Phân Tích Nhân Vật Bé Thu Trong Truyện Chiếc Lược Ngà | Văn Mẫu 9

Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà của Đọc Tài Liệu gồm những gợi ý chi tiết giúp em làm tốt các bước phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy kèm theo một số mẫu bài văn phân tích hay.

 Cùng tham khảo ngay...

Hướng dẫn phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà

1. Phân tích đề

- Yêu cầu về nội dung: phân tích tính cách, tâm lý, hành động của nhân vật bé Thu.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các câu văn, từ ngữ, chi tiết xoay quanh nhân vật bé Thu trong văn bản đoạn trích Chiếc lược ngà.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm phân tích nhân vật bé Thu

- Luận điểm 1: Bé Thu là đứa bé bướng bỉnh, ương ngạnh.

- Luận điểm 2: Bé Thu có tình yêu thương cha tha thiết, mãnh liệt.

3. Khái quát chung về nhân vật bé Thu

- Hoàn cảnh gia đình bé Thu: Ba bé - anh Sáu - đi chiến đấu xa nhà từ khi bé chưa đầy một tuổi. Tám năm trời hai cha con chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh, trong tiềm thức bé hình ảnh người ba vô cùng ít ỏi.

- Đặc điểm tính cách của bé Thu: bướng bỉnh, đáo để nhưng dễ thương, ngây thơ, hồn nhiên, có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt.

- Đây là nhân vật được khắc họa với nhiều biến chuyển về tâm lý.

4. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật bé Thu

Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà

Dàn ý phân tích nhân vật bé Thu chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm Chiếc lược ngà

+ Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam, tác giả của nhiều tác phẩm văn chương và kịch bản phim nổi tiếng.

+ Chiếc lược ngà (1966) là tác phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Quang Sáng ca ngợi tình cảm gia đình, tình cảm cha con cảm động và sâu sắc trong chiến tranh.

- Giới thiệu khái quát về nhân vật bé Thu: Bé Thu là nhân vật chính trong tác phẩm với những nét tính cách vô cùng đáng yêu, cá tính, là biểu tượng cho tình yêu thương cha sâu nặng.

2. Thân bài phân tích nhân vật bé Thu

a) Khái quát cảnh ngộ của bé Thu

- Khi anh Sáu - ba bé thoát li gia đình đi chiến đấu thì bé vẫn còn rất nhỏ (chưa đầy 1 tuổi)

- Tám năm trời, gia đình chỉ cho bé xem tấm hình ba chụp chung với má mà thôi và đó cũng là cách duy nhất để hai cha con biết mặt nhau.

b) Phân tích nhân vật bé Thu

* Bé Thu là đứa bé bướng bỉnh, ương ngạnh

- Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên, khi nghe tiếng ông Sáu ở bến xuồng, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác lạ lùng nhìn rồi bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên “má, má”.

- Trong ba ngày ông Sáu nghỉ phép bé Thu bướng bỉnh không nhận cha:

+ Thu xa lánh ông Sáu trong khi ông Sáu luôn tìm cách vỗ về, nhất quyết không chịu gọi tiếng ba

+ Má dọa đánh, Thu buộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm nhưng lại gọi trống không

+ Sợ nồi cơm nhão không nhờ được ai, bị dồn vào thế bí nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy vá chắt nước cơm chứ không chịu gọi ba

+ Ông Sáu gắp trứng cá vào bát cho Thu, nó hất tung cái trứng ra mâm, cơm văng tung tóe

+ Bị ba đánh đòn nhưng không khóc mà chạy sang nhà ngoại, mẹ dỗ mấy cũng không về.

=> Bé Thu “cứng đầu”, ương ngạnh, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng cũng rất hồn nhiên, ngây thơ và có chút sợ hãi.

* Bé Thu có tình yêu thương cha tha thiết, mãnh liệt

- Trước lúc ông Sáu lên đường:

+ Bé Thu được bà giải thích vết thẹo trên má ông Sáu

+ Khi hiểu ra nguyên nhân cái thẹo trên mặt của ba – nó nằm im, lăn lộn suốt đêm, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn, nó ân hận rồi căm thù giặc và thương ba nó vô hạn

+ Sáng hôm sau, bé Thu bảo ngoại đưa về.

=> Tình cha con trở lại vào khoảnh khắc ly biệt ngắn ngủi đem lại cho người đọc xúc động nghẹn ngào.

- Cuộc chia tay cảm động giữa ông Sáu và bé Thu:

+ Bé Thu chia tay ba nhưng tâm trạng khác trước, nó không bướng bỉnh nhăn mày cau có nữa

+ Tiếng gọi ba cất lên trong sâu thẳm tâm hồn bé bỏng của con bé, sự khao khát tình cha con bị kìm nén bỗng bật lên, tiếng gọi suốt 8 năm chờ đợi

+ “Nó vừa kêu vừa chạy xô tới dang hai chân ôm lấy cổ ba nó”. Nó hôn khắp người ông Sáu và hôn cả vết sẹo dài trên má ông

+ Hai tay Thu ôm chặt cổ ba, chân quắp chặt lấy ba không muốn ông Sáu rời đi

-> Lúc này bé Thu như đã gỡ bỏ tấm áo bằng toàn gai nhọn của mình xuống, thể hiện rõ là một cô bé hồn nhiên trong veo, thèm khát sự yêu thương của ba. Thu không muốn xa ba, muốn ba mãi bên mình.

=> Bé Thu có tình yêu thương cha mãnh liệt, vô bờ khiến người đọc phải rơi lệ.

c) Đặc sắc nghệ thuật

- Cốt truyện đơn giản, các chi tiết bất ngờ nhưng hợp lí

- Chọn nhân vật kể chuyện phù hợp, đảm bảo khách quan, tự nhiên, linh hoạt và chân thành.

- Ngôn ngữ kể chuyện giản dị, đậm chất Nam Bộ, giàu chất trữ tình, kết hợp miêu tả, biểu cảm và nghị luận.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trẻ em tinh tế.

3. Kết bài

- Khái quát giá trị của nhân vật bé Thu: Qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu giúp ta hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam Bộ nói chung và những đứa trẻ thiếu thốn tình cha do chiến tranh nói riêng phải hứng chịu trong chiến tranh chống Mĩ.

- Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Quang Sáng: miêu tả tâm lí trẻ em tinh tế, đặc sắc, mang giá trị nhân văn cao đẹp.

>>> Dàn ý phân tích nhân vật bé Thu ngắn gọn

TOP 10+ bài văn hay phân tích nhân vật bé Thu

Nhằm giúp các em hiểu rõ hơn về cách thức làm bài cũng như có thêm vốn từ ngữ phong phú phục vụ cho bài văn của mình, Đọc tài liệu giới thiệu tới các em 10 mẫu bài văn phân tích nhân vật bé Thu bao gồm cả ngắn gọn và chi tiết. Tham khảo ngay nhé!

Phân tích nhân vật bé Thu ngắn gọn nhất mẫu số 1

Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện cảm động về tình cảm cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Trong tác phẩm nổi bật hơn cả là bé Thu, nhân vật có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu thương cha tha thiết, mãnh liệt.

Truyện xoay quanh hai tình huống cơ bản: hai cha con gặp lại nhau sau tám năm xa cách, nhưng bé Thu không nhận ra ba, khi nhận ra thì anh Sáu lại phải tiếp tục lên đường chiến đấu. Đây là tình huống cơ bản giúp bé Thu thể hiện tình cảm mãnh liệt với cha. Ở khu căn cứ ông dồn hết tình yêu làm chiếc lược ngà cho con nhưng chưa kịp đưa ông đã hi sinh. Tình huống này giúp bộc lộ tình yêu của ông Sáu với con.

Thu là cô bé được sinh ra và lớn lên trong chiến tranh nên trong suốt tám năm ròng, cô bé chỉ được sống trong tình yêu thương, sự bao bọc của mẹ, em chưa một lần được gặp ba, mà chỉ nhìn mặt ba qua một tấm ảnh ba chụp chung với má. Thu vẫn luôn mang trong mình khao khát được gặp ba, được sống trong tình yêu của ba. Và có lẽ điều đó sẽ thành hiện thực nếu cuộc gặp gỡ sau tám năm kia không có những éo le trắc trở. Nhưng chỉ vì chiến tranh, một dấu tích để lại trên gương mặt anh Sáu mà con bé nhất quyết không chịu nhận ba. Trước cái dang tay của anh Sáu, Thu thấy vô cùng ngạc nhiên, sau đó là hoảng sợ, mặt nó tái đi, quay đầu bỏ chạy, cầu cứu má.

Phản ứng đầu tiên này có thể coi là bình thường, vì sau tám năm vào chiến trường có lẽ anh Sáu đã già dặn đi nhiều nên con bé không nhận ra. Nhưng những ngày sau đó, con bé vẫn luôn tìm cách lảng tránh và nhất quyết không gọi ông Sáu là ba. Bị mẹ ép gọi ba vào ăn cơm nó chỉ nói trống không, khi bị đẩy tới bước đường cùng chắt nước cơm nó cũng linh hoạt tự làm một mình. Nhất là khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá, nó hất ra khỏi bát cơm, khiến cơm văng tung tóe. Lúc bị đánh những tưởng nó sẽ khóc, nhìn anh Sáu bằng ánh mắt căm giận, nhưng nó chỉ lặng lẽ gắp cái trứng cá ra rồi bỏ về nhà ngoại. Nó không chấp nhận bất cứ sự quan tâm nào của ông Sáu với nó. Sự ương ngạnh của bé Thu không đáng trách, vì em còn quá nhỏ để hiểu được những ác liệt mà chiến tranh gây ra. Em không tin đó là ba mình vì vết thẹo dài trên má khác với người ba chụp cùng với má trong bức ảnh. Bởi vậy phản ứng quyết liệt của Thu là hợp lí, thể hiện một cá tính mạnh mẽ, tình yêu thương ba vô cùng sâu đậm.

