mụ" hoặc "người đàn bà hàng chài" -> cách gọi phiếm định.

+ Tuổi tác “trạc ngoài 40 tuổi"

+ Hoàn cảnh gia đình nghèo túng, đông con

+ Không gian sống là con thuyền lưới vó chật hẹp.

- Ngoại hình:

+ Cao lớn, thô kệch

+ Mặt rỗ, tái mét vì mệt mỏi, không có sức sống

+ Dáng đi chậm chạp như bà già -> Dáng vẻ lúng túng thể hiện sự mặc cảm và tự ti.

+ Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới…

=> Sự nghèo khổ, nhọc nhằn, sự vất vả, lam lũ thể hiện rõ thông qua ngoại hình, trang phục.

- Số phận bất hạnh, đau khổ:

+ Khi bị chồng hành hạ, đánh đập:

  • Không kêu van, chạy trốn
  • Cam chịu, nhẫn nhục

+ Khi thằng Phác xuất hiện:

  • Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã, đau đớn khi để con mình phải chứng kiến cảnh ấy.

  • Ôm chầm lấy con, chị lo sợ con cái bị tổn thương

  • Chắp tay vái lấy vái để xin nó đừng vì thương mình mà trở thành đứa con bất hiếu với cha, làm trái với luân thường đạo lí.

=> Người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường, nỗi đau chồng lên nỗi đau.

* Luận điểm 2: Người đàn bà làng chài sở hữu những vẻ đẹp tiềm tàng trong tính cách và phẩm chất.

- Sự bao dung, độ lượng, vị tha:

+ Có cái nhìn bao dung với người chồng mình:

  • Thấy người đàn ông đáng thương, đáng được cảm thông “lão chồng tôi khi ấy... hiền lành, không bao giờ đánh đập tôi”;
  • "... trốn đi lính ngụy, chính cuộc sống nghèo khổ đã biến anh ta thành kẻ ác" (có thể so sánh với cái nhìn của Phác, Phùng, Đẩu).
  • Luôn coi chồng là người bạn đời thân thiết: cùng chèo chống con thuyền trong lúc phong ba, cùng nuôi con, mưu sinh trong cõi đời cơ cực,...

-> Một mực bênh chồng và đổ lỗi cho hoàn cảnh để không phải bỏ chồng.

+ Nhận mọi lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà chúng tôi...”, “giá tôi đẻ ít đi” -> Tự trách mình vì đẻ nhiều nên nghèo đói mới khiến chồng đánh.

+ Chắt chiu, nâng niu, trân trọng hạnh phúc: “vả lại trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái hòa thuận, vui vẻ,...”

- Người mẹ giàu đức hi sinh, lòng thương con vô hạn:

+ “đàn bà trên thuyền chúng tôi... đất được” -> Coi việc mình bị hành hạ, chịu đói khổ là lẽ đương nhiên, là vì hạnh phúc con cái.

+ “vui nhất là khi thấy chúng được ăn no” -> Chịu đựng hành hạ để ở cùng các con, nuôi con khôn lớn.

+ Muốn gia đình có cả cha mẹ để con cái không phải chịu thiệt thòi

- Thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời:

+ “Các chú không phải người làm ăn... lam lũ” -> Nhận ra sự ngây thơ, đơn giản trong suy nghĩ của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu.

+ Nguyên nhân của sự chịu đựng và nhẫn nhục là bởi vì chị cần phải có chồng, trên thuyền cần phải có người đàn ông mạnh khoẻ và biết nghề, các con chị cần phải có bố để nuôi dạy

+ Người đàn bà cần người đàn ông bên cạnh nhất là những ngày mưa bão.

=> Người đàn bà hàng chài không chỉ là hiện thân cho nỗi thống khổ mà còn là hiện thân cho vẻ đẹp tâm hồn cao cả của người phụ nữ.

c) Ý nghĩa hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài

- Phản ánh hiện thực xã hội khắc nghiệt, sự bất công đối với người phụ nữ.

- Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng của người phụ nữ Việt Nam.

- Gửi gắm thông điệp về tình yêu thương, lòng vị tha và sự cảm thông, chia sẻ trước số phận vô cùng vất vả của kiếp người nghèo khổ, bế tắc bị cầm tù bằng nỗi đau về thể xác và tinh thần.

d) Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Đặt nhân vật vào trong những tình huống nghịch lý (bị chồng đánh nhưng không hề phản ứng; không chịu bỏ chồng…), mang tới cho người đọc nhận thức về những điều ngang trái và phức tạp trong cuộc sống cùng những trường hợp éo le và đáng thương của số phận con người.

- Xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài có số phận cay đắng và khổ nhục, rất cần sự chia sẻ, cảm thông trong đời thường nhưng lại có vẻ đẹp đáng trân trọng về tình mẫu tử, sự bao dung và đức hi sinh.

- Khắc họa nhân vật người đàn bà hàng chài vô cùng chân thực, sống động thông qua ngôn ngữ, hành động, những hình ảnh và biểu tượng, ngôn ngữ giản dị nhưng giàu ý vị, triết lý.

3. Kết bài phân tích người đàn bà hàng chài

- Khẳng định lại vài trò, vị trí của hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm.

- Nêu cảm nhận riêng về nhân vật người đàn bà hàng chài:

+ Người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh nhưng lại hiểu lẽ đời và ngời sáng vẻ đẹp của tình mẫu tử, lòng vị tha, đức bao dung, sự can đảm.

+ Đó là hạt ngọc ẩn giấu trong cái lấm láp đời thường mà Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều và tình yêu thương, sự trân trọng của ông đối với con người.

TOP 18 bài văn hay phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Dưới đây là 11 bài văn mẫu phân tích người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa được Đọc Tài Liệu sưu tầm và tuyển chọn dành cho các em tham khảo giúp mở rộng vốn từ trong quá trình viết bài.

Phân tích người đàn bà hàng chài của học sinh giỏi mẫu số 1

Khi chắp bút viết lên những đứa con tinh thần của mình, mỗi nhà văn lại cho thấy những quan điểm nghệ thuật rất khác nhau nhưng cũng có những điểm giao thoa và đồng nhất. Theo Thạch Lam: “Đối với tôi, văn chương không phải cách đem đến cho người đọc thoát ly quên, trái lại văn chương thứ khí giới cao đắc lực mà có, để vừa tố cáo vừa thay đổi giới giả dối tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm phong phú hơn”. Cùng quan điểm tương tự, Tô Hoài khẳng định: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Như vậy, các nhà văn xoay quanh các hiện tượng xã hội, lật trở các mặt để thấy rõ những khía cạnh khác nhau, cũng như Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Trước những bất công, trước cái ác, anh không có quyền dửng dưng, thấy kệ khi con người bị đày đọa, và công việc đó phải là phản ứng tự nhiên của nhà văn”. “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm như thế và nhiều hơn thế. Truyện ngắn đã có những “phản ứng tự nhiên” của nhà văn trước xã hội, đồng thời để lại nhiều ấn tượng với bạn đọc là hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài được thể hiện qua trích đoạn: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho... chúng nó được ăn no...”. Từ hình ảnh nhân vật ấy, mỗi người trong chúng ta cũng tự rút ra được cho mình những nhận thức mới mẻ về cuộc sống.

Nguyễn Minh Châu - một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”, người nghệ sĩ ấy luôn trăn trở về sứ mệnh của một nhà văn, mang trong mình một khát khao tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, để nâng đỡ và yêu thương con người nhiều hơn. Tất cả những mong ước ấy được trao gửi trong “Chiếc thuyền ngoài xa” - một tác phẩm được sáng tác năm 1983, khi đất nước ta bắt đầu bước vào thời kì độc lập. Thế nhưng, cuộc sống thời bình vẫn còn ở đó với biết bao vấn đề cần đặt ra. Đằng sau cái vẻ đẹp lộng lẫy của một đất nước bước vào hòa bình ấy là cuộc sống con người còn nhiều khó khăn, gian khổ. Chính vì vậy, tác phẩm vừa là hồi chuông cảnh báo đồng thời mở đường cho cảm hứng đời tư, thế sự - một xu hướng chung cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Khi gấp lại những trang văn của “Chiếc thuyền ngoài xa” người đọc không thể nào thôi thổn thức với trích đoạn khi người đàn bà hàng chài được tỏ bày về niềm hạnh phúc chắt chiu của mình.

Nhìn lại về hành trình sáng tác bền bỉ của Nguyễn Minh Châu, có thể thấy trong các tác phẩm truyện ngắn của mình, Nguyễn Minh Châu thường xây dựng những tình huống truyện éo le, nghịch lí. Bởi nhà văn muốn thông qua những tình huống đó để nhân vật có cơ hội khám phá hiện thực cuộc sống vốn luôn chứa đầy những nghịch lí, đầy phức tạp, bí ẩn, từ đó đi đến khẳng định về “cuộc đời đa sự, con người đa đoan”. Người đàn bà hàng chài là một trong số những nhân vật đã được nhà văn đặt để vào tình huống éo le, nghịch lí như thế trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Nhân vật ấy xuất hiện qua điểm nhìn từ người nghệ sĩ Phùng không có một cái tên, chỉ thường được gọi với đặc điểm nổi bật nhất của chị - người đàn bà hàng chài. Cách gọi ấy khiến chúng ta hình dung ra sự phổ biến của nhân vật trong cuộc sống, những con người như thế chúng ta có thể dễ dàng gặp ở khắp nơi.

Chị trạc ngoài 40 tuổi, thân hình cao lớn, đường nét thô kệch, rỗ mặt. Nhìn kỹ một chút thấy khuôn mặt mệt mỏi, tái nhợt, dáng đi chậm chạp như bà già. Người đàn bà ấy mặc quần áo rách rưới, tấm lưng áo bạc phếch, ướt sũng. Có thể thấy, vóc dáng, diện mạo ấy đã hằn in những nhọc nhằn lam lũ nghèo túng của người đàn bà hàng chài, đồng thời hé lộ một số phận khổ đau. Đã vậy, người đàn bà ấy lại xuất hiện trong một tình huống éo le, nghịch lý. Khi bị chồng đánh trên bãi cát, người đàn bà ấy không van xin, không né tránh, không chống cự, “định đưa tay lên búi lại tóc rồi lại buông thõng hai tay xuống”. Lời cầu xin duy nhất là xin chồng đưa mình lên bờ để đánh - khiến cả Phùng và Đẩu, thậm trí là bạn đọc phải cùng phải thốt lên “Thật không thể nào hiểu được”. Để rồi khi nhận được sự giúp đỡ từ Phùng và Đẩu, có thể nhờ luật pháp can thiệp để thoát khỏi lão chồng độc ác, vũ phu, chị ta hoảng hốt quỳ sụp xuống van xin rối rít “Con lạy quý tòa, quý tòa phạt con cũng được, bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó” - khiến Phùng thấy thất vọng, ngột ngạt “căn phòng đang lộng gió biển như bị rút cạn hết không khí”. Bao nhiêu những sự khó hiểu đến khó tin ấy đều đã được chị lý giải tường tận để rồi Phùng và Đẩu - đặc biệt là bạn đọc hiểu rõ về những quyết định nghịch lí của chị.

Không gian của trích đoạn là nơi tòa án huyện - nơi đưa ra những phán quyết với từng cá nhân, nơi con người ta sẽ nhìn nhận sự việc trên góc độ pháp luật, công bằng. Khi được gọi lên tòa án để giải quyết việc gia đình, ban đầu chị còn rụt rè, lúng túng, sợ sệt, vái lia lịa, xưng hô lễ phép “quý toà, con” ở chốn công đường và ra sức lạy xin. Sau đó chánh án Đẩu khuyên chị li hôn để thoát khỏi nạn bạo hành thì người đàn bà ấy - khi đã hiểu được tấm lòng của những con người tốt bụng kia đã hoàn toàn thay đổi tư thế và lối xưng hô “tôi, các chú” rất thân mật, lí lẽ cũng linh hoạt hơn, chủ động bày tỏ ý kiến. Từ đó, biết bao nhiêu những lí do thấu tình đạt lí được đưa ra. Tuy thất học quê mùa, không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực sự rất sâu sắc khi nhìn “suốt cả cuộc đời mình” về cuộc sống, về con người, về thiên chức làm mẹ: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Đến đây, bạn đọc hiểu thêm một lý do vì sao người phụ nữ này lại luôn lựa chọn im lặng trước đòn roi của chồng, là bởi vì chị hiểu trên mỗi con thuyền cần có một người đàn ông khỏe mạnh để chèo chống khi biển động, sóng to - anh ta là trụ cột cho cả gia đình trên con thuyền nhỏ bé.

Trên những con thuyền của các gia đình làng chài từ trước đến giờ vẫn thế, gia đình của chị cũng không phải là ngoại lệ. Đã vậy, người đàn bà ấy còn hiểu rõ được thiên chức của mình, chị không chỉ là một người vợ, chị còn là mẹ - mẹ của “đặng một sắp con”, chị hiểu thiên chức thiêng liêng mình có được và luôn giữ một tư duy rằng muốn nuôi được những đứa con khôn lớn thì phải khổ, đã là mẹ là phải khổ. Chị lựa chọn điều ấy, không phải coi nó như gánh nặng, đối với người đàn bà này “đặng một sắp con” ấy chính là động lực để chị chịu đựng, để chị không oán than cuộc đời có nhiều cái bất công. Có thể thấy, Nguyễn Minh Châu khi xây dựng về nhân vật người đàn bà hàng chài đã đặt để nhân vật của mình trong những sự lựa chọn - sống ở trên bờ hay sống ở trên thuyền; sống vì mình hay vì con; sống cam chịu nhẫn nhục hay đấu tranh phản kháng lại bạo lực từ chồng. Và sự lựa chọn của chị luôn được đặt trong suy nghĩ, góc nhìn tự chủ, chấp nhận cuộc sống hiện tại, không than vãn, bao dung và luôn nghĩ cho người khác.

Và bởi vì người đàn bà ấy chính là “con chiên ngoan đạo” của một thứ chủ nghĩa mang tên tình mẫu tử, thế nên ở bất cứ thời điểm nào, chị cũng mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho những đứa con của mình. Chị nhận thức rõ số phận của mình là một người đàn bà miền biển thế nên: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Câu nói ấy giống như một lời khẳng định về sự xác định trách nhiệm đối với con cái, cũng là lời khẳng định thể hiện lòng yêu thương vô bờ của người mẹ dành cho những đứa con bé bỏng. Người đàn bà thất học ấy, cũng đã từng lo lắng cho việc những đứa trẻ nhìn thấy mẹ bị đánh sẽ không có một tuổi thơ bình yên nên đã gửi con về ông bà ngoại. Thế nhưng, đến khi đứa con của mình vẫn phải chứng kiến cảnh đó và có những sự phản kháng với người cha, chị đã khóc vì đau đớn. Đó không chỉ là nỗi đau đớn về thể xác mà còn là nỗi giày vò về tinh thần, bà luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, chị lo lắng như vậy niềm tin trong trẻo trẻ thơ bị tan vỡ.

Đến lúc này đây thì cả hai người đàn ông hiểu ra rằng mọi ý nghĩ theo kiểu yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong, lên bờ sống là xong đều là những ý nghĩ đơn giản, nông cạn. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc và trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi, vẫn sống vị tha, bao dung và có cái nhìn nhân hậu dành cho chồng. Và để rồi vẫn là một lời cầu xin đừng bắt người đàn bà ấy bỏ chồng cùng với một nụ cười chắt chiu từ biết bao nước mắt: “Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Người đàn bà ấy vẫn luôn tự nhận mình là người thất học, lạc hậu, không hiểu biết nhiều. Vẫn là sự tự trọng ta thường nhìn thấy nơi người đàn bà này trong suốt cả câu chuyện trên toà án huyện. Và rồi, điều khiến bạn đọc bất ngờ đó chính là nụ cười hiếm hoi trên khuôn mặt xấu xí, lỗ rỗ đi kèm với lời tâm sự về những giây phút hòa thuận, vui vẻ của gia đình.

Không thể thay đổi được những điều đang xảy đến trong hiện thực cuộc sống mình đối mặt, người đàn bà ấy lựa chọn thay đổi thái độ tiếp nhận, hành vi tiếp nhận, cảm xúc tiếp nhận. Chị chắt chiu những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi của cả gia đình, biến nó thành động lực để mình tiếp tục đi qua những tháng ngày tăm tối. Ở người đàn bà hàng chài ta không chỉ nhìn thấy tình yêu thương con vô bờ bến mà ở đó còn là một thái độ sống tích cực, lạc quan. Vì chính chị mới là người hiểu rõ nhất về những quyết định của mình, chị luôn chọn điểm nhìn về người chồng của mình với góc nhìn thấu hiểu, cảm thông, đó là góc nhìn cứu giúp, nâng đỡ, chị cũng là người nhận thức rõ nhất về số phận của chị, những gì chị có thế nên thoạt đầu, ta có thể nghĩ quyết định ấy thật ngu ngốc từ một người đàn bà thất học, để rồi khi đào sâu tìm hiểu ta mới nhận ra được sự thấu tình, đạt lí trong suy nghĩ và hành động của chị.

Khi được hỏi về khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc đời mình, chị không ngần ngại mà đáp lời: “Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Ồ, thì ra hạnh phúc của một người mẹ nghèo chỉ giản đơn như thế, là việc nhìn những đứa con của mình được ăn no. Mặc dù với chị bất hạnh là những thứ luôn hiện diện, luôn có sẵn nhưng chị lại luôn tích cực hướng điểm nhìn của mình về những điều hạnh phúc dẫu rằng nhỏ bé, hiếm hoi, phải chắt chiu từng chút. Chính điều này đã giúp chị lựa chọn việc ở lại, chị bám vào những niềm hạnh phúc giản đơn ấy, bé nhỏ ấy để chăm sóc cho trái tim của mình. Vẻ đẹp của tình mẫu tử qua những lời bộc bạch của chị nhờ vậy mà sáng lấp lánh trong đôi mắt bạn đọc. Đến bây giờ, thông qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ta mới hiểu được rằng: “Văn học nghệ thuật chân chính luôn đặt việc nhân đạo hóa con người vào vị trí trung tâm. Là tiếng nói của tình cảm, văn chương lấy hình tượng đậm chất cảm xúc làm phương tiện để đánh thức và nhân lên cảm xúc nhân văn nên phải lấy con người làm gốc. Trước nay một tác phẩm giá trị luôn hướng con người đến cái cao cả, cái thiện, cái tốt, cái đẹp. Tình yêu con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu cũng là nguồn cảm hứng căn bản nhất thúc đẩy các nhà văn miêu tả, phản ánh, sáng tạo.”

Những lời giãi bày ấy cho mỗi bạn đọc chúng ta hiểu thêm về người đàn bà hàng chài. Với những lời bộc bạch thật tình của người phụ nữ đáng thương đó ta mới có cơ hội thấy rõ nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con. Ta cũng chợt nhận ra yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong, lên bờ sống là xong đều là những ý nghĩ đơn giản, nông cạn. Và đặc biệt hơn cả, trong khổ đau dài đằng đẵng ấy, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu và trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi, vẫn sống vị tha, bao dung và có cái nhìn nhân hậu dành cho chồng. Từ những điều ấy giúp ta hiểu thêm về cuộc sống kỳ diệu này. Cuộc sống luôn tiềm ẩn những vấn đề, những nghịch lí không bao giờ có thể giải thích, cắt nghĩa rõ ràng được, phải ở trong từng cảnh ngộ nhất định ta mới thấm thía được cái đa sự của cuộc đời và cái đa đoan của con người. Tất cả đã giúp chúng ta một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Khi nhìn nhận mọi vấn đề, chúng ta cần trang bị cái nhìn đa diện, nhiều chiều.... để ta có thể phát hiện ra bản chất thật sau cái vẻ ngoài của hiện tượng.