Nhưng khi được nghe bà ngoại giải thích, lí do anh Sáu không giống trong bức ảnh thì bé Thu hiểu ra mình đã sai. Thu đã rất ân hận về hành động của mình, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bà ngoại chính là người giải đáp mọi thắc mắc, cởi nút trong tâm hồn trẻ thơ của Thu. Phản ứng không nhận anh Sáu quyết liệt bao nhiêu thì khi nhận ra cha tình cảm ấy lại càng sâu nặng, mãnh liệt bấy nhiêu. Trong giờ phút cuối cùng trước khi cha đi, tình cảm dồn nén bấy lâu nay bùng lên thật mãnh liệt, mạnh mẽ: Nó thét tiếng “Ba” xé ruột, xé gan. Đó là tiếng “ba” nó mong chờ bấy lâu nay, tiếng gọi ấy khiến ông Sáu rơi lệ. Rồi nó nhảy tót lên ôm chặt lấy ông Sáu, hôn vào tóc, vai, mặt, mũi và cả vết thẹo dài trên mặt ông. Chân nó quắp chặt lấy ba, như thể không muốn cho ông rời đi. Tất cả những hành động ấy cho thấy Thu yêu thương ba vô cùng, một tình yêu mãnh liệt, chân thành, thắm thiết. Tình yêu đó được bộc lộ một cách cảm động qua hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Tác phẩm có cốt truyện đơn giản những chi tiết được sắp xếp hợp lí, đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, đồng thời bộc lộ được cá tính nhân vật. Sự lựa chọn người kể chuyện phù hợp, bác Ba người luôn bên cạnh hai cha con, chứng kiến toàn bộ câu chuyện, bởi vậy câu chuyện được thuật lại chân thực, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ kể chuyện có sự kết hợp hài hòa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, khiến cho câu chuyện không chỉ hấp dẫn bởi cốt truyện mà còn bị rung động bởi những suy nghĩ, trăn trở của người kể chuyện. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật hết sức đặc sắc, nắm bắt tâm lí trẻ con tài tình, chân thực.

Qua nhân vật bé Thu tác giả đã thể hiện một cách cảm động tình yêu cha sâu sắc trong hoàn cảnh khắc nghiệt, éo le của chiến tranh. Đồng thời cũng là lời khẳng định, dù chiến tranh xảy ra cũng không thể làm vơi cạn được tình người, tình cảm gia đình. Ngược lại chính trong hoàn cảnh này, tình cảm gia đình lại càng trở nên sâu nặng, tha thiết và cao đẹp hơn.

Phân tích nhân vật bé Thu mẫu số 2

“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.

Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá đó là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này, đó là tiếng cha. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.

Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy… Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống, cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.

Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này.

Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa trong lòng.

Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái thẹo trên má ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng… đã muộn rồi.

Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu thưong mà anh muốn trao gởi tới con. “Thôi ba đi nghe con”. Phải chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh “Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại.

Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mềm trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! (“Không kìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”). ”Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con.

”Khi ông Sáu tìm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”, ”Ông thận trọng, tỉ mỉ…”, ”Ông gò lưng khắc từng nét…”. Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong đời. Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi, móc lấy cây lược, đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông Sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.

Người mất, người còn nhưng kỷ vật duy nhất, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, chiếc lược ngà vẫn còn ở đây. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu; và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Có thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con.

“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Nhân vật ông Ba - người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phải là người từng trải, sống hết mình vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu, nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nhà văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung dị, cảm động!

Phân tích nhân vật bé Thu mẫu số 3

Đề tài về tình cảm gia đình luôn là mạch nguồn cảm xúc của văn chương. Ca dao Việt Nam ngập tràn bóng dáng người mẹ, người cha và tạo thành dòng chảy đi vào thơ văn hiện đại với Lời ru của mẹ (Xuân Quỳnh), Mẹ ốm (Trần Đăng Khoa), Bầm ơi! (Tố Hữu), Những cánh buồm (Hoàng Trung Thông),… Cũng từ đó, tình cảm gia đình thiêng liêng được bồi đắp trong trái tim mỗi người, là sức mạnh, là niềm tin trong cuộc sống. Đồng thời, tình cảm gia đình là cái nôi sinh ra những tình cảm cao đẹp khác. Và tình cảm thiêng liêng ấy được đặt trong bối cảnh chiến tranh lại càng nổi bật, đậm đà. "Chiếc lược ngà" là một trong số đó. Đọng lại trong tâm hồn người đọc khi cảm nhận câu chuyện chính là ấn tượng khó quên về nhân vật bé Thu - một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc.

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc chiến cũng như sau hòa bình. Nguyễn Quang Sáng viết tác phẩm “Chiếc lược ngà” khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam - Bắc chia hai nhiều người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà, nhiều gia đình vì thế mà ly biệt. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người vợ xa chồng.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống, cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ.

Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Nhân vật bé Thu - một em gái tám tuổi là nhân vật thứ nhất của truyện, có một tình yêu cha thật đằm thắm, mãnh liệt. Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà, đến khi Thu lên tám tuổi, hai cha con mới được gặp nhau. Cô bé tóc cắt ngang vai, hồn nhiên xinh đẹp, mới nhìn ông Sáu đã nhận ra ngay con gái của mình, vậy mà nhìn thấy cha bé Thu đã tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ lùng, tái mặt đi, vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Rồi suốt trong ba ngày cha ở nhà Thu đã không nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của Thu được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động như: nhất định không chịu gọi ông Sáu là cha; nhất định không nhờ ông Sáu chắt giùm nước nồi cơm đang sôi to; hất cái trứng cá mà ông gắp cho; cuối cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to… Cách cư xử nói năng cộc lốc, vùng vằng, ương ngạnh, ngờ vực; cái thái độ lạnh nhạt, lảng tránh xa cách, thậm chí còn có những hạnh động vô lễ với ông Sáu ấy khiến cho tình cảm cha con tưởng chừng không hình thành được.

Tuy nhiên sự ương ngạnh của bé Thu lúc mới gặp cha là hoàn toàn không đáng trách. Bởi vì trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống. Mặt khác, người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường nên nó không tin ông Sáu là ba. Chỉ vì trên mặt ông có thêm vết thẹo khác với hình ba mà nó đã khắc sâu vào tâm trí. Phản ứng tâm lí của bé Thu là hoàn toàn tự nhiên. Nó chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc chân thật. Thu chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái cứng đầu của Thu có ẩn chứa cá sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác. Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm.

Song, đến buổi cuối cùng, trước khi ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Tình phụ tử thiêng liêng đã cháy bùng lên. Khi nhìn thẳng đối diện với người cha “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn xao đó là biết bao ý nghĩ, tình cảm đang xáo động trong lòng. Có được sự xôn xao đó trong đôi mắt là kết quả của cả một đêm “lăn lộn, thở dài như người lớn ở nhà ngoại”. Nó lăn lộn, nó thở dài có lẽ vì nó ân hận, quá giận mình, rất thương ba và mong cho trời chóng sáng để có thể chạy về nhà. Lần đầu tiên, khi không ai ngờ tới, Thu cất tiếng gọi ba. Đó là tiếng kêu như tiếng xé, xé không khí và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba Thu đã kìm nén bao năm nay. Tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy lòng nó. Và đau đớn thay, đây là tiếng gọi ba đầu tiên cũng là tiếng gọi cuối cùng trong cuộc đời cô bé.

Sau tiếng gọi ba là một loạt những hành động “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên, giang hay tay ôm chặt lấy cổ ba nó rồi nó hôn ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba”. Tất cả những hành động đó đều biểu hiện một tình cảm ruột thịt nồng nàn là nỗi mong nhớ bùng lên thật mãnh liệt, hối hả, cuống quýt có xen lẫn sự hối hận. Và khi nghe ông Sáu nói: “Thôi, ba đi nghe con”, nó đã thét lên “Không!” rồi “hai tay xiết chặt cổ ba nó, giang cả hai chân câu chặt lấy ba, đôi vai nhỏ bé rung rung”, bé Thu khóc. Đó là tiếng khóc của sự xót xa ân hận vì lỗi lầm của mình, vì thương ba đau khổ. Khi hiểu ra mọi lẽ, khi nhận ra cha thì đã quá muộn. Do đó tất cả mọi hành động của Thu đối với cha như muốn đền bù những hụt hẫng đã qua. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy, trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt. Riêng bác Ba - người kể chuyện cảm thấy như có bàn tay cứ nắm lấy trái tim mình. Nhà văn viết không nhiều, chỉ bằng một nét chấm phá đó thôi nhưng đủ cho ta xúc động trước nỗi niềm và tâm trạng của nhân vật.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước. Đến đây, những cảm nhận về nhân vật bé Thu còn cho thấy đó chính là sức mạnh của tình yêu gia đình cùng tình yêu quê hương đất nước.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu - một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi, mạnh mẽ, dứt khoát “đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo” nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Chỉ với những chi tiết trên, cảm nhận về nhân vật bé Thu đã hiện lên thật chân thực và rõ nét. Cùng với đó là cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt”, điển hình như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho, chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi.