Vì thế trong cuộc sống chúng ta không nên đánh giá hiện tượng và không thể đơn giản sơ lược khi nhìn nghĩ về cuộc sống của con người, không nên nhìn cuộc sống một cách dễ dãi, đơn giản qua hiện tượng. Và từ đó ta cũng nhìn nhận lại chính bản thân mình rằng ta đang nhìn mọi người, mọi việc bằng một đôi mắt bao dung chưa và chỉ luôn là soi xét? Biết bao nhiêu bài học có ý nghĩa ta cảm nhận được từ nhân vật người đàn bà hàng chài nói riêng và “Chiếc thuyền ngoài xa” nói chung. Giờ thì thêm một lần nữa, ta hiểu thêm về ý nghĩa của văn chương: “Có thể khẳng định rằng, thời nào cũng vậy, nhân đạo hóa con người - đó là sứ mệnh cao cả và cái đích đến của văn chương”.

Như vậy, bằng cách tận dụng không gian truyện ngắn, cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặt nhân vật vào những nghịch lý, éo le để được bộc bạch, trải lòng, Nguyễn Minh Châu gợi lên để lại những ý nghĩa sâu sắc về cuộc đời và suy nghĩ, góc nhìn của con người. Một người đàn bà hàng chài với những nỗi khổ đau nhưng chưa bao giờ có ý định từ bỏ, một người mẹ dành tất cả tình yêu thương cho những đứa con, coi đó là sự sống. Một con người luôn tích cực, lạc quan chắt chiu những hạnh phúc nhỏ bé, bình dị. Tất cả đều trở thành những ấn tượng khó phai trong tâm trí bạn đọc. Hình ảnh người đàn bà hàng chài với những vẻ đẹp tâm hồn lấp lánh thêm một lần nữa khiến ta nhớ đến quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châu: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.

Sứ mệnh của nhà văn được Nguyễn Minh Châu hoàn thiện một cách thật trọn vẹn với “Chiếc thuyền ngoài xa”. Một hiện thực cuộc sống đen tối sau thời bình của nhân dân ta hiện lên rõ hơn bao giờ hết, một nhân vật cho ta nhìn thấy được những vẻ đẹp của con người lao động dẫu trong khó khăn: đó là tình yêu thương con, là sự bao dung, nhẫn nhịn, thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ tiếng nói trân trọng với vẻ đẹp của con người lao động, mở ra những suy nghĩ tích cực cho bạn đọc, chính những điều đó đã kết tinh lại thành một nguồn sức mạnh kì diệu, một sức sống mãnh liệt cho tác phẩm trong dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, đúng như lời nhận định: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại, mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Và những điều đẹp đẽ ta cảm nhận được từ “Chiếc thuyền ngoài xa” giúp ta hiểu hơn những gì Thạch Lam từng quan niệm:“Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở những vật tầm thường. Công việc của nhà văn là hiểu cái đẹp ở chỗ mà không ngờ tới, tìm kiếm cái đẹp kín đáo và che lấp, cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”.

(Nguồn: Học văn chị Hiên)

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài - hiện thân của nỗi khổ nghèo, vất vả đến tận cùng mẫu số 2

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có sức sáng tạo nổi bật, là cây bút tiêu biểu trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết tìm kiếm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm đậm chất sử thi như: Cửa sông, miền cháy,.. Sau 1975, ông lại là người tiên phong đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm mang tên "Chiếc thuyền ngoài xa" (1983), rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên in năm 1987 mang đậm phong cách tự sự - triết lí. Đây được coi là một bước tiến dài rất đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu. Để từ nhân vật trung tâm tác phẩm là người đàn bà hàng chài, người đọc thấy được ở đó lấp lánh lên những vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn khốn khổ, gợi lên bao trăn trở trong lòng độc giả.

Người đàn bà là nhân vật trung tâm của tác phẩm, nơi nhà văn gửi gắm tình thương yêu đến đớn đau, khắc khoải trước số phận con người. Đây cũng là nhân vật phụ nữ ấn tượng nhất của Nguyễn Minh Châu, khác hẳn với những Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng, Thai trong Cỏ lau, hay Liên trong Bến quê, Quì trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Không có một cái tên để gọi, một nét khả dĩ về ngoại hình để được yêu thương, người phụ nữ miền biển này như là hiện thân của nỗi khổ nghèo, vất vả đến tận cùng, như là hiện hình của nỗi chát chua cho số phận. Nhưng cũng chính ở chị, ta sẽ gặp những “hạt ngọc” tâm hồn thật đáng quí trọng, nâng niu.

Người đàn bà là hiện thân của một thân phận nhỏ bé, vô danh trong đời thường. Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi là người đàn bà hàng chài, khi gọi là mụ, lúc lại là chị ta,... Dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một thân phận nhỏ bé, một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Sau vài nét gợi tả, hướng vào mắt người đọc là hình ảnh của người đàn bà với ngoại hình xấu xí và thô kệch "trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêmthức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ". Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hằn lên. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên "tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng". Từ cách hành xử, đi đứng đến "tìm đến một góc tường để ngồi" càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà còn dùng ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo lách thật sâu để khám phá được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh, đồng thời cũng thể hiện hành trình của con người khẳng định nhân cách mình. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng chị là nạn nhân của những trận bạo hành. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình đó, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Song, chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà nhẫn nhục, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, chị đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của chị sẽ phải chịu đựng cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng".

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố "thiên nữ tính" lại thăng hoa tuyệt vời ở người đàn bà rách rưới này, cảm động thay một tình mẫu tử thiêng liêng! Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi ta gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình. Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Cách người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa để đừng bắt mình li dị chồng càng toát sự hi sinh, vị tha trong chị. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao? Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Chị sẵn sàng chịu những trận đòn roi của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí.

Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện mà không đòi hỏi bất cứ điều gì. Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” thì người đọc phải ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Chị biết mình sống là vì ai, chị đã tâm sự: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được!". Tình mẫu tử trong chị thật thiêng liêng cao cả! Cuộc đời của chị có quá nhiều đau thương và nước mắt nên chị càng trân trọng những chắt chiu hạnh phúc bình dị đời thường. Vẻ đẹp nhất ở chị đúng là đức hi sinh, là tình yêu thương chồng con sâu sắc và chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng ấy.

Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy, "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. Xót xa biết bao cảnh con đánh cha, chồng đánh vợ: Thấy mẹ bị bố đánh, thằng con trai của chị đã “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi “lảo đảo ngã dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố. Chứng kiến cảnh đó, người đàn bà đã “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”, “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt”.

Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ nhục nhã. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không muốn nó trở nên bạo lực như bố. Vì thương con, chị đã luôn miệng xin quý tòa: “Con lạy quý tòa, tòa bắt tội con cũng được… đừng bắt con bỏ nó”. Lí do chị đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Khi đọc đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại và kiên cường đến bây giờ. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.

Không chỉ yêu thương con cái, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng, không hề oán trách mà ngược lại còn hiểu nỗi khốn khổ bế tắc của lão. Chính vì cuộc sống cơ cực nên chồng chị mới sinh ra thói vũ phu như vậy. Cuộc sống khó khăn trong những ngày biển động “Ăn xương rồng luộc chấm muối”. Thuyền thì nhỏ mà con thì nhiều; đàn ông trên thuyền nếu không uống rượu thì đánh vợ mỗi khi khổ quá. Thậm chí chị còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân của khó khăn chồng chất. Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền “khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”.

Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Có lẽ đó là câu nói gợi nhiều suy nghĩ nhất trong lòng bạn đọc, thể hiện nhiều nhất vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ. Phải rồi, chính vì tình thương yêu vô bờ bến với những đứa con mà chị chấp nhận hi sinh. Thấp thoáng sau hình ảnh chị là bóng dáng cuộc đời bao người vợ, người mẹ, người phụ nữ Việt Nam nhẫn nại cay đắng mà vẫn trong trẻo lắm một tấm lòng vị tha, nhân hậu. Đọc Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc không chỉ ngạc nhiên trước thái độ nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài khi bị chồng hành hạ, nhục mạ một cách phi lý mà còn ngạc nhiên hơn nữa trước thái độ của chị tại tòa án huyện. Từ chỗ “chắp tay vái lạy lia lịa”, “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” đến lúc đột nhiên “mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt khi mới xuất hiện ở tòa án”, người đàn bà hàng chài như đã trở thành một con người khác.

Sau cái vẻ khúm núm, sợ sệt, dáng ngồi rụt rè mớm ở mép ghế là một con người thâm trầm sắc sảo đang ở thế đứng trên hai nhà trí thức mà trút ra những lời lẽ được chiêm nghiệm trong cả cuộc đời đầy lo toan vất vả: “Các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”..., “các chú không phải là người đàn bà chưa bao giờ các chú biết...”. Người đàn bà đã kể câu chuyện cuộc đời mình, qua đó gián tiếp đưa ra các lí do vì sao nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu: “ông trời sinh ra người đàn bà đẻ con và nuôi con khôn lớn”. Nhưng cuộc sống chài lưới đầy những bất trắc, họ cần những người đàn ông làm chỗ dựa, nếu bỏ chồng, chị sẽ phải đối mặt với bi kịch khác khủng khiếp hơn: bi kịch của những đứa con phải chịu cảnh đói khát. Mặt khác, trong đau khổ triền miên, họ vẫn có những lúc “...vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ... vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.

Chao ôi! Trước Cách mạng, những người dân phố huyện trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam cố thức để được nhìn thấy chuyến tàu. Nửa thế kỉ sau ta lại gặp hạnh phúc lớn lao của người mẹ chỉ là nhìn thấy đàn con được ăn no? Và chị sẵn sàng thế chấp cuộc đời mình để đổi lấy nó, đánh đổi mọi thứ để có nó! Bằng nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện đặc sắc và sử dụng ngôn ngữ trần thuật linh hoạt, ngôn ngữ đối thoại và những nét phác họa về ngoại hình sinh động, tác giả đã xây dựng thành công chân dung người đàn bà hàng chài với vẻ đẹp độc đáo, khuất lấp. Đằng sau vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch là tâm hồn sáng trong như ngọc; sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì, vô cảm là sự kiên cường; sau bộ dạng chịu xúc phạm đến nhẫn nhục là đức hi sinh lớn lao của tình mẫu tử; sau vẻ ù lì ngu muội bởi đói nghèo, thất học là việc hiểu thấu lẽ đời. Khi mà xã hội chưa có những giải pháp thực sự hiệu quả và kịp thời để giúp họ ổn định hơn trong nghề chài lưới đầy bất trắc, chị chỉ còn một cách: chấp nhận!