Tình cảm của bé Thu đối với cha thật sâu sắc, mạnh mẽ, thật dứt khoát rạch ròi. Thu là đứa trẻ có cá tính cứng cỏi đến mức ương ngạnh nhưng hồn nhiên, ngây thơ, đáng yêu. Giờ đây, Thu không chỉ yêu ba, em còn tự hào về ba. Chính niềm yêu thương và tự hào ấy đã trở thành sức mạnh thôi thúc và rèn giũa để sau này Thu trở thành cô giao liên mưu trí, dũng cảm gan dạ. Qua những diễn biến tâm trạng, tình cảm của bé Thu, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và quan trọng hơn bởi ông có tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ đó.

Phân tích nhân vật bé Thu trong đoạn trích đến lúc chia tay mẫu số 4

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”

Một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của con người trong cuộc đời là tình phụ tử, tình mẫu tử. Trong vườn hoa văn học Việt Nam, tình mẫu tử luôn được đến với thái độ tôn trọng, tôn kính nhất. Tuy không nổi bật trong các tác phẩm như tình mẫu tử nhưng tình phụ tử cũng là một thứ tình cảm thiêng liêng, đáng quý, đáng trân trọng. Xuôi theo dòng chảy văn học của Việt Nam, ta bắt gặp tình cha con trong bài thơ “Nói với con” của tác phẩm Y Phương, tình cảm giữa người con trai đi làm xa và lão Hạc trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao,... những tình cảm đó đều diễn ra theo chiều hướng tốt đẹp với tình cảm sâu sắc mà cha và con dành cho nhau. Hiếm có một tác phẩm nào như “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng viết về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu lại gây ấn tượng với người đọc như vậy. Một bé Thu không yêu quý cha từ đầu nhưng đến cuối tác phẩm lại khiến người đọc trào nước mắt cảm động khi nhận ba, khi bộc lộ tình yêu thương với ba trước lúc ba lên đường qua đoạn trích: “Đến lúc chia tay, mang ba lô lên vai,… bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi.”

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với rất nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,.. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được sáng tác vào năm 1966 tại chiến trường miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua đó, chúng ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật khéo léo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

Câu chuyện kể về cuộc trùng phùng đầy nước mắt của hai cha con anh Sáu. Anh Sáu đi kháng chiến, sau một khoảng thời gian dài tám năm thì được nghỉ ba ngày phép để về thăm nhà. Bao nhớ thương, khao khát dồn nén mong nhớ gặp lại con, thèm được nghe con gọi một tiếng ba nhưng thật trớ trêu thay, bé Thu không nhận ra cha mình do vết sẹo trên gương mặt của anh Sáu. Đến khi hai cha con gặp gỡ và nhận nhau thì đó cũng là lúc anh Sáu phải trở về đơn vị. Giữ lời hứa với bé Thu, anh làm cho con chiếc lược ngà nhỏ xinh để chải tóc với bao tình yêu thương gửi gắm trong đó nhưng cuộc đời thật trớ trêu, ông trời đã không cho anh gặp được con lần cuối. Trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng, anh chỉ kịp trao chiếc lược lại cho bác Ba - người bạn thân của mình.

Truyện gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc qua nhân vật bé Thu. Thu là một cô bé đầy tình cảm, những hành động của cô bé lúc này khác hẳn với những ngày đầu khi anh Sáu trở về. Trái ngược nhưng lại nhất quán bởi nó quá yêu ba, quá nhớ ba, không cho phép ai thay đổi hình ảnh ba trong tâm trí nó. Khi hiểu được nguyên nhân của sự việc, nó muốn giữ ba ở lại, muốn thời gian ngắn ngủi còn lại kéo dài mãi mãi. Có lẽ chưa bao giờ cô bé mong thời gian ngừng trôi như bây giờ để níu kéo cuộc trò chuyện, cuộc gặp gỡ với ba. Nó ôm chầm lấy anh, “hôn lên mặt, lên tóc, lên cả vết sẹo trên má của anh”, dường như nó hiểu ra ba nó vẫn là ba của nó, vết sẹo ấy không những không làm ba mất đi mà còn làm ba trở nên đáng nể trong lòng nó. Có lẽ vì vậy mà sau này, khi lớn lên, Thu tiếp tục bước tiếp bước chân của ba trên hành trình bảo vệ Tổ quốc. Cô bé tám tuổi ngang bướng ngày nào giờ trở thành cô giao liên nhanh nhẹn, linh hoạt, lặng lẽ, âm thầm chiến đấu trả thù cho Tổ quốc, cho gia đình, cho tình cha con bất diệt.

Thu là cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu thương ấy được thể hiện qua sự thay đổi về thái độ của em trước giờ phút chia tay... Trong đêm trước hôm ba lên đường, bà ngoại đã giảng cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết rằng chính ông Sáu là cha của mình. Nó hiểu rằng cái vết thẹo xấu xí trên mặt kia của ông là do chiến tranh gây nên. Ba nó cũng dũng cảm và hiên ngang như bao người khác ấy chứ. Sau khi hiểu được nguồn gốc vết thẹo, bé Thu lặn lội suốt một đêm không ngủ được: "Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ba. Lúc này, bé Thu không chỉ yêu ba mà còn thương ba nữa. Người đọc được chứng kiến cuộc chia tay cảm động vào buổi sáng hôm sau trước khi ông Sáu lên đường. Bé Thu cũng có mặt ở buổi đưa tiễn nhưng lại mang một tâm trạng khác: “Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương”. Thu không ngơ ngác, không lạnh lùng nữa mà nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Phải chăng đó là ánh mắt của cô bé ngây thơ bối rối xen lẫn sự hối hận. Hối hận vì không yêu ba sớm hơn, hối hận vì đã trách lầm cha. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.

Độc giả cảm nhận được ẩn sâu trong đôi mắt mênh mông xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm. Khi ông Sáu chào mọi người, nói với bé Thu: “Thôi! Ba đi nghe con”. Tình thương cha bấy lâu đã đè nén trong lòng cô bé đã trỗi dậy mạnh mẽ, bé Thu cất tiếng gọi. Sự khao khát tình cha con bấy lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên thành tiếng - tiếng thét gọi: “Ba… ba…. a… ba”. Tác giả sử dụng từ “kêu thét” mà không phải là kêu gào, kêu lớn, đã phần nào diễn tả tâm trạng của bé Thu: lo sợ, buồn tủi. Bé kêu thét - sự đột ngột, sự dồn nén cảm xúc đã từ lâu giờ mới có cơ hội để thổ lộ. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”, tiếng kêu đó xé cả bức tường mỏng manh ngăn dòng cảm xúc của người đọc, tất cả như vỡ òa. Người đọc thổn thức cùng bé Thu, thổn thức với tình cảm của bé. Tình cảm trong sáng, chân thành từ một đứa trẻ vô cùng yêu ba. Miêu tả những biến đổi tình cảm của bé Thu, tác giả đã một lần nữa tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy bé Thu bướng bỉnh, gan góc nhưng cũng giàu tình cảm. Những đau đớn thay, giây phút nhận ra ba lại là giây phút chia xa. Có lẽ cũng chính vì thế mà cô bé hiểu không còn nhiều thời gian bên ba nữa nên mới khóc nấc lên như vậy. Tình phụ tử trong giây phút này thật thiêng liêng biết bao nhiêu. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm đến tình cảm của bản thân với ba mẹ: “Liệu mình đã làm đủ tốt chưa? Mình có phải hối hận vì điều gì không?”

Tiếng “ba” này em đã ấp ủ lâu biết bao nhiêu, nuôi dưỡng nó lớn lên từng ngày, tiếng “ba” như “vỡ tung ra từ đáy lòng”. Tình cảm dồn nén biết bao năm nay vỡ tung qua tiếng gọi “ba”, qua hành động của bé: “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc”, em chạy thật nhanh vì sợ ba đi mất, người ba mà em đã chờ thật lâu chuẩn bị phải chia xa, chuẩn bị đi rồi. Nó hôn ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài trên má, cái vết thẹo mà trước kia nó thấy ghê sợ và xấu xí vô cùng. Đến bây giờ hiểu được vì sao ba có vết thẹo ấy, Thu thương ba lắm. Hành động của bé Thu như muốn xoa dịu đi nỗi đau đã gây ra cho ba. Em leo lên người ba, vòng tay qua cổ ba, ôm thật chặt rồi như sợ không giữ được ba, em còn giữ chặt bằng cả hai chân. Một suy nghĩ trẻ thơ đánh mạnh vào trái tim người đọc, em dùng tất cả sức mình để giữ chặt ba lại.

Những giọt nước mắt lăn trên má bé Thu. Em khóc vì thương cha, vì ân hận, vì đã không phải với người ba của mình, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại ba. Tất cả những hành động của bé Thu lúc này đều gấp gáp dồn dập chẳng muốn mất đi một điều gì. Tác giả tinh tế chỉ ra điểm đặc biệt, điểm nổi bật của tình cảm mà bé Thu dành cho ba: “Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Tóc tơ rất nhỏ, rất mảnh, mềm và thường khó thấy nhưng tác giả lại thấy nó như dựng đứng lên - sự run rẩy, sợ hãi của một đứa trẻ đến tột độ, đến ngay cả sợi tóc tơ dường như cũng có cảm xúc. Bên cạnh tình yêu thương ba thì cô bé còn có niềm tự hào vô bờ, niềm kiêu hãnh về một người cha chiến sĩ, người cha ấy đã hi sinh cả tuổi thanh xuân, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho độc lập dân tộc và giờ đây người cha ấy lại lên đường theo con đường vinh quang mà cả dân tộc đang đi. Tình yêu thương cha của bé Thu đã trao cho ông Sáu niềm tin, sức mạnh vượt qua mọi xa cách và gieo niềm hi vọng về ngày đoàn tụ.

Thu là một cô bé Nam Bộ ngây thơ hồn nhiên, trong sáng, cá tính mạnh mẽ. Vì đang ở độ tuổi hồn nhiên, trong sáng nên khi thấy anh Sáu không giống cha mình, em đã kiên quyết không nhận ba. “Ba không giống cái hình ba chụp với má”, “Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo trên mặt như vậy”. Nó không cho phép ai mạo nhận làm ba nó - một người ba đáng kính mà nó ngưỡng mộ xưa nay, phải là người ba trong bức hình chụp cùng với má. Bởi vậy, người đọc hoàn toàn có thể thông cảm trước sự ương bướng của bé Thu, và còn thương em thật nhiều. Một cô bé Nam Bộ có cá tính mạnh mẽ, là người yêu ghét rạch ròi, rõ ràng. Khi Thu chưa nhận cha, cô bé kiên quyết từ chối mọi sự quan tâm của ông Sáu. Khi được ông Sáu quan tâm trong bữa ăn giấc ngủ, thể hiện tình yêu thương nhưng Thu đã gạt phắt đi, thẳng tay chối bỏ những tình cảm của ba mình. Nhưng khi hiểu được ông Sáu là cha, Thu chủ động tìm về với cha, kiên trì chờ đợi, trực tiếp bộc lộ tình cảm mãnh liệt, sâu sắc.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc, từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nổ những yêu thương do bị dồn nén. Phải yêu trẻ con nhiều lắm, am hiểu tâm lí trẻ em nhiều lắm, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ thì tác giả Nguyễn Quang Sáng mới có thể làm nên tác phẩm thành công, ấn tượng với độc giả như vậy. Cùng với ngôn ngữ giản dị đậm chất Nam Bộ và tình huống bất ngờ hợp lí đã bộc lộ tình yêu thương tha thiết bé Thu dành cho ba của mình. Qua đó, đoạn trích cũng như tác phẩm đã thể hiện một cách chân thực và cảm động tình cảm yêu thương sâu nặng của hai cha con trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vì thế mà ta càng quý cuộc sống thanh bình của ngày hôm nay, quý tình cha cao thượng và vĩ đại. Mỗi người đều lưu giữ trong trái tim mình hình ảnh một người cha, hãy biết trân trọng tình yêu và sự hy sinh vô điều kiện mà cha đã dành cho ta. Vòng đời mới ngắn ngủi làm sao, đừng mãi sống ích kỷ, chỉ biết nhận tình cảm thương yêu từ cha mẹ mà chẳng bao giờ đền đáp lại. Nếu bạn còn cha và một người cha đúng nghĩa thì hãy cảm ơn thượng đế vì bạn đã được sinh ra trong cuộc sống này.

Phân tích nhân vật bé Thu mẫu số 5

Benjamin Franklin từng cho rằng: “Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó”. Cái giá của chiến tranh không chỉ đắt đỏ và dã man khi nó xảy ra, mà hậu quả của nó là vết thương rỉ máu hàng thập kỉ sau đó nữa. Và có lẽ một trong những nhân vật khắc họa rõ nét vết thương, vết sẹo luôn bỏng rát của chiến tranh là nhân vật bé Thu trong tác phẩm truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966.

Không lựa chọn chất liệu là sự kịch liệt, đẫm máu trên chiến trường miền Nam như nhiều tác phẩm khác, Nguyễn Quang Sáng khai thác một khía cạnh khác của chiến tranh, một nỗi niềm tang thương cá nhân khác của những người nơi hậu phương, chưa một lần được trọn vẹn bên người cha, người chồng hay người con của mình. Bé Thu là nhân vật đại diện cho sự mất mát, thiếu thốn ấy. Khi bé Thu chỉ vừa mới một tuổi, ba em - ông Sáu đã phải đi kháng chiến và xa nhà. Đây là hoàn cảnh chung của hầu hết gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến, có lẽ họ không chỉ tiễn người thân mình đi một hai lần mà là rất nhiều lần, từ người nọ đến người kia. Dù vậy, già trẻ gái trai, mặc kệ, họ đều quyết tâm ra đi để tìm được cống hiến cho tổ quốc thân thương, như Tố Hữu đã từng ca ngợi tinh thần ấy:

“Lớp cha trước lớp con sau

Đã thành đồng chí chung câu quân hành”

Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi người ba của mình, nhưng đủ để chiến tranh tàn phá hình dáng một con người. Ông Sáu trở về thăm gia đình, nhưng gương mặt ông giờ đây đã mang theo một vết thẹo khiến bé Thu có những phản ứng làm cho cả ông lẫn người đọc cảm thấy hụt hẫng, bất ngờ. Trước tiếng gọi đầy thân thương mà gan ruột từ xa của ông Sáu “Thu! Con”, bé Thu “tròn mắt ngơ ngác nhìn lạ lùng”. Chỉ một ánh mắt, một cử chỉ cũng đủ để thấy sự xa cách giữa người và người, mà có lẽ ta phải dùng đến từ “người dưng” mà Nguyễn Duy đã dùng trong “Ánh trăng”. Khi ông Sáu đưa tay về phía nó, nói liên tiếp: “Ba đây con! Ba đây con!” thì nó lại có một phản ứng vô cùng quyết liệt “mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Từ đó tạo nên hai luồng tâm lý đối lập nhau gay gắt giữa ông Sáu và bé Thu, một bên là sự vồ vập, cuống quýt của một người ba vì đã ngóng chờ con bao lâu nay, còn một bên là sự đáp trả thờ ơ, lạnh lùng, hoảng sợ của bé Thu, cốt bởi tình yêu dành cho người “ba” của nó quá to lớn. Đây chính là khởi đầu éo le dẫn đến mâu thuẫn phức tạp giữa hai cha con.

Sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu thể hiện rõ rệt trong ba ngày nghỉ phép của ông Sáu ở nhà. Mặc cho ông muốn lại gần con bé bao nhiêu, nó lại càng đẩy ông ra xa, nhất quyết không chịu gọi ông là “ba”. Nó luôn tìm cách nói trổng hoặc gọi ông là “người ta”. Thử thách lớn nhất là khi nó phải chắt nước ra khỏi nồi cơm to đang sôi, nó “nhăn nhó”, “luýnh quýnh”, “loay hoay”, tâm lý bối rối của một đứa trẻ tám tuổi hiện lên rõ mồn một. Một là nó phải chịu khuất phục và gọi ông Sáu là “ba” để được giúp đỡ, hai là nó phải tìm cách làm một mình, sẽ rất khó khăn và nguy hiểm. Chao ôi, trên đời làm gì có ai thích chọn những thứ trắc trở hơn những thứ đơn giản, dễ dàng, trừ khi họ có thứ quý giá hơn cần phải bảo vệ, không thể đánh đổi. Và với bé Thu, một cô bé mới tám tuổi, tiếng “ba” nó cất giữ trân trọng ấy là điều đắt giá nó không thể tùy tiện gọi một người lạ chỉ đột nhiên xuất hiện trong đời nó. Nó càng yêu “người ba” của nó bấy nhiêu, thì nó càng ngang ngược, lạnh nhạt với người ba thực sự đang ở trước nó bấy nhiêu. Vì yêu, vì kính trọng nên càng không thể đem ra để đối lấy sự giúp đỡ. Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng liêng ấy cho người ba thực sự mà nó được biết tới. Dù biết sẽ nguy hiểm, sẽ khó khăn, nó vẫn dùng cái vá để múc từng vá nước ra ngoài. Sự kiên quyết, thông minh của nó cũng khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàng.