Qua câu chuyện về người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu thể hiện cái nhìn sâu sắc và nhân hậu của mình về cuộc đời. Ông phát hiện ra rằng đằng sau câu chuyện buồn của gia đình người lao động vùng biển là tình mẫu tử, lòng bao dung và đức hy sinh của người phụ nữ. Số phận, phẩm chất của người đàn bà hàng chài này là số phận, phẩm chất của những người phụ nữ vùng biển nói riêng và người phụ nữ Việt Nam thuần hậu nói chung. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định nghệ thuật chân chính phải luôn gắn liền với cuộc đời vì cuộc đời cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, đa chiều chứ không thể đơn giản, đơn diện được.

(Nguồn: Nguyễn Ngân)

Phân tích người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện mẫu số 3

Trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu được đánh giá như là "người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam" và cũng là người mở đường cho những tác giả trẻ tài năng sau này". Tính đúng đắn của đánh giá này về Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của ông với phong cách tự sự - triết lý. Đây là một tác phẩm đặc trưng cho việc tiếp cận với cuộc sống từ góc nhìn thực tế của nhà văn trong giai đoạn thứ hai của quá trình sáng tác.

Bối cảnh truyện ngắn ra đời là khi đất nước đang trải qua cuộc cách mạng đổi mới, cuộc sống kinh tế mang nhiều khía cạnh tiêu cực và tồn tại khiến mọi người trở nên băn khoăn. Ban đầu, truyện được xuất bản trong tập "Bến quê" (1985) và sau đó Nguyễn Minh Châu đã chọn nó làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn được in ra vào năm 1987. Tác phẩm với hình ảnh trung tâm là một người phụ nữ làm nghề chài lưới. Nhân vật này xuất hiện chủ yếu trong khám phá thứ hai của Phùng về chiếc thuyền ngoài xa và trong tòa án huyện khi cô kể về cuộc đời của mình.

Sau một số nét đặc tả tinh tế, hình ảnh người phụ nữ hàng chài hiện lên với "thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Khuôn mặt rỗ của bà mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Những đặc tả này tạo nên ấn tượng rằng bà là một người lao động cần cù và chịu khó... tuy nhiên, nghèo đói vẫn ám ảnh gia đình của bà. Cái nghèo đói ấy còn được thể hiện qua "tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng". Cách bà ứng xử, đi đứng và "tìm đến góc tường để ngồi" càng khiến cho bà trở nên đáng thương.

Khi bà xuất hiện tại tòa án huyện cũng chính là lúc câu chuyện về cuộc đời đầy bí ẩn và ngang trái của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ cả đời được hé lộ. Người đàn bà hàng chài theo lời mời của Đẩu - một chánh án tại tòa án huyện - đã có mặt tại tòa án huyện. Tuy nhiên, trước lời đề nghị và giúp đỡ của Phùng và Đẩu, bà dứt khoát từ chối. Bà chịu đau đớn và sẵn lòng đánh đổi bất cứ điều gì để không phải bỏ lão chồng vũ phu của mình ngay cả khi “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được”. Bởi vì trên hết, bà hiểu rằng con cái cần một gia đình đầy đủ với cả cha lẫn mẹ. Vì: "Chồng chành như nón không quai/ Như thuyền không lái, như ai không chồng". Cũng tại tòa án huyện, bà đã kể về cuộc đời của mình và gián tiếp giải thích lý do tại sao bà quyết không bỏ chồng.

Gã chồng đó trước hết là chỗ dựa quan trọng, nguồn an ủi duy nhất trong cuộc sống của những người đàn bà hàng chài như chị. Đặc biệt là khi biển động, bão tố phong ba vô cùng khắc nghiệt. Tiếp theo, chị cần hắn và không thể thiếu hắn bởi vì họ phải cùng nhau nuôi dạy những đứa con nhỏ dại. Và cuối cùng, những khoảnh khắc hạnh phúc, sự đoàn kết hòa thuận trong gia đình trên chiếc thuyền đã làm cho chị muốn gắn bó và ở lại bên người chồng.

Ban đầu khi vừa mới đến tòa án, người đàn bà hàng chài tỏ ra lo sợ và lúng túng, một cái lạy quý tòa, hai cái lạy quý tòa. Tuy nhiên, sau khi nghe lời khuyên từ chánh án Đẩu, người đàn bà trở nên tự tin và chủ động hơn. "Các chú đâu phải người làm ăn (…) cho nên các chú đâu có biết cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc (…) bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông" - bà từ chối ngay lập tức lời đề nghị của chánh án Đẩu và nhà báo Phùng. Lần này, bà không còn sử dụng cách gọi "con - quý tòa" mà tự xưng là "chị" và gọi "các chú". Nguyên nhân thay đổi này có thể là vì cô cảm nhận được sự thiện ý từ hai người? Hoặc đơn giản là cô thông cảm trước sự ngây thơ và thiếu hiểu biết của họ?

Mặc dù thất học nhưng người phụ nữ hàng chài không hề tối tăm, ngược lại bà thấu hiểu một cách sâu sắc về lẽ đời, về cuộc sống. Bà thấu hiểu ý tốt của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà rời bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo kia. Tuy nhiên, bà ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về cuộc sống trên sông nước. Trải qua cuộc sống gian khổ và làm công việc chài lưới đã giúp bà hiểu rõ một chân lý mộc mạc nhưng đậm đà của cuộc sống hàng ngày: "đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có đàn ông để chèo chống khi phong ba". Thực tế cuộc sống chính là như thế, cần có một người đàn ông để chèo chống, làm chỗ dựa đáng tin cậy, ngay cả khi đó là người chồng vũ phu. Bà cũng hiểu rằng làm mẹ là một niềm tự hào: "Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ".

Cuộc sống của người đàn bà ấy đau khổ nhiều hơn là hạnh phúc, vì vậy bà hết sức trân trọng, nâng niu những khoảnh khắc hòa thuận và vui vẻ bên gia đình. Niềm vui lớn nhất của bà là "lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Trên những chặng đường đầy gian khổ, niềm vui đó trở nên quá xa xỉ. Sự hy sinh và tận tụy dành cho chồng và con cái là nguồn hạnh phúc lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó là sức mạnh mạnh mẽ mà nâng đỡ người đàn bà: "Lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên một nụ cười". Quan niệm về hạnh phúc của họ thường rất đơn giản, khao khát hạnh phúc nhỏ bé mà vẫn xa vời và nằm ngoài tầm tay.

Qua tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa", ta có thể thấy rõ tài năng của Nguyễn Minh Châu trong việc miêu tả nhân vật người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện. Chỉ qua hình ảnh một nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện, độc giả có cảm giác như đang chứng kiến cuộc sống của vô số phụ nữ Việt Nam qua các thời đại. Với tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu và nụ cười hạnh phúc khi lặng lẽ nhìn những đứa con, những chi tiết đó có lẽ sẽ đọng lại sâu trong lòng người đọc. Tác giả đã gửi gắm sự cảm thông, xót xa với số phận của những người đàn bà bị đánh đập và đối mặt với đói nghèo. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện sự tự hào và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà trong câu chuyện.

Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài và thông điệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu mẫu số 4

Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, ông là người tiên phong trong việc khám phá đời sống con người trong sự phức tạp, đa diện thời sau chiến tranh. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông về đề tài trên, từ một câu chuyện về bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh. Hình ảnh người đàn bà được Nguyễn Minh Châu khắc họa rõ nét qua hai chi tiết:

“Người đàn bà với một vẻ mặt cam chịu… cũng không tìm cách chạy trốn.” “Người đàn bà ngồi xẹp xuống… những nốt rỗ chằng chịt.”

Đi sâu vào phân tích ta sẽ thấy rõ điều này. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa viết vào tháng 8 năm 1983, in trong tập truyện cùng tên năm 1987. Truyện ngắn lấy bối cảnh đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, còn gặp nhiều khó khăn cần giải quyết về đời sống người dân. Truyện ngắn là ẩn dụ cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời “Khi nhìn xa nó là bức tranh thiên nhiên hoàn mỹ. Khi đến gần lại là bức tranh hiện thực cuộc sống phũ phàng.”

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được kể theo ngôi thứ nhất dưới cái nhìn của nhân vật Phùng. Phùng - một nhiếp ảnh gia trong một lần săn tìm bức ảnh buổi sáng có sương mù theo lời của trưởng phòng đã vô tình chứng kiến được cảnh bạo lực gia đình một một nhà hàng chài. Dưới cái nhìn của nhân vật Phùng “người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.” Qua cái chi tiết này, người đàn bà hiện lên trong mắt bạn đọc chúng ta và ngay cả trong cái nhìn của Phùng là một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục chịu đựng luôn ẩn chứa một tâm trạng lo sợ.

Một người đàn bà trạc bốn mươi, thân hình cao lớn thô kệch cứ nhẫn nhục chịu đựng, không một tiếng kêu rên, không một hành động phản kháng. Cứ bất lực chịu đựng những trận đòn roi nặng nề rơi xuống thân mình. Đó là hình ảnh gợi lên cho ta một cảm xúc căm hận cùng bất lực. Căm hận với hành động bạo lực của người đàn ông đánh vợ và bất lực trước sự nhẫn nhục, cam chịu của người đàn bà. Nhà văn gọi là người đàn bà, không có tên phải chăng đó là cách gọi chung điển hình cho số phận của người phụ nữ Việt Nam đương thời. Một người đàn bà luôn câm lặng trước những đòn roi ác liệt, trước những lời mắng chửi tàn nhẫn ủa chồng. Tưởng chừng người đàn bà đó như không hề có cảm giác đau đớn về thể xác, đau đớn về tâm hồn. Một người đàn bà dường như đã đánh mất lòng tự trọng, tự tôn của chính bản thân mình.