Không chỉ không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi “ba” mà nó còn một mực cứng rắn, không tiếp nhận tình cảm ông dành cho nó. Trong bữa cơm cuối cùng với ông Sáu, bữa cơm mà nó có lẽ sẽ hối hận suốt đời, ông Sáu âu yếm thể hiện tình cảm của mình bằng cách “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó”. Nó đã phản ứng mạnh mẽ có phần thái quá, nó lấy cái đũa hết cái trứng ra khỏi chén làm cơm văng tung tóe cả mâm. Hành động ấy như thách thức giới hạn của ông Sáu - người vốn vì thương con nên đã rất bao dung, nhẫn nại và cả người đọc. Nhưng nếu đã đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào vị trí của một cô bé tám tuổi, ta mới có thể mở lòng và cảm thông được cho hành động này. Cách biểu hiện tình cảm và bảo vệ hình tượng người cha trong lòng của bé Thu chỉ thật bộc trực, trực tiếp, thậm chí là hồn nhiên đến mức đáng giận. Đối với cô bé, sự xuất hiện của ông Sáu như đang đe dọa đến hình tượng của người ba trong bức ảnh mà cô bé vẫn luôn ấp ủ trong lòng bấy lâu, một đứa trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích nghi với những thay đổi bất thường lớn như thế trong cuộc đời chúng? Càng giữ khoảng cách với ông Sáu tức là càng giữ được nguyên vẹn hình ảnh người cha trong tâm trí nó, và đó cũng là cách duy nhất. Sự cương quyết, dữ dội kia thực chất chỉ là hình hài khác của một tình yêu cha vô cùng mãnh liệt.

Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ của cô giao liên trong tương lai. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân dung của một cô bé tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng, chân thành dành cho ba mình một cách vô cùng đặc biệt, độc đáo. Ở bé Thu, người ta nhìn thấy bóng dáng của Việt trong “Những đứa trẻ trong gia đình” hay Tnú trong “Rừng Xà Nu”. Nó tạo nên một vẻ đẹp kiên cường, gan góc của thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp “Đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!” mà Đặng Thùy Trâm đã viết trong nhật ký của mình: “Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình”. Hay như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi”:

“Đất Nước Của những người con gái con trai Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép Xa nhau không hề rơi nước mắt Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”

Người đọc chỉ thực sự thấm thía tình cảm ẩn sau sự xù xì của bé Thu dành cho ba khi nó được bà giải thích về sự thay đổi của ba mình do chiến tranh. Vết thẹo đã khiến bé Thu không thể nhận ra người ba trên tấm ảnh chính là ông Sáu. Chi tiết vết thẹo cũng mang tính mấu chốt như chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ. Vì vết thẹo mà nó không nhận ra người ba đáng kính mà nó hằng khao khát được đoàn tụ. Đêm hôm ấy, cái đêm được nghe bà gỡ rối, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Tình cảm trong nó dành cho ông Sáu được nhen lên mạnh mẽ, nó cũng biết ăn năn, day dứt, hỗn loạn trong đó là tình yêu to lớn nó dành cho ba và sự ngưỡng mộ.

Sáng hôm sau, lẫn lộn với niềm vui nhận ra ba là sự tủi thân dâng trào cùng nỗi buồn xa xôi của nó trong ngày ông Sáu phải trở về chiến trường. Bởi những phản ứng quyết liệt trước đây mà giờ đây nó ngại ngần, xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa nhìn mọi người vây xung quanh ba nó. Mọi thứ nhanh và dào dạt đến độ nó chưa kịp cảm thấy tiếc nuối vì đã bỏ lỡ khoảng thời gian vốn đã ngắn ngủi với ba nó thì còn lại đã chỉ là một mảnh hỗn loạn bị bác Ba bắt gặp qua đôi mắt của nó: “Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.” Từ “xôn xao” vốn là từ tượng thanh nay được nhà văn tinh tế dùng để miêu tả khoảng không gian bất tận trong đôi mắt của bé Thu. Nó bao la, lạc lõng và lẻ loi kì lạ so với một đứa trẻ mới chỉ tám tuổi. Có lẽ đó là nỗi niềm nó tích tụ trong tám năm thiếu vắng hình bóng người cha mà mình con bé không tài nào che giấu nổi nữa. Thế nên nó vỡ òa.

Tiếng gọi “ba” xé toạc thinh không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng, xấu hổ mà con bé ngần ngừ trước đó. Tiếng gọi ấy tưởng chừng rất quen thuộc, gần gũi, có khi là lời nói đầu tiên của con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé Thu nó lại là âm thanh đã phải dồn nén bao lâu nay, chứa chan biết bao nhớ nhung mong đợi dồn cả vào tiếng “ba” ấy. Nhưng cũng chính vì thế mà tiếng gọi “ba” ấy trở nên thiêng liêng và đong đầy cảm xúc hơn bao giờ hết. “Nó nhanh như một con sóc chạy tót lên và dang hai tay ôm cổ ba nó. Nó vừa ôm vừa nói trong tiếng khóc:

- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”

Rồi nó hôn ba nó: hôn tóc, hôn vai, hôn cả lên vết thẹo dài. Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha con nó, giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường của cha nó, như một huy chương cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha con bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa, chẳng biết bao giờ mới quay trở lại. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt trong những ngày qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí là lần cuối bé Thu được gặp ông Sáu. Những cái hẹn trở về không rõ ngày nhưng người ta vẫn nguyện chờ mong, hi vọng vì đó là cách duy nhất thắp lên ánh sáng và chỉ có thế ngày hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại cảnh đoàn tụ xúc động của bé Hồng với mẹ mình trong văn bản “Trong lòng mẹ”. Sau cuộc chia tay ấy, đáng trân trọng hơn cả là khi bé Thu đã noi gương theo người cha đáng kính, trở thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp những trang sử vẻ vang, vàng son của Việt Nam. Sự kế thừa ấy đã được đã được Hoàng Trung Thông kết tinh thành những câu thơ:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”

Giây phút chia tay trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của hai cha con ông Sáu và bé Thu tuy ngắn ngủi nhưng đã phản ánh được tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cũng như cách nhà thơ Trần Đăng Khoa nhắc đến ông là hoàn toàn đúng đắn: “Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao, tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó của một người nông dân Nam Bộ ngang tàng, coi những chuyện nguy hiểm chết người cũng bông phèng như trò chơi con trẻ, có thể chống xuồng lao ve vé giữa lúc bom đạn đang vây bủa mù mịt, cũng có thể ngồi thì lì trong một cái quán rượu tạm bợ, dựng tồng tềnh bên vệ cỏ, ngoảnh ra phía sông nước mà nhậu lai rai, nhậu tối ngày. Con người ấy hình như vừa đơn giản, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên nhiên Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương ngạnh như vách đá.” Bằng chất văn mộc mạc, thân thương, chân thực, ông đã “chạm tới những rung động vi nhiệm của tình yêu” và hơn hết, ông vẽ bức tranh về chiến tranh không phải bằng máu của những người lính ngã xuống mà bằng nước mắt của những người còn ở lại. Hình ảnh nhân vật bé Thu của ông như gói gọn cả quá khứ, hiện tại và thậm chí là tương lai của đất nước. Dù chiến tranh tàn phá rất nhiều thứ nhưng nó vĩnh viễn không thể tàn phá được trái tim con người.

(Tác giả: Việt Hà)

Phân tích nhân vật bé Thu khi chia tay cha mẫu số 6

Bên cạnh tình mẫu tử, tình phụ tử luôn là đề tài sâu sắc, không ngừng được luận bàn trong các tác phẩm văn học. Mỗi nhà văn lại có cho mình lối đi riêng, khai thác những khía cạnh khác nhau của đề tài muôn thuở này. Đặc biệt, nhà văn Nguyễn Quang Sáng lại khai thác về tình cảm cha con trong chiến tranh. Điều này được nhà văn thể hiện rõ nhất qua tác phẩm "Chiếc lược ngà". Truyện đã xây dựng thành công nhân vật bé Thu với những nét diễn biến tâm lí hết sức tinh tế, đặc biệt là trong giây phút chia tay cha.

“Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 - khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Truyện ngắn đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Ông Sáu ở chiến khu về thăm nhà với hy vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, hai cha con chưa hề gặp mặt. Mấy ngày đầu, do vết sẹo trên mặt ông Sáu khác với tấm hình chụp ở nhà nên bé Thu không nhận cha. Đến hôm ông Sáu phải lên đường, nghe bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu đã nhận ba của mình. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm cho con gái một chiếc lược chải tóc bằng ngà. Lúc hấp hối do bị trúng đạn máy bay Mĩ ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con.

Tác giả đã đặt nhân vật vào một hoàn cảnh ngặt nghèo nhất để bộc lộ tình yêu cha của mình. Đó là vào buổi sáng hôm sau, khi ông Sáu phải lên đường trở lại chiến trường cũng là lúc bé Thu nhận ra cha. Giây phút chia tay ấy chính là tình cảm trong bé trỗi dậy một cách thật mãnh liệt. Buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa của và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác. Bác Ba là người đầu tiên nhận ra những sự thay đổi trong tâm trạng của cô bé. Khi ông Sáu nói "Ba đi nghe con" thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba., a... a...ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở "Con không cho ba đi". Tiếng kêu như tiếng xé, rồi "nó vừa kêu vừa chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó". Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi… Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.

Xây dựng nhân vật bé Thu - một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu ba tha thiết cảm động - Nguyễn Quang Sáng đã có biệt tài trong miêu tả tâm lí nhân vật, đồng thời xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Qua đó khiến người đọc cảm động về tình cha con thắm thiết sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Phân tích nhân vật bé Thu mẫu số 7:

Có những trang viết khiến người đọc rơi nước mắt khi chứng kiến những dằng xé, đau đớn và cả nước mắt. Có những nhân vật dù chỉ được vẽ qua nét bút của tác giả nhưng có sức ám ảnh. Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một hình tượng luôn khiến người đọc xúc động mạnh khi lật giở từng trang viết của tác giả.

Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966, trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, nhiều cam go. Ông Sáu lên đường ra chiến trận khi bé Thu chưa tròn một tuổi, nhưng khi ông trở về thăm con thì bé đã lớn và nhất quyết không nhận ba. Những day dứt, sự dằng xé, nước mắt, tủi hờn, mâu thuẫn nội tâm trong một đứa bé đã khiến cho cốt truyện được đẩy đến cao trào. Ba ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không chịu nhận, chỉ khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên gương mặt ba thì lúc đó bé mới ôm chặt ông Sáu, không cho đi. Tình cảm cha con vỡ òa, cảm xúc trong lòng người đọc cứ thế tan chảy.

Mặc dù mới lên tám tuổi nhưng hình ảnh cô bé Thu được xây dựng rất sắc nét, cá tính mạnh, bướng bỉnh. Trong tâm trí của bé Thu chỉ có một tấm hình duy nhất của ba chụp với má vào ngày cưới. Đó là những gì nó có để gìn giữ và đợi chờ ba trở về. Khi ông Sáu nhất quyết gọi “Thu! Ba đây con” thì bé vẫn nhất quyết không chịu nhận, cự tuyệt một cách thẳng thừng. Ông Sáu luôn dành tình cảm yêu thương chân thành và sâu sắc nhất cho bé Thu nhưng ông nhận lại là sự lạnh lùng, xa lánh chỉ bởi vết thẹo dài trên mặt, chỉ vì chiến tranh, vì những tàn khốc mà nó đã gây ra.

Cá tính mạnh của một cô bé tám tuổi được Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất sắc nét và táo bạo. Qua đó giúp người đọc hình dung được sự kiên định, vững chắc trong trái tim con người Nam Bộ. Sự bướng bỉnh, lạnh lùng của bé Thu dành cho ông Sáu còn thể hiện qua cử chỉ và lời nói. Khi mẹ bảo mời ba vô ăn cơm thì nó chỉ nói cộc lốc “vô ăn cơm”. Đặc biệt qua chi tiết chắt nước ở nồi cơm ra, bé Thu không chắt được nhưng nhất quyết không để cho ông Sáu chắt.

Thái độ bướng bỉnh, lạnh lùng, hờ hững của bé đã khiến cho ông Sáu đau lòng. Cao trào của tính cách bé Thu thể hiện qua bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho bé Thu cái trứng cá vào bát, bé hất đổ cả chén cơm. Ông Sáu đánh đòn, và tất cả mọi người cứ tưởng Thu sẽ giãy nảy lên và bỏ đi, nhưng không, ”...nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”. Suy nghĩ đã thôi thúc, đẩy thành hành động quyết liệt, khước từ mọi tình cảm và yêu thương của ba dành cho mình. Vì với bé Thu, đó không phải là ba. Có lẽ chính cá tính mạnh, sự ngang bướng như thế này đã thôi thúc cô trở thành cô giao liên kiên cường trong cuộc kháng chiến về sau.

Nguyễn Quang Sáng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả tâm lí nhân vật của một đứa trẻ lên tám mà lấy tính cách đó làm tiền đề cho tình yêu thương ba tha thiết và mãnh liệt như thế nào. Suốt ba ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không nhận ba, chỉ đến khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên mặt ba do chiến tranh gây nên thì lúc đó bé mới vỡ òa. Gương mặt nó buồn rầu như nghĩ ngợi gì, khi ông Sáu lên đường ra trận, không dám lại gần vì sợ nó lại giãy nảy như lần trước. Chỉ dám nói rằng “Ba đi nghe con” nặng nề, đau đớn, dằn vặt của một người ba nhưng không làm cách nào để thuyết phục con gái.

Lúc ấy một cảnh tượng xúc động diễn ra. Nó khóc thét lên “ba”, tiếng “ba” như vỡ òa, trào ra từ tận trong tim mà nó đã dồn nén bao nhiêu năm qua. Tiếng “ba” đó như khiến người đọc nghẹn đắng ở cổ họng, cho một tình yêu bền bỉ và sâu nặng. Tiếng kêu của bé Thu như “tiếng xé, xé tan không khí tĩnh lặng, xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Bao nhiêu năm rồi, bé Thu vẫn luôn khát khao được gặp ba, được gọi tiếng ba. Tình cảm của bé Thu hoàn toàn đối lập với những ngày ông Sáu còn ở đây. Đó chính là niềm khao khát, tình yêu ba tha thiết.

Sự ngang tàng, bướng bỉnh và tình yêu ba tha thiết là đặc điểm hội tụ để bé Thu có thể xác định cho mình con đường đi trong tương lai, sẽ nối bước cha, đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Như vậy việc xây dựng nhân vật bé Thu với những tính cách, tâm tư tình cảm đã khiến người đọc thêm xúc động về tình phụ tử, tình cảm thiêng liêng nhất. Qua đó, tác giả còn muốn lên án, tố cáo chiến tranh đã khiến cho nhiều gia đình rơi vào cảnh nước mất nhà tan.

Có thể hữu ích hơn với bài văn của em nếu em hiểu rõ về tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà

Nghe bài văn phân tích nhân vật bé Thu hay nhất

Phân tích nhân vật bé Thu mẫu số 8:

Có thể nói được rằng chính tình cảm thiết tha, gắn bó - tình cảm gia đình được xem như là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến, đặc biệt là kháng chiến chống Mỹ. Minh chứng cho thấy trong những thời kỳ này có rất nhiều tác phẩm nổi danh đó chính là “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”,… Nhưng “Chiếc lược ngà” vẫn là một tác phẩm nổi trội hơn cả, làm lên sự thành công đó chính là nhân vật bé Thu.

Tác phẩm “Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 rồi được đưa vào tập truyện cùng tên của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện dường như cũng đã như được xây dựng trên một tình huống hiểu lầm đã có thể đạt được một hiệu quả nghệ thuật cao. Chính sự hiểu lầm như đã tạo nhiều bất ngờ cảm động. Đó là nhân vật anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi. Và dường như cũng từ đó hai ba con chưa hề gặp lại nhau, cho đến khi kháng chiến kết thúc thì lúc này đây anh trở về, nhưng đáng nói là cái đứa con gái tám tuổi không chịu nhận ba.

Ba ngày trở về dù tìm đủ mọi cách đi chăng nữa thì con bé vẫn không gọi cha. Cho đến ngày cuối cùng thì tình cha con mới mãnh liệt, bé Thu đã gọi ba và ôm chặt lấy cha không cho cha đi. Ông Sáu xúc động và trong những ngày chiến đấu ở chiến trường ông vẫn không nguôi nhớ về con và kỳ công làm cho con chiếc lược ngà đẹp. Và trớ trêu ông Sáu hi sinh khi vừa kịp dặn dò người đồng đội của mình đưa món quà - chiếc lược này cho bé Thu.

Người đọc quả không quên được bé Thu với tính cách bướng bỉnh, gan góc và rất có cá tính. Dường như chính trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà bé Thu đã được biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới. Nó dường như cứ nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba dù cả nhà - trong đó có bà nội - thừa nhận điều đó. Họ dường như cũng đã đón ông với tất cả tấm lòng chân thành, yêu thương của con người Nam Bộ. Và điều đó như chẳng những thế, ông còn vô cùng xúc động khi gặp nó.

Nhưng dường như ông đã bỏ qua tất cả, Thu vẫn hét lên sợ hãi khi ông Sáu lập cập đến với nó và lắp bắp gọi trìu mến rằng: “Thu! Ba đây con…”. Dường như ta thấy được có điều đó bởi Thu thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo đáng sợ kia trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má làm nó không nhận ba.

Không chỉ vậy, chính với việc mà đã qua nhiều chi tiết miêu tả hành động của bé Thu, Nguyễn Quang Sáng dường như cũng đã như vừa thể hiện được tính cách đặc biệt của cô bé vừa tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ. Đặc biệt hơn đó chính là khi mẹ yêu cầu “mời ba vô ăn cơm", Thu lúc này lại gọi "trổng": “vô ăn cơm”. Cho dù rằng là nồi cơm sôi, không tự chắt được nhưng bé Thu vẫn ương ngạnh nhất quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Tất cả những hành động của bé Thu như khước từ mọi sự quan tâm của ông Sáu, ông Sáu cũng rất buồn vì chỉ có 3 ngày ngắn ngủi muốn quan tâm con mà nó lại không nhận ba.

Có thể thấy được cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Cô dường như cũng đã nghĩ rằng “người ta” mang đến cho mình một người “ba giả"! Và chính vì thế, bé Thu lúc này dường như lại càng phản đối quyết liệt người “ba giả” ấy bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Người đọc như thấy được cái tình yêu ấy thật sâu sắc biết nhường nào. Bởi nó dường như cũng chỉ có một, mà dường như lại không thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó, hay đó cũng chính là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân thành.

Và đặc biệt hơn khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên điều này. Cho đến buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sẩm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn cùa nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.

Và quả thật bất ngờ khi không hiểu con bé “nghĩ ngợi sâu xa” điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó - không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước. Lúc này ông Sáu nói: “Ba đi nghe con” thì bé Thu bất ngờ lao đến thét lên một tiếng gọi như thật vỡ òa ra: Ba... a… a…ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở rằng “Con không cho ba đi”. Đến đây, quả thật rằng những người đọc chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào.