Nhưng, có thật là như vậy không? Có thật là đó chỉ là người đàn bà đáng thương không biết đến đau khổ về thể xác và tâm hồn? Có thật đó chỉ là người đàn bà không có lòng tự trọng, tự tôn của bản thân? Không, tất cả đều không phải như vậy! Người đàn bà ấy vẫn còn cảm thấy đau đớn về thể xác, về tâm hồn. Vẫn cảm thấy xấu hổ, nhục nhã. Đó là tất cả những cảm xúc của người đàn bà khi thấy đứa con trai bé bỏng mà mình yêu thương vì cứu mình mà xông vào đánh cha. Người đàn bà cảm thấy đau đớn, đau đớn vì phải nhìn thấy cảnh con đánh cha. Nỗi đau đớn đấy còn thống khổ hơn cả về nỗi đau thể xác.

Rồi người đàn bà thấy nhục nhã và xấu hổ khi để cho con chứng kiến cảnh cha đánh mẹ mình. “Người đàn bà ngồi xẹp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy con.” Đó là một trái tim người mẹ thương con, một người mẹ thấu hiểu luân thường đạo lí, một người mẹ trải nghiệm, trải đời. Chẳng ai yêu con bằng mẹ, chẳng ai thương con bằng mẹ. Người đàn bà thấu hiểu đời, yêu thương con vô bờ bến. Đến đây, hình ảnh người đàn bà đầy cam chịu, bất lực và có phần nhu nhược đang nhạt nhòa dần mà thay vào đó là hình ảnh một người mẹ yêu thương con vô bờ bến, một người mẹ thấu hiểu sự đời.

Hình ảnh nguời đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa qua hai chi tiết đã hiện lên rõ ràng trong mắt Phùng và bạn đọc. Đó là người đàn bà nhu nhược, cam chịu nhưng lại có tình yêu thương con vô bờ bến và là một người mẹ luôn thấu hiểu sự đời. Phải chăng từ hình ảnh của người đàn bà dưới hai thời điểm khác nhau, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm tới tất cả mọi người rằng: Phải nhìn đời, cuộc sống bằng một cái nhìn đa diện, nhiều chiều từ đó mới phát hiện ra bản chất, vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Qua hai chi tiết nhỏ, nhà văn Nguyễn Minh Châu thành công khắc họa hình ảnh người đàn bà hàng chài dưới cái nhìn của nhân vật Phùng bằng cách sử dụng những từ ngữ miêu tả chân thực giàu hình ảnh.

Tóm lại, qua hai chi tiết nhỏ nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một chân dung người đàn bà khốn khổ, cam chịu, nhu nhược nhưng lại có tấm lòng yêu thương con và là một người mẹ trải nghiệm, trải đời. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm hay chứa đựng nhiều triết lí cuộc sống quan trọng mà ta cần phải có trong cuộc sống. Nguyễn Minh Châu thật xứng với danh hiệu cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

Sự thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà hàng chài mẫu số 5

Nhà văn Nguyên Ngọc nhận định rằng: Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Bởi nếu trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu là nhà văn của người lính với “Dấu chân người lính”, hay những nhân vật “được đặt trong một môi trường vô trùng” thì sau mốc thời gian đó, ông đã dũng cảm thay đổi, phủ nhận chính mình để được thay đổi và không chịu “ăn mày” dĩ vãng, không chịu được với ánh hào quang cũ của mình. Tác phẩm tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật và phong cách của Nguyễn Minh Châu sau này là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” - đứa con được coi là thành công nhất của ông sau khi “làm mới mình”. Truyện thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, và câu chuyện của người đàn bà hàng chài trong truyện cũng đã minh chứng cho điều đó, khi nhân vật thể hiện sự thấu hiểu lẽ đời thông qua lời giãi bày ở tòa án huyện.

Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những sáng tác của ông đều xuất phát từ cảm hứng thế sự, đời tư mang đậm chất triết lý nhân sinh trong giai đoạn văn học mới, khác xa với cảm hứng sử thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn (in năm 1987). Truyện in đậm phong cách tự sự triết lý của Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về “nghệ thuật và cuộc đời”.

Tố Hữu từng nói về “cái đích” của văn học: “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi đến của văn học”. Văn học từ cuộc sống mà ra và làm cho cuộc sống thêm phần đẹp tươi. Đích đến của văn chương muôn đời chính là cuộc sống và con người. Đặt quan niệm ấy, vào cuộc đời người đàn bà hàng chài, câu chuyện chị bộc lộ giúp ta hiểu vì sao “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Và thứ “ánh trăng” không lừa dối ấy đã được Nguyễn Minh Châu thể hiện ở sự ngụp lặn vào cuộc đời người đàn bà hàng chài với câu chuyện ở tòa án huyện khi người đàn bà ấy giãi bày câu chuyện của cuộc đời mình. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng của người lao động và có cái nhìn rõ nét hơn, đa chiều hơn về cuộc đời.

Cuộc đời người đàn bà hàng chài dù bị chồng đánh cũng không hề sợ sệt, ấy vậy mà khi bị gọi lên tòa để giải quyết ly hôn khỏi người chồng vũ phu thì lại sợ sệt đến lạ. Thế nhưng, khi bắt đầu vào câu chuyện của cuộc đời mình, chị lại đột nhiên “mất hết cái vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt khi mới được gọi lên ở tòa án huyện với điệu bộ khác, ngôn ngữ khác”. Có lẽ, khi nỗi lòng hay điều sâu kín của con người được chia sẻ thì cũng là lúc con người ta mở lòng cho những nỗi đau của mình. Không giấu giếm, không che đậy, người đàn bà kể về cuộc đời mình. Chị trút hết ruột gan tâm sự với Phùng và Đẩu như những người thân cận, với những lời lẽ chân tình được chiêm nghiệm trong cả cuộc đời đầy lo toan, vất vả của chị. Người đàn bà đã kể câu chuyện cuộc đời mình, qua đó gián tiếp đưa ra các lý do vì sao chị nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu.

Nếu coi câu chuyện ở tòa án là một phiên tòa xét xử, thì người đàn bà hàng chài chính là người luật sư bào chữa tội danh cho chồng một cách xuất sắc nhất với sự thấu hiểu người chồng. Trong mắt Phùng và Đẩu lúc này, chồng mụ được xem như một tội nhân độc ác, chỉ biết đánh vợ. Nhưng mụ đã bào chữa cho chồng, và khẳng định chồng mụ không phải là người xấu, không phải là tội nhân mà là ân nhân của cuộc đời mụ. Câu chuyện bắt đầu là “từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa” thì lại còn xấu hơn. Xấu đến mức dù nhà có khá giả cũng “không ai lấy”.

Đời người đàn bà, hạnh phúc nhất là hoàn thành thiên chức của mình. Ấy thế mà, cuộc đời cũng không hề công bằng với những người chỉ mang ước mơ nhỏ nhoi. Cõ lẽ, nếu không có lão đàn ông vũ phu ấy, thì có lẽ suốt cả cuộc đời mình, mụ chỉ biết đến cái cô độc và lẻ loi. Thế nhưng, chồng mụ đã cho mụ được một mái ấm gia đình theo đúng nghĩa của nó, cho mụ được làm tròn cái thiên chức của mình, là được làm mẹ, làm vợ. Hơn nữa, trước đây chồng mụ không xấu, cũng không hề vũ phu mà đó là “anh con trai cục tính, nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập ai”. Như vậy, người đàn bà hàng chài đã xong lượt bào chữa thứ nhất khi khẳng định chồng là người chị mang ơn, và sự độc ác của chồng không phải là bản chất mà do cuộc đời “xô đẩy”. Nguyên nhân của sự “xô đẩy” dẫn đến bất hạnh này nằm ở lượt bào chữa tiếp theo.

Viết về cuộc đời người đàn bà hàng chài trên chiếc ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã lia ngòi bút của mình đi sâu vào từng ngóc ngách, vắt kiệt bầu máu nóng trong trái tim để thể hiện nó. Người đàn bà hàng chài, có lẽ đã sống trọn một kiếp đời éo le, bất hạnh, bởi chị không chỉ là nạn nhân của bạo lực gia đình mà còn là nạn nhân của cái nghèo, cái đói. Nhưng chị không coi đó là lỗi của số phận, mà nhận hết lỗi về mình. “Giá tôi đẻ ít đi…” thì cũng không đến nỗi gia đình túng quẫn như thế này, “nhưng cái nỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Cũng chính vì đẻ nhiều quá, mà không có tiền “sắm được một chiếc thuyền to hơn”; cũng chính vì đẻ nhiều mà gia đình túng quẫn, nhất là khi “ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”.

Con người ta khi đứng trước hoàn cảnh bất lợi, điều cố gắng đổ lỗi. Vậy mà, người đàn bà hàng chài này nhận hết lỗi về mình. Có lẽ, chỉ có những người thấu hiểu người khác, bao dung mà nhân hậu, vị tha lắm mới có thể nhận hết lỗi về mình như người đàn bà hàng chài lúc này được. Vẻ đẹp đó của chị, làm ta nhớ đến cái giây phút lặng lẽ của bà cụ Tứ khi nhận hết lỗi về mình mà hờn tủi! “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, nhưng mong sinh con đẻ cái mở mặt say này. Còn mình thì…”. Người phụ nữ Việt Nam là thế! Bao giờ cũng thế, ngàn đời như thế! Bao giờ cũng nhận hết nỗi đau về mình, nhận hết những ngang trái, đắng cay của cuộc đời về mình để được hi sinh cho chồng cho con.

"Mỗi con người đều chứa trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó". Vì thế Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, nên với con mắt tinh tế của mình, ông đã nhìn thấy những vẻ đẹp khuất lấp đằng sau vẻ ngoài thô ráp, sần sùi kia của con trai là một viên ngọc sáng. Người đàn bà hàng chài đã thể hiện sự thấu hiểu của mình về nỗi vất vả của chồng.