Có thể thấy được chính "tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa" đó dường như cũng chính là những tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay. Và đó cũng chính là những tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó dường như cũng đã chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó".

Bé Thu quả thật là một đứa trẻ giàu tình cảm. Nhưng cũng thật dễ hiểu vì nó yêu ba nên nó không chấp nhận một ai khác lại nhận làm ba nó. Nhất là khi người ba trong tâm trí nó là bức ảnh để lại, ba nó không có vết thẹo kia. Khi đã hiểu được mọi chuyện thì cảm xúc mới vỡ oà như vậy.

Có thể nhận thấy được chính trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng đó chính là chi tiết cái thẹo. Chính cái thẹo được đánh giá chính là một nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Cái thẹo dường như cũng chính là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Ta dường như có thể thấy được những sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Khi mà đã thấu hiểu sâu sắc điều đó, sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm cũng như cha của mình.

Quả thực nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong lòng người đọc chúng ta biết bao nhiêu là những ấn tượng sâu sắc bởi một tính cách đặc biệt khó có thể nhầm lẫn. Nhân vật này dường như cũng đã góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm. Và cũng chính vì vậy, cùng với tác phẩm, nhân vật bé Thu đã giành được một vị trí riêng trong lòng độc giả yêu truyện ngắn Việt Nam từ trước đến nay.

Có thể em quan tâm: Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)

Phân tích nhân vật bé Thu mẫu số 9:

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:

Thêm một người trái đất sẽ trật hơn

Nhưng thiếu mẹ thế giới đầy nước mắt".

Vượt qua khuôn khổ chật hẹp của câu chữ, câu thơ trên đề cao vai trò, ý nghĩa lớn lao của bậc sinh thành đối với con cái. Thật hạnh phúc biết bao với những ai sinh ra và lớn lên luôn có cha, có mẹ bên cạnh. Nhưng cũng thật bất hạnh biết bao khi ai đó sinh ra trên đời đã thiếu vắng tình cảm của mẹ cha. Và bé Thu trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một con người phải chịu cái cảnh bất hạnh như thế.

Bé Thu sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương bao bọc của mẹ nhưng lại thiếu đi bóng dáng của người cha. Bởi cha bé Thu - ông Sáu đi lính chiến đấu chống giặc, hai cha con chỉ giao tiếp với nhau, nhìn nhận nhau qua một tấm ảnh chụp. Và sau tám năm dòng xa cách, ông Sáu - cha của bé đi lính trở về khi hòa bình lập lại, niềm khát khao của người cha dâng đầy trong lòng ông, lòng nôn nóng vồ vập mong được gặp con và ôm con vào lòng.

Nhưng thật trớ trêu thay, bé Thu lại không nhận ông là cha và tỏ thái độ lảng tránh ông. Cảnh gặp gỡ diễn ra trong phút chốc nhưng cũng khiến người đọc không cầm được nước mắt. Đang chơi ở ngoài sân, từ phía xa xa, bỗng có người gọi tên mình, lại xưng là “ba”, Thu “giật mình tròn xoe mắt”. Nó ngơ ngác, lạnh lùng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên “má, má”. Phản ứng đó của bé Thu là phản ứng rất bình thường và hợp lí. Bởi trước mắt bé bây giờ là hai người đàn ông hoàn toàn xa lạ.

Từ khi mới lọt lòng, bé chưa hề biết mặt cha ngoài đời ra sao, tình cảm cha con chỉ được thông qua một tấm ảnh chụp với má nó, nay bỗng có người có một vết sẹo dài trên mặt lại giần giật đỏ ửng lên trông thật dễ sợ (khác với ảnh chụp chung với má) lại xưng “ba”, gọi mình là "con” nên phản ứng của bé chạy vụt đi và thất thanh gọi mẹ là điều rất dễ thông cảm.

Chẳng phải người lớn vẫn dặn dò con trẻ, không được nghe theo lời người lạ, bởi đó là những ông ba bị chuyên đi lừa và bắt cóc trẻ con hay sao? Vì thế phản ứng của bé Thu là một thái độ vô cùng chân thực của một đứa trẻ ngây thơ, bé bỏng.

Ba ngày được nghỉ phép ở nhà, ông Sáu dồn hết tình cảm của người cha cho bé Thu. Ông tìm mọi cách để vỗ về, chiều chuộng con chỉ để nghe một tiếng gọi “ba” của con bé. Nhưng ông càng gần con, bé Thu lại càng xa lánh, thậm chí là phản ứng quyết liệt.

Khi mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm hay chắt nước nồi cơm to đang sôi sùng sục trên bếp, bé chỉ nói trổng, nói trống không. Khi ông Sáu gắp cái miếng trứng cá vào chén của bé thì bé lấy đũa soi soi vào chén rồi bất thần hất miếng trứng cá ra ngoài, làm cơm bắn tung tóe ra cả mâm. Bị cha đánh đòn, bé không khóc mà chạy sang nhà ngoại, cố ý khua dây cột xuồng cho thật to.

Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba - người ngoài cuộc cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được tức giận nên đánh và quát con “Sao mày cứng đầu quá vậy?”. Tuy nhiên, thái độ của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Bởi đơn giản là vì bé thấy người cha của hiện tại trước mắt khác với tấm hình chụp chung với má của bé quá.

Vả lại Thu còn quá bé bỏng để có thể thấu hiểu được sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh và người lớn cũng chưa kịp giải thích cho bé hiểu nên bé không tin là người có vết sẹo trên mặt kia là ba của mình. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ tình cảm sâu sắc của bé dành cho ba. Bé chỉ yêu, chỉ nhận ba khi biết chính xác đó là ba của bé mà thôi.

Trong đêm bỏ sang nhà ngoại, Thu được bà giải thích về vết sẹo dài trên má của ba đã làm thay đổi cả khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ được giải tỏa, con bé nằm im nghe bà kể rồi “thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế, suốt cả một đêm bé không ngủ được, có lẽ vì cảm thấy ân hận và nuối tiếc đã đối xử không tốt với cha mình. Buổi sáng chia tay ấy, trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé khác hoàn toàn mọi khi: “nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”.

Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”, “tình cảm cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Sự khao khát tình cảm cha bị kìm nén suốt mấy năm, nay bỗng bật lên xé tan cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, “nghe thật xót xa”. Thế rồi, nó vừa kêu, vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, “nó chạy thót lên và dang hai tay ôm lấy cổ ba nó”. Sự xúc động ngẹn ngào đã khiến “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”.

Nó hôn khắp người ông Sáu, “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Sợ cha đi mất, “chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân câu lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “Không!”. Vừa khóc vừa không cho cha đi. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của tình cha con ấm áp, của sự hạnh phúc vỡ òa khi nhận ra cha sau tám năm xa cách, lại vừa xen lẫn cả sự ăn năn, hối hận vì không kịp nhận ra cha sớm hơn chút nữa…

Chứng kiến cảnh ngộ ấy, có người đã không cầm được nước mắt, còn bác Ba thì cảm thấy như có bàn tay nắm lấy trái tim mình mà bóp thắt lại… Qua thái độ và hành động của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha mình, người đọc thấy được đằng sau sự hồn nhiên, ngây thơ và cứng đầu, bướng bỉnh của bé là tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt, thiêng liêng. Đồng thời, người đọc cũng thấy được Nguyễn Quang Sáng là nhà văn rất am hiểu tâm lí và yêu thích trẻ thơ nên mới có những trang văn thật sinh động và cảm động về tình cha con đến như vậy!

Tóm lại, qua việc phân tích nhân vật bé Thu, chúng ta thấy thật sự thấm thía, xót xa và cảm động trước tình cảm cha con họ dành cho nhau. Dù khoảng cách của chiến tranh, của không gian và thời gian sau tám năm ròng xa cách vẫn không thể nào giết chết được tình cảm mà cha con họ hướng về nhau, để rồi khi gặp gỡ, tình cảm bất tử thiêng liêng ấy trỗi dậy mạnh mẽ, khiến người đọc cũng phải cảm động mà rơi nước mắt. Chẳng thế mà, trước khi ông Sáu hi sinh, dù không còn đủ sức trăng trối lại điều gì nhưng tình cảm cha con là không thể chết được, ông Sáu đã rút chiếc lược trong túi áo ra mà đưa cho ông Ba, như muốn nhắn nhủ lời gì đó mà ông không thể cất được thành lời.

Và sau ba năm ông Sáu mất, lúc này bé Thu đã trở thành cô giao liên xinh đẹp, dũng cảm, nhận được chiếc lược ngà mà ông Ba đưa cho, lòng cô không kìm được lòng mình. "Hai giọt lệ sắp rơi xuống bỗng vỡ ra tràn đầy qua đôi mắt". Và những giọt nước mắt ấy của Thu là giọt nước mắt cho tình phụ tử sâu nặng, bất biến, vĩnh hằng!.

» Xem thêm: Tình cảm của ông Sáu dành cho con trong truyện Chiếc lược ngà

Bài văn phân tích nhân vật bé Thu mẫu số 10

Nhà văn Nga Ai-ma-tôp có lần đã viết “không thể nói về chiến tranh một cách giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không phải là điều dễ dàng”. Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm trường kì của nhân dân Nam Bộ. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam bộ lại nhìn về hiện thực đau thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp.