Áp lực thứ nhất, là chồng mụ đã rất vất vả vì cuộc sống mưu sinh, vì gánh nặng của một người trụ cột trong gia đình, áp lực của một người chồng, một người bố. Vậy nên, chồng mụ không phải ngẫu nhiên thích đánh thì lôi vợ ra đánh, mà “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh”, nghĩa là chỉ khi nào thấy khổ chồng mụ mới đánh mụ. Nhưng xót xa làm sao, khi cái cuộc sống trớ trêu này nó toàn cái khổ chồng lên cái khổ, nên mụ mới bị đánh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Chị thấu hiểu điều đó, chị hiểu người chồng kia cũng yêu thương vợ con, bởi nếu không thì lão cũng đã từ bỏ cái vùng biển này mà đi biệt xứ, hoặc như những câu chuyện tìm đến cái chết trong văn học trước đây. Thế nhưng, lão chồng chị vẫn gánh hết cái khổ về mình, mà chỉ chọn cách duy nhất là đánh vợ để giải tỏa chứ không chọn đường cùng. Nên nếu “đàn ông khác trên thuyền uống rượu...” thì lão lại không uống. Không biết nguyên do là thương vợ, con đói khổ hơn hay thế nào. Nhưng chính mụ cũng ước “giá mà lão uống rượu thì tôi còn đỡ khổ…”.

Vì thương chồng, để chồng được giải tỏa áp lực, mụ đã chấp nhận và cam chịu để được chồng đánh, thậm chí chị còn muốn được chồng đánh. Chỉ có điều, con cái đã lớn nên mụ “xin được với lão… đưa lên bờ đánh” để con cái khỏi phải chứng kiến cảnh bố mẹ đánh nhau mà tổn thương. Như vậy, những trận đòn roi này là những trận đòn có thỏa thuận, người đàn bà cho phép chồng đánh. Có lẽ, mụ hiểu rằng, mình không thể làm gì giúp chồng, mình đã mang đến cho chồng nhiều gánh nặng, nhiều áp lực, nhiều vất vả nên mụ chấp nhận để chồng đánh, để cho ông ấy được vơi đi những áp lực mà tiếp tục chèo chống con thuyền, cùng nhau “nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chính sự thấu hiểu đó, đã làm Phùng và Đẩu phải thốt lên “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Có lẽ, chỉ những người ngoài cuộc, không chịu thâm nhập vào bản chất sự việc như chúng ta, hoặc chỉ hời hợt nhìn bên ngoài thì mới vội vàng đánh giá như vậy. Còn người thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu người chồng, biết hi sinh như mụ có lẽ, âu cũng là chuyện bình thường.

Không chỉ hiểu những áp lực của chồng, mà lời bào chữa cuối cùng của người đàn bà hàng chài mới để lại trong ta nhiều xúc cảm. Mụ đã bào chữa cho chồng từ tội nhân trở thành ân nhân, từ ân nhân trở thành người mà mụ mang ơn. Mụ lý giải “Là bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”, nghĩa là mụ cương quyết không bỏ chồng là bởi mụ cần chồng. Cần chồng chèo chống con thuyền lúc phong ba, cần “cánh tay của chồng” để đưa con thuyền gia đình, trên đó có những đứa con của mụ vào bờ một cách an toàn. Vậy, người đàn ông ấy đâu phải là tội nhân, khi ông ta là người đã bảo vệ mụ của các con mụ trước sự dữ dội của thiên nhiên, của cuộc sống sóng gió nơi biển cả dữ dội?

“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí”, và nhận thức giữa con người và cuộc đời, trong câu chuyện về cuộc đời người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ đã mở ra nhiều triết lý sâu sắc đáng để ta suy ngẫm. Thông qua nhân vật người đàn bà hàng chài, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới người đọc một thông điệp về mối quan hệ giữa “nghệ thuật” và “cuộc đời” và đó cũng chính là quan niệm của nhà văn thời kì đổi mới: Cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng, chứa đựng nhiều nghịch lí cũng như mâu thuẫn. Nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ dễ dàng đưa ra đánh giá lệch lạc, phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản: “Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức” – “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn không thể có cái nhìn dễ dãi trước cuộc sống mà phải biết nhìn thấu được bản chất bên trong của cuộc sống. Đó mới là người nghệ sĩ chân chính. Đến đây ta càng thấm thía hơn câu nói của nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn – Nam Cao: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.

Người đàn bà đã kể cho Phùng và Đẩu về cuộc đời của mình. Ở cái câu chuyện của người đàn bà ấy nó cũng dài dòng, nó cũng rườm rà, nó cũng “cà kê”, nó cũng lộn xộn như là chính cái cuộc sống, chứ nó không thẳng thớ như những cái gạch đầu dòng, như những cái câu chuyện hồ sơ mà Đẩu hay viết ra với những cái gạch đầu dòng. Thế nhưng cuộc sống là thế, nó có những cái quanh co của nó, nó cũng ngoằn ngèo của nó chứ, nó có những cái cua vòng rẽ ngoặt của nó chứ. Và nếu như chúng ta chỉ lược bằng những cái gạch đầu dòng thì làm sao mà có thể kể hết được cái lẽ của cuộc sống. Đôi khi, chúng ta cứ làm sao để có thể tóm tắt, nhưng chính những cái tóm tắt ấy sẽ làm mất đi những cái cua vòng, rẽ ngoặt của cuộc đời người ta, nó sẽ làm bay đi mất những cái quanh co, ngoắt ngéo của cuộc đời. Mà đôi khi cuộc đời chính vì những cái quanh co, ngoắt ngéo ấy cho nên chúng ta mới thành ra như thế này. Nếu như cuộc đời mà cứ thẳng tưng như thế thì cuộc đời lại đơn giản hơn biết bao nhiêu.

“Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Nhà văn Tô Hoài kết luận về các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu rằng: “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”. Những triết lý đó, là những bài học về cuộc sống cho người đọc bài học “trông nhìn và thưởng thức”. Có lẽ, những cái lỡ cỡ, lưng chừng, hời hợt trong cuộc sống sau khi có “ngọn gió trước đèn” của Nguyễn Minh Châu đã được thay thế bằng sự nghiêm túc và là kim chỉ nam cho không chỉ là nghệ sĩ mà còn là bài học nhận thức cho tất cả chúng ta!

(Nguồn: Cô Trần Thùy Dương)

Phân tích người đàn bà hàng chài bài văn chuyên sâu mẫu số 6

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải, "Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này". Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên "Chiếc thuyền ngoài xa" với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trach ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi "mụ", "người đàn bà hàng chài" như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với "một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ". Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên "tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng". Từ cách hành xử, đi đứng đến "tìm đến một góc tường để ngồi" càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng".

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã "chắp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí". Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng "quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó". Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy.

Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn. Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghĩ, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.

Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi "vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no". Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại, ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

Phân tích người đàn bà hàng chài bài số 7

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy.

Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”.

Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ.

Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.

Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.

Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại.

Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài bài số 8

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí, thô kệch và “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được cái nhan sắc “trời phú”, chị ta xấu xí, khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài 40.

Bên cạnh đó số phận kém may mắn: Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.

Đồng thời, tác giả cũng khắc họa rõ nét về cuộc đời lam lũ, vất vả của người đàn bà làng chài. Tính cách: Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục. Hành động và lời nói của người chồng: “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.

Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Người đàn bà ấy giàu lòng tự trọng. Chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc. Nhưng chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã.

Nhiều khi, sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người khách lạ chứng kiến.

Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha giàu đức hy sinh. Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng - cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa”… “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “chị cám ơn các chú… Lòng cách chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênh không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.

Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình. Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản.

Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức nhận được nhiều điều. Thức nhận được, nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Thức nhận được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Thức nhận được người đàn bà kia không hề chịu đòn roi một cách vô lí, cả Đẩu và Phùng chua chát nhận ra rằng: trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp.

Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Thức nhận được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn.

Ở chị vững bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu sắc. Thức nhận được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả.

Kết thúc truyện ngắn, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn, những con người lao khổ, đông đúc và vô danh.

Qua những cảm nhận về người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định cho chúng ta thấy sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 9

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

   Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiến anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người đàn bà hàng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”.

Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con của mình.

Dọc theo hành trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó. Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 10

Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Đọc hết câu chuyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.

Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị. Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.

Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài ngắn gọn mẫu số 11

Hình ảnh người phụ nữ đã từng xuất hiện nhiều trong văn học xưa và nay. Mỗi người đều có những đặc điểm riêng với những vẻ đẹp ấn tượng và khó lẫn qua ngòi bút của mỗi tác giả. Khi phân tích hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, người đọc sẽ có được cảm nhận riêng về số phận người phụ nữ hàng chài tuy vất vả nghèo khó nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn.

Hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa dù nổi bật xuyên suốt tác phẩm nhưng lại không được đặt tên cụ thể. Điều này cho thấy đây là nhân vật có vai trò phát triển mạch truyện, có mối quan hệ mật thiết với các nhân vật khác tượng trưng cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội. Hình ảnh người đàn bà đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo và quan điểm nhân văn của tác giả.

Sự xuất hiện của nhân vật người đàn bà mà câu chuyện “săn ảnh” của nghệ sĩ Phùng được soi chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Đó là góc nhìn ở bề sâu bức tranh cuộc sống. Hình ảnh người đàn bà xuất hiện khi chiếc thuyền đẹp như mơ nhìn từ xa trong làn sương sớm lao vào bờ. Nguyễn Minh Châu ngay lập tức cho người đọc quan sát những thước phim quay chậm ấn tượng về hình ảnh một người phụ nữ lao động cần cù.

Trước hết, hình tượng người đàn bà hàng chài được khắc họa với những dấu ấn là con người với những éo le của số phận. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở dấu ấn của con người và số phận thì hình ảnh người đàn bà hàng chài sẽ bị lẫn vào giữa bao nhiêu người phụ nữ khác trong văn học xưa và nay. Tác giả đã khẳng định được “chất ngọc” nơi người phụ nữ này nhờ điểm nhấn vẻ đẹp tâm hồn.

Tác giả Nguyễn Minh Châu đã đậm tô một số phận, một hình ảnh đại diện cho người phụ nữ hàng chài nghèo khó, cam chịu và giàu hi sinh. Trong cuộc sống còn nhiều ngang trái, người đàn bà hàng chài đã để lại ám ảnh trong tâm trí của nghệ sĩ. Đặc biệt, mỗi khi anh xem lại tấm ảnh tuyệt mỹ trong bộ lịch là một lần day dứt. Dù không dụng công trong miêu tả, tác giả lặng lẽ ghi lại những gì chân thực nhất về gương mặt và số phận người đàn bà. Đó là gương mặt đời thường mà văn học sau năm 75 trú tâm khám phá và tái hiện.

Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ta thấy được hình ảnh một người nhanh nhẹn, hoạt bát với một vài chi tiết nhỏ nhưng đặc biệt. Ấn tượng nhất là đôi mắt: chị đưa mắt nhìn xuống chân khi chuẩn bị bị chồng đánh, đưa cặp mắt và đầm phá, đôi mắt nhìn thấu cuộc đời khi nói chuyện với chánh án Đẩu…

Chỉ những chi tiết ấy thôi đã bộc lộ rõ nét nhất tâm sự của một người đàn bà cùng với những lam lũ vất vả phải chịu đựng. Đôi mắt long lanh như biết nói, đôi mắt thấu hiểu sự đời. Quả thật không sai đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ chân thật nhất, không lẫn vào bất cứ đâu.

Qua phân tích hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, ta có thể thấy được vẻ đẹp bên trong của người phụ nữ. Đó được thể hiện chủ yếu hội tụ trong câu chuyện diễn ra ở tòa án huyện, một con người trải qua nhiều khổ cực nên thấu hiểu sự đời. Hình ảnh này khiến người đọc có cái nhìn rõ nhất về nghệ thuật độc đáo trong cách khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người.

Phân tích người đàn bà hàng chài mẫu số 12

Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975. Ông thành công với nhiều tác phẩm như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa nhưng để lại dấu ấn sâu đậm nhất là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Trong tác phẩm, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh.

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới... toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”.

Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Sự đối lập giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài khiến Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta... Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ…

Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên.

Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con. Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…".

Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì: “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: ”Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: ”Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ”phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của anh ta nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho anh ta.

Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “...vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả lời nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta. Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 13

Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó.

Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Người đàn bà hàng chài là nhân vật đặc sắc nhất của truyện.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.

Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài bốn mươi tuổi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Ngoại hình thì vậy, số phận cũng không khá hơn. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng.

Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình.

Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀

Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do chị đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.

Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh chị còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh”.

Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.

Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.

Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.

Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”.

Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.

Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ.

Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.

Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng

Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại h́nh và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".

>>> Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa để có cái nhìn khác đầy đủ hơn về nhân vật người chồng.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 14

Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn, nếu như giai đoạn trước, các nhân vật luôn được đặt vào bầu không khí vô trùng thì đến giai đoạn sau với cảm hứng thế sự, các nhân vật có nhiều chuyển biến rõ nét. Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình.

Nếu như các nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy dây lưng vụt tới tấp, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị.

Dù chị có số phận bật hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Đầu tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách chốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miềm biển.

Không chỉ vậy người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con. Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương.

Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.

Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem đến cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới. Chị ngồi sâu vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”.

Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài. Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu.

Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hi sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận và cuộc đời mình. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết những vấn đề ở xung quanh.

Hình ảnh người đàn bà làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu, yêu thương chồng con, đức hi sinh và tình mẫu tử cao đẹp.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 15

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Ni-Culin nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”.

Giai đoạn sau này, nổi bật là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm sáng tác của ông là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc đời.

Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn giới thiệu là người đàn bà trạc ngoài 40. Và khi đề cập đến nhân vật này Nguyễn Minh Châu không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người đàn bà hàng chài”… Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn bà đau khổ, bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi.

Người đàn bà hàng chài mang một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi tất cả của chị: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết miêu tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.

Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ: "sợ sệt, lúng túng” khi ở tòa án, “tìm đến một góc tường để ngồi”. Thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai chị mới “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghé và cố thu người lại”. Có lẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lí, luôn mặc cảm, tự ti và do đó muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức đến khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh.

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài… rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.

Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình, không né tránh.

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về mặt thể xác, mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu đựng những đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về những đau đớn tinh thần, về sự nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang.

Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chấp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái luân thường đạo lí”, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự đau khổ cùng cực của người đàn bà hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quẩn quanh bất hạnh. Trước năm 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn còn đó.

Từ thân phận người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối.

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở người đàn bà rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài mà người đọc cảm nhận được trước hết đó là ở vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra bao điều sâu xa của cuộc sống.

Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và Phùng: “Lòng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Người đàn bà hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba sóng gió dù hắn có man rợ, tàn bạo đến đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, luôn bất cập, tiềm ẩn những hiểm họa, đe dọa.

Người đàn bà hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng chẳng ai ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người.

Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc của người chồng không phải vì chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu xót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang một mặc cảm tội lỗi khi cho rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.

Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con.

Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài”.

Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người đàn bà “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình.

Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền “khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ ”vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” – Tố Hữu.

Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại “bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa” bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh… hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu.

Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động,… nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong đói nghèo, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài mẫu số 16

Tiên phong trong phong trào văn học đổi mới sau chiến tranh không ai ngoài cái tên Nguyễn Minh Châu nên cách nhìn về con người cũng mới. Hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được xây dựng rất thành công với cái nhìn đa chiều.

Người đàn bà hàng chài hiện lên trong lăng kính của Phùng, chiếc thuyền cập bờ người đàn bà nhìn tầm ngoài 40 tuổi, hình dáng cao, thô kệch còn khuôn mặt thì rỗ chính vì thời con gái cô ta bị bệnh đậu mùa. Nhà văn với cách miêu tả chân thực đã cho người đọc nhận thấy người đàn bà này chắc khỏe nhưng nhan sắc không được ưa nhìn. Chị ấy mặc trong người một chiếc áo cũ mèm, lưng bạc phếch với nhiều chỗ rách rưới. Nhìn vào khuôn mặt ấy hiện lên vẻ đầy mệt mỏi, xanh ngắt, đầu tóc rũ rượi, bơ phờ vì một đêm thức trắng đánh bắt, kéo lưới.

Người đàn bà này qua một đoạn miêu tả, hành động của người chồng nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được chị có một cuộc đời lam lũ, không mấy sung sướng, ngược lại là vô cùng cực khổ, đói nghèo, lam lũ, gánh nặng gia đình đè lên đôi vai của chị. Những ngày biển động, cả gia đình thiếu thốn ăn xương rồng luộc qua bữa.

Hoàn cảnh nghèo khó, cơ cực một phần xuất phát từ chính gia cảnh đông con mà công việc lại bấp bênh vô cùng, trình độ lao động sản xuất còn kém nên toàn bộ phụ thuộc vào thời tiết mà kiếm sống. Nhìn thấu ở đây là nỗi niềm đau đáu nhân thế của tác giả trước cuộc sống nghèo đói của nhân dân sau chiến tranh. Chính vì cái nghèo khiến cho nhiều bi kịch xảy ra, điển hình ở đây là nạn bạo lực gia đình.

Người đàn bà xuất hiện trong cảnh bạo lực qua lời văn diễn đạt của nhà thơ vô cùng sắc nét đầy bi thương. Khi chiếc thuyền cập bờ, chị ta bước đi về phía bãi cát thẳng đến chiếc xe tăng để rà mìn cũ. Theo sau chị ta là bóng dáng của một người đàn ông hung dữ, cầm trên tay chiếc thắt lưng to hùng hổ lao nhanh đến quật vào lưng chị tới tấp không dừng. Hắn ta dùng hết sức mà đánh chị ta như có gì đó tức nghẹn, uất ức trong lòng, vừa đánh vừa buông lời chửi thậm tệ.

Lạ thay, người đàn không một chút kháng cự, chống trả hay trốn chạy, một tiếng kêu cũng không có. Phùng từ xa chứng kiến cảnh tượng này đau xót đến rùng mình, anh kinh ngạc với màn bạo lực man rợ đáng lên án này. Khi căm tức người đàn ông kia thì lại xót thương, cảm thông vô cùng cho thân phận người phụ nữ - nạn nhân của trận bạo hành đó. Chị ta vô cùng cam chịu, nhẫn nhục nuốt vào trong chấp nhận chịu đòn roi mà không một lời than trách. Hiện lên ở người đàn bà này cái thái độ chịu đựng rất khó hiểu, điều đó để lại ẩn số trong Phùng.

Nhìn vào người đàn bà hàng chài này chúng ta có thể đồng cảm được rằng chị ấy không chỉ đau đớn về thể xác mà cả tinh thần, điều này thấy rõ ở chi tiết đứa con của chị ấy xuất hiện. Dù có bị người chồng đánh đến mức nào chị cũng chịu một mình mà không muốn cho các con thấy cảnh bạo lực này nhưng thằng Phác con chị hiểu chuyện, nó đã theo dõi từ trước nên khi nó xuất hiện chị có bất ngờ. Phác thấy ba đánh mẹ liền xông vào đánh ba để bảo vệ mẹ thì bị ba nó tát hai cái ngã dúi người rồi ông ta bỏ vào thuyền. Chị bàng hoàng, ngạc nhiên lại ôm thằng bé trong lòng rồi buông ra, ngồi bên cạnh lạy rồi khóc.

Người đàn bà lộ rõ cảm xúc đau đớn tột cùng, có chút tủi hổ. Nỗi đau trào dâng khi nhìn cảnh gia đình mình bị xáo trộn, chồng đánh vợ, con đánh cha. Người mẹ đau nỗi đau khi bản thân để con phải chịu tổn thương, mất mát, để chúng không hưởng một cuộc sống gia đình bình yên, yêu thương. Chị xấu hổ vì đã che giấu tất cả, trước các con luôn giả vờ về mọi thứ, lời cảm ơn đến con được thay bằng cái ôm ấm áp hơi ấm vì đã chấp nhận mẹ dù thế nào rồi lạy để mong con sẽ tha thứ cho mình.

Chuyện bạo lực này rồi cũng đến tai tòa án huyện, Đẩu - chánh tòa án huyện cho gọi người đàn bà này lên can thiệp, khuyên chị ly hôn. Dù cho lời lí giải của tòa có thuyết phục thì chị cũng van xin được từ chối. Chị nói “lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn nên các chú đâu hiểu được điều các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Lúc này Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ. Vì với người chồng, chị mang ơn, người đàn ông này tuy cộc tính nhưng bản tính hiền lành, chỉ vì cuộc sống nghèo khó đẩy ông ta thành người vũ phu, dữ dằn. Hơn nữa chị nghĩ đến các con, cái ăn, cái mặc của chúng nên nhất quyết không chịu ly hôn vì nghề chài lưới luôn cần có người đàn ông gánh việc nặng.