Vượt lên những mất mát, đau thương của con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của hai cha con bé Thu - anh Sáu. Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu - bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam Bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm trong em được bà ngoại giải đáp.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”.

Trong ba ngày anh sau ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”.

Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình.

Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sau trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuồng cho thật to.

Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má. Người ba với gương mặt không có vết thẹo dài do tội ác của kẻ thù. Khi đã có hình ảnh người ba ấy, em ngây thơ và rất trẻ con cho rằng ba không thay đổi và mình không thể gọi ba với bất kì một người nào khác.

Thế nhưng, tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút anh Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”.

Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, chạy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình” vì nó khiến ta bồi hồi xúc động, không muốn cắt đi khoảnh khắc đẹp nhất của tình cha con trong bé Thu, anh Sáu.

Cả hai cha con anh đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút ngắn ngủi này. Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay.

Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.

Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của anh Sáu và bé Thu, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong cuộc đời mỗi con người. Đồng thời, quabé Thu và câu chuyện cảm động của cha con em, ta càng hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam bộ phải hứng chịu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Chính vì thế, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lí trẻ em mà còn mang giá trị nhân văn cao đẹp.

Có một nhà văn đã từng nói “không có gì nghệ thuật vươn tới hơn là tình yêu thương cao đẹp của con người”. Và thành công lớn nhất của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là ông đã đem đến cho ta cảm xúc mãnh liệt về tình người. Tình cha con thiêng liêng, bất tử sáng lên trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, khốc liệt.

Đoạn văn cảm nhận ngắn gọn về nhân vật bé Thu

Mẫu 1

"Chiếc lược ngà" là truyện ngắn cảm động viết về đề tình cảm gia đình trong chiến tranh. Truyện xoay quanh hai nhân vật là ông Sáu và bé Thu, qua đó làm nổi bật lên tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng. Bé Thu trong tác phẩm là một cô bé tầm bảy, tám tuổi, ba của Thu là ông Sáu đã "thoát ly kháng chiến" từ khi bé còn rất nhỏ. Bởi vậy, nghịch cảnh đã xảy ra, khi ông Sáu về thăm nhà, trái ngược với sự nôn nóng, hồ hởi của ông Sáu, bé Thu đã "giật mình, tròn mắt nhìn", sau đó sợ hãi mà chạy vụt đi khi có một người đàn ông lạ mặt nhận là ba mình. Bé Thu dành một tình thương đặc biệt cho ba của mình, cũng chính vì thương ba nên bé kiên quyết không chịu nhận ông Sáu - một người đàn ông hoàn toàn xa lạ trong nhận thức của bé là ba. Bởi trong nhận thức non nớt của bé, người đàn ông trước mặt không giống người ba chụp trong bức hình với má. Vết sẹo to, dài đáng sợ trên mặt ông Sáu càng khiến cho bé chắc chắn hơn về nhận định của mình. Trong những ngày ông Sáu nghỉ phép, dù ông Sáu cố gắng gần gũi, quan tâm thì bé Thu vẫn khước từ, không chịu nhận ba, bị đặt vào tình thế khó khăn thì bé cũng chỉ nói trổng, thậm chí Thu còn có hành động nông nổi, hỗn hào với ông Sáu: hất cái trứng mà ông Sáu gắp vào bát. Có thể thấy bé Thu là một cô bé bướng bỉnh, cá tính, có phần cố chấp. Thế nhưng, đằng sau thái độ bướng bỉnh có phần hỗn hào ấy là tình yêu cha tha thiết. Sau khi nghe bà ngoại giải thích về vết sẹo trên mặt ba, bé Thu đã hiểu ra tất cả. Trong giây phút chia tay, lần đầu Thu cất tiếng gọi ba, bé "hôn lên tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn lên vết sẹo dài trên má của ba". Trong giây phút này bé Thu đã hoàn toàn tháo xuống lớp vỏ bọc bướng bỉnh để trở về làm một cô con gái nhỏ yêu thương ba hết mực. Tình cảm của bé Thu dành cho ba trong truyện ngắn Chiếc lược ngà đã góp phần thể hiện những cảm xúc chân thực, thiêng liêng nhất cho tình phụ tử trong chiến tranh.

Mẫu 2

Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng Ba, hay khi hất cái trứng mà anh Sáu cho xuống, cuối cùng khi anh Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.

Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị anh Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người “cha chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy, không giống anh Sáu, không phải bởi thời gian đã làm anh Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt anh Sáu.

Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thế biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiêu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này.

Kiến thức mở rộng đề văn phân tích nhân vật bé Thu

Dưới đây là một số thông tin có thể sẽ hữu ích cho các em trong quá trình xây dựng nội dung cho bài phân tích của mình về nhân vật bé Thu:

1. Tóm tắt cốt truyện Chiếc lược ngà

Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến khi đứa con chưa đầy một tuổi nên sau tám năm trở về thăm nhà, con gái đã không chịu nhận anh. Anh háo hức bao nhiêu trong lần trở về này thì bé Thu càng cự tuyệt không nhận cha chỉ vì vết thẹo dài trên mặt. Bé Thu đối xử lạnh nhạt với ông sáu như một người xa lạ khiến cho ông Sáu rất buồn phiền. Sau khi nghe bà kể về nguyên nhân vết thẹo trên mặt của ba, bé Thu mới vỡ òa nhận ra.

Hôm sau ông Sáu ra chiến trường, bé Thu đã không cho ba đi, khăng khăng đòi giữ ba ở lại. Tình cảm cha con mãnh liệt bỗng nhiên trỗi dậy. Hai cha con ôm lấy nhau khóc nức nở. Ông Sáu đi hứa sẽ trở về và tặng cho bé một chiếc lược. Trong thời gian ở chiến trường, ông đã tỉ mỉ lấy vỏ đạn ra làm lược. Một chiếc lược có một vài răng do người ba tỉ mỉ, tẩn mẩn khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

Ông Sáu vẫn mong một ngày trở về tặng bé Thu chiếc lược. Nhưng chiến tranh khắc nghiệt, ông Sáu đã hi sinh và tâm nguyện chưa được hoàn thành. Ông Sáu gửi gắm chiếc lược cho anh Ba, gửi trao tận tay con gái anh chiếc lược đó.

2. Một số nhận định về nhân vật bé Thu và nhà văn Nguyễn Quang Sáng

  • "Nét nổi bật ở nhân vật bé Thu là tình yêu cha tha thiết, cảm động."
  • “Nhà văn sinh ra vốn được mặc định phải gánh trên vai rất nhiều trọng trách. Riêng ông Sáng chẳng chịu gánh cái gì nhưng mang lại một gánh sách cho đời, âu cũng là một trường hợp đặc biệt”.

(Nhà phê bình văn học Ngô Thảo)

  • "Nguyễn Quang Sáng có tài kể chuyện. Bằng một lối văn mộc mạc, anh cứ thủ thỉ kể hết cuộc tình này đến cuộc tình khác như một người nông dân Nam bộ kể chuyện đời xưa và chuyện tiếu lâm. Ấy vậy mà với những trang viết mộc mạc này, Nguyễn Quang Sáng đã chạm tới những rung động vi nhiệm của tình yêu."

(Phan Đắc Lập)

  • Tình phụ tử cao đẹp cứ truyền qua lồng ngực những người cha như một dòng máu bất tận. Và tình cha con cũng dào dạt muôn đời bất diệt trong lòng những đứa con. Tình người thiêng liêng ấy không kẻ thù nào có thể tiêu diệt được, trái lại, nó càng sáng đẹp hơn, bền bỉ hơn trong đạn bom tàn phá. Đó chẳng phải là điều sâu kín nhất mà truyện ngắn Chiếc lược ngà muốn gửi đến mỗi người đọc chúng ta hay sao?
  • Câu chuyện viết về tình cha con của những người kháng chiến, những người cách mạng. Nhưng đó cũng là tình phụ tử muôn đời.
  • Có nhận xét cho rằng Nguyễn Quang Sáng là người kể chuyện bẩm sinh. Điều đó là chính xác, bởi nhà văn là người biết nhiều chuyện, không chỉ hay chuyện, mà còn kể chuyện hay:… “người kể chuyện mộc mạc và inh tế những chuyện mình và chuyện đời”.

(Trịnh Công Sơn)

3. Mở bài hay về nhân vật bé Thu

+ Mở bài trực tiếp:

Chiếc lược ngà” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện cảm động về tình cảm cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Trong tác phẩm nổi bật hơn cả là bé Thu, nhân vật có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu thương cha tha thiết, mãnh liệt.

+ Mở bài gián tiếp:

Có một nhà văn đã nói rằng: "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ.

-/-

Trên đây là những thông tin hướng dẫn cơ bản cùng một số bài văn mẫu phân tích nhân vật bé Thu tuyển chọn do Đọc tài liệu sưu tầm. Mong rằng nội dung này sẽ hữu ích với các em để làm được một bài phân tích hay, đừng quên tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 9 khác để nâng cao kĩ năng làm văn. Chúc các em có kết quả học tập thật tốt!

Từ khóa » đặc điểm Nhân Vật Bé Thu Trong Chiếc Lược Ngà