Làm sao có thể thấy chị hiểu và thương chồng, một người phụ nữ có tấm lòng vị tha, rộng lượng như vậy nếu không chứng kiến, nghe những lời kể từ tận đáy lòng của chị. Vì cuộc đời các con của mình, một người mẹ giàu lòng yêu thương, một người vợ thủy chung, son sắc, nhân hậu chấp nhận chịu đựng cuộc sống không hạnh phúc, chịu đòn roi từ người chồng và hơn thế nữa. Chị chấp nhận mình khổ cực nhưng không để các con mình phải thiếu cha, thiếu ăn.

Phùng sau khi về nhà mang trong lòng nỗi ám ảnh, cảm nhận về gia đình của người đàn bà này cũng chính là những trăn trở của nhà văn. Niềm tin, hy vọng số phận của gia đình chị ấy sẽ thay đổi tích cực hơn được tác giả gửi gắm vào đó. Nhân vật người đàn bà hàng chài được Nguyễn Minh Châu khắc họa vô cùng chân thực trong hình tượng lao động nghèo khổ ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ bất hạnh.p

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài bài số 17

Nguyễn Minh Châu là nhà văn suốt đời trăn trở về nghề và người. Năm 1972 giữa lúc đang viết những thiên sử thi trữ tình lãng mạn, lộng lẫy hào quang, ông đã ghi vào nhật kí “hôm nay chúng ta đang chiến đấu để giành quyền sống cho một dân tộc. Nhưng rồi đến một ngày chúng ta phải chiến đấu để giành quyền sống cho từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn, hạnh phúc hơn. Đó mới chính là cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ”. Với niềm suy tư, trăn trở ấy, Nguyễn Minh Châu đã đổi thay từ cảm hứng sử thi trữ tình lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường. Sự thay đổi đó để lại dấu ấn rõ nét trong các nhân vật nữ của ông mà tiêu biểu là nhân người đàn bà hàng chài trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Nếu nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” là nhân vật hoàn mĩ, lý tưởng từ cái tên đến đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, từng sợi tóc lấp lánh đến ánh trăng. Và lúc nào cũng hiện lên trong cái nhìn mê muội cảm phục của Lãm thì nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” lại không tên, không chút nhan sắc, chị có thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt tái nhợt đầy những nốt rỗ. Mỗi lần chị khóc nước mặt đọng đầy trong những nốt rỗ ấy, bộ quần áo bạc phếch vá víu lúc nào cũng ướt sũng.

Những nét chân dung như thế đã hé mở một cuộc đời khổ đau bất trắc, chị thuộc hiện thân của mảnh đời cơ cực tối tăm vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta. Đó là người phụ nữ lao động lam lũ vất vả ở làng chài, cả nhà sống chen chúc trên một chiếc thuyền chật hẹp. Thế nhưng trong cuộc đời đen tối đó lại ẩn chứa những vẻ đẹp đáng trân trọng.

Người đàn bà có sức chịu đựng vô bờ bến, khi miêu tả bề ngoài của nhân vật Nguyễn Minh Châu chú ý đến chi tiết “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng vì kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đây là chi tiết đáng giá để nhấn mạnh sức cam chịu, bình thường lúc mệt mỏi người ta thường sinh ra cáu gắt, ấy thế nhưng người đàn bà vẫn cam chịu những cơn cuồng nộ của người chồng. Khi biết mình phải chịu đòn người đàn bà có những hành động rất ý nghĩa: đưa cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân, quay lại phía con thuyền để xác nhận rằng không còn đứa con nào ở đó.

Chị còn là người hiểu sâu sắc lẽ đời: hiểu rõ hoàn cảnh của mình, hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống và hiểu rõ con người. Chị hiểu rõ nỗi bế tắc của người chồng, hiểu chồng là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Chị nói về việc chồng trở nên vũ phu là do đám đàn bà ở thuyền đẻ quá nhiều mà thuyền lại chật”. Chị còn là người mẹ bao dung đầy lòng vị tha, giàu đức hy sinh. Chị chấp nhận để chồng đánh ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng chứ nhất quyết không chịu bỏ chồng về đàn con. Nỗi đau khổ lớn nhất của chị là để đàn con bị tổn thương.

Khi biết thằng Phác chứng kiến cảnh bố nó hành hạ mẹ nó, đây là nỗi đau giày xé trong lòng chị còn đau hơn nhiều những trận đánh, hành động ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, “vái lấy vái để” cho chúng ta thấy điều đó. Người đàn bà ấy còn rất giàu tình yêu thương. Chị yêu thương cảm thông cho lão chồng đã hành hạ chị suốt đời vì chị biết chồng chị chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Hành động chị lạy con để giữ cho nó không phải ân hận vì một lần lỗi đạo để cầu xin thằng bé tha thứ vì mẹ không thể chở che cho tâm hồn ngây thơ non nớt của nó không tổn thương trong hoàn cảnh tăm tối, cơ cực.

Chị còn là người chắt chiu hạnh phúc, chị chấp nhận những cay đắng riêng mình để có niềm hạnh phúc bình dị nhỏ nhoi đó là những lúc đàn con của chị được ăn no, vợ chồng con cái hòa thuận với nhau. Chị còn rất giàu lòng tự trọng, chị có cách ứng xử rất tự trọng: xin lão chồng đưa lên bờ mà đánh để tránh các con phải nhìn thấy, khi biết Phùng và con trai chứng kiến cảnh mình bị đánh chị vô cùng đau đớn, xấu hổ, nhục nhã.

Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng sau mỗi trận đòn chị lại đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng để đuổi theo lão đàn ông. Đó là sự nhẫn nhục của người có nhân cách tự trọng. Chính vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài đã khiến Phùng và Đẩu nhận ra nhiều điều: cuộc sống không đơn giản một chiều, không thể giải quyết vấn đề cuộc sống bằng lòng nhiệt tình, ý thức sách vở.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được hình ảnh nhân vật người đàn bà với đường nét thô kệch nhưng lại mang một vẻ đẹp rất đời, rất thực, ẩn sâu và khuất lấp giữa kiếp người nhọc nhằn, lam lũ. Một vẻ đẹp khiến lòng người quặn đau.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài bài số 18

Nguyễn Minh Châu là một là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến của thi sĩ. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Truyện được kể lại qua lời kể của nhân vật Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Theo lời đề nghị của trưởng phòng, Phùng trở về chiến trường xưa để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh thuyền biển lúc bình minh đẹp như tranh mực Tàu của một danh họa thời cổ. Nhưng éo le thay, đang ngây ngất với cảm giác hạnh phúc thì Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng phũ phàng. Đó là cảnh người chồng đánh vợ một cách thô bạo, còn người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng một cách khó hiểu. Phùng từ ngất ngây sung sướng đến kinh ngạc, sững sờ. Có thể nói, nhà văn đã ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống này mà nhân vật người đàn bà dần hé lộ số phận và tính cách.

Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định. Phải chăng ông muốn nói hộ bao nhiêu người đàn bà vô danh ở vùng biển này? Người đàn bà trong truyện trạc ngoài bốn mươi, cùng chồng đánh cá bằng thuyền lưới vó ở một vùng biển miền trung.

Người đàn bà có thân hình "cao lớn với những nét thô kệch", "rỗ mặt", lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt "mệt mỏi", "tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Cái vẻ ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, quanh năm phải chống chọi với cái nghèo, cái đói, với thiên tai khắc nghiệt. Ngay từ hình thức bên ngoài của nhân vật, tác giả đã dự báo về một số phận lắm éo le, nghịch cảnh. Khắc họa về hình ảnh người đàn bà, Nguyễn Minh Châu tập trung ở khuôn mặt và đôi mắt - nơi ẩn giấu những bí ẩn của cuộc đời. Ở người đàn bà xấu xí, rỗ mặt ấy có một đôi mắt thật lạ.

Đôi mắt chính là cuộc đời chị. Đôi mắt của một cuộc đời không bình lặng. Đôi mắt "ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi... đưa cặp mắt nhìn xuống chân" đầy vẻ cam chịu. Đôi mắt đã từng "nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một", nói những lời đâu phải dễ nghe sau những giây phút "sợ sệt, lúng túng, rón rén đến ngồi ghé vào chiếc ghế và cố thu người lại". người đàn bà xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực, khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rỗ chằng chịt, khuôn mặt cúi xuống nhẫn nhục khi nói về đời mình, khuôn mặt ấy còn ám ảnh Phùng mãi sau này.

Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét những chi tiết ngoại hình nhằm giúp người đọc hình dung được cuộc sống khổ đau, bất hạnh của nhân vật. Bà phải chịu đựng về cả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần. Thường xuyên bị chồng đánh nhưng người đàn bà ấy vẫn quyết gắn bó với người chồng vũ phu. Trong tâm thức bà luôn lo sợ các con sẽ bị tổn thương, luôn phải che giấu những nỗi đau của mình nhưng các con vẫn khiến bà thực sự đau lòng vì "bà cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã". Bà đau vì không tránh được cho con khỏi bị tổn thương do bạo hành gia đình. Bà làm như vậy như là để tạ tội với các con vì không thể cho nó một mái ấm hạnh phúc. Bà hiểu được nguyên nhân sự nghèo khổ của gia đình là do đông con, chồng phải trốn lính, thuyền chật, cuộc sống bấp bênh. Bà hiểu sâu sắc thiên chức làm mẹ, hiểu được bản chất của chồng. Theo bà, ông ta trở nên thô bạo như vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng chài là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời. Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Qua phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. "Chiếc thuyền ngoài xa" mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con người. Đó là cái nhìn đa chiều, ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu cuộc sống, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.

-/-

Trên đây là những hướng dẫn cách làm chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay phân tích người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa mà chúng tôi đã biên soạn gửi tới các em học sinh tham khảo. Kết hợp phần dàn ý phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài với những kiến thức đã được học trên lớp về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, các em có thể tự hoàn thiện bài phân tích của mình. Chúc các em học tốt và đạt điểm cao!

Từ khóa » Nhân Vật Người đàn Bà Hàng Chài Trong Tác Phẩm Chiếc Thuyền Ngoài Xa