Phân Tích Tác Phẩm Đôi Mắt Của Nhà Văn Nam Cao - Tài Liệu Text

Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Giáo án - Bài giảng
  4. >>
  5. Ngữ văn
Phân tích tác phẩm Đôi Mắt của nhà văn Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.93 KB, 7 trang )

A. CÂU HỎI: Chuyên đề 4: VĂN XUÔI KHÁNG PHÁPVấn đề 1: ĐÔI MẮT (Nam Cao)* Vầng trán em vương trời quê hươngMắt em vời vợi buồn Tây Phương …”(Quang Dũng)Câu 1: Lúc đầu, Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của mình là “Tiên sư thằngTào Tháo”, sau đổi là Đôi mắt. Căn cứ vào tác phẩm. Hãy giải thích tại sao Nam Cao lại đổitên tác phẩm như vậy? Ý nghĩa của tên truyện Đôi mắt ?* Gợi ý trả lời Lúc đầu, Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của mình là Tiên sư thằng TàoTháo, sau lại đổi thành Đôi mắt. Tác phẩm được kết thúc bằng tiếng chửi yêu, đầy thánphục của nhân vật Hoàng khi nghe vợ đọc Tam Quốc ở cái đoạn Tào Tháo đánh QuanCông: “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư thằng Tào Tháo!”. Lúc đầu có lẽ tác giả đặt tên truyện là Tiên sư thằng Tào Tháo là do ông nhận ra được cái độc đáo của câu kếtxuất thần này. Nhưng sau đó, khi đã ngẫm nghĩ lại, như chính Nam Cao viết trong nhật kí,ông “đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn hơn, Đôi mắt”. Như vậy cái tên Đôi mắtra đời sau sự nghiền ngẫm của nhà văn, vừa giản dị vừa sâu sắc, thể hiện được chủ đề củatác phẩm. Đôi mắt là vấn đề cách nhìn, vấn đề quan điểm. Nam Cao gọi đó là cách “nhìnđời và nhìn người”. Cách nhìn ấy được thể hiện một cách cụ thể và sinh động, đầy ám ảnhnghệ thuật trong tác phẩm. Đó là cách nhìn nhân dân lao động, chủ yếu là người nông dântrong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của một lớp trí thức vănnghệ sĩ.Câu 2: Những tác phẩm của Nam Cao thường được xem như là tuyên ngôn nghệthuật của tác giả? Chú thích thời kỳ sáng tác. (HS tự soạn).B. LÀM VĂN Đề 1: “… Đôi mắt của Nam Cao được coi như là bản Tuyên ngôn Nghệ Thuậtcủa thế hệ chúng tôi, hồi ấy…” (Tô Hoài). Phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhậnđịnh trên.* Gợi ý 1/ Đôi mắt thuộc số những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền văn xuôi Việt Namsau cách mạng tháng tám 1945.Đọc Đôi mắt, đầu tiên ta nhận ra một mảng hiện thực thời kì đầu của cuộc khángchiến gian khổ. Vẫn chưa thấy Nam Cao, đột phá qua lớp vỏ hiện thực, ta nhận ra tầngngầm tâm trạng của một thế hệ trí thức văn nghệ sĩ hồi ấy. Vẫn chưa thực sự thấy Nam Cao.Phải đào đến lớp thứ ba, ta mới bắt gặp tầng tư tưởng, tức là tầng ý nghĩa nhân sinh mà nhàvăn muốn gửi gắm trong tác phẩm. Ấy là vấn đề “đôi mắt”, vấn đề nhận đường, vấn đề xácđịnh cái nhìn đúng đối với nhân dân và kháng chiến. Nhà văn Tô Hoài nhận xét rất đúngrằng: “Đôi mắt là tuyên ngôn nghệ thuật chung của lớp văn nghệ sĩ lúc bấy giờ”.2/ Như vậy, Đôi mắt cơ bản là một tác phẩm luận đề, nó muốn đề xuất, tranh luậnmột vấn đề thuộc về cách nhìn, về lập trường quan điểm, về nhân sinh quan và thế giớiquan. Tính hấp dẫn của vấn đề mà Đôi mắt đặt ra đã hút nhiều cây bút phân tích tác phẩmnày lao vào cuộc luận chiến tư tưởng, say mê khai thác cái nhìn đúng của Độ, cái nhìn saicủa Hoàng, biết bài bình luận văn chương thành bài kiểm điểm tư cách công dân. Đúng làcó một nhà tư tưởng Nam Cao trong Đôi mắt – một nhà tư tưởng sâu sắc, không ồn ào mà thâm trầm ý nhị. Nhưng nhà tư tưởng Nam Cao đã giao hòa tuyệt diệu với nhà nghệ sĩ Nam Cao, tạo ra một nụ cười ẩn hiện khắp tác phẩm, một nụ cười trí tuệ thâm thuý, có sức hấpdẫn lớn đối với người đọc. Phải chăng đọc Đôi mắt là đọc được nụ cười rất Nam Cao ấy,đọc ra nhà tư tưởng trong nhà nghệ sĩ chứ không phải nhà nghệ sĩ trong nhà tư tưởng.Đầu tiên, hãy khảo sát nhân vật thành công nhất của Đôi mắt là văn sĩ Hoàng. Đọcluận đề Đôi mắt nên đọc từ hình tượng, qua hình tượng ấy, đồng thời nên thấy nụ cười Nam Cao ẩn hiện trong đó, người đọc sẽ thấy bao nhiêu là thú vị. Chẳng tình cờ chút nào khiNam Cao chọn điểm xuất phát cho câu chuyện về Hoàng lại bằng hình ảnh con chó Tâyhung hăng mở đầu tác phẩm. Một con chó cao lớn như con bê, rất hung tợn, đến mức mỗilần Độ đến chơi, mặc dù đã được anh Hoàng ra đứng tấn yểm trợ, Độ cũng chỉ đủ can đảmbước vội qua đằng sau cái đuôi nó để vào phòng khách. Độ phải thú thực: “Tôi rất sợ conchó giống Đức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi một lần đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứngtấn để giữ nó mà lại buồn rầu báo cho tôi biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc vớianh, thật tình tôi thấy nhẹ cả người”. Tại sao câu chuyện về Hoàng lại bắt đầu từ con chó? Phải chăng, trước hết, đó là chi tiết có khả năng đập mạnh vào ấn tượng của người đọc, tạosức cuốn hút ngay từ đầu. Song quan trọng hơn, Nam Cao muốn gián tiếp gợi ấn tượng hài hước và bao trùm về Hoàng (ông chủ con chó): phú quý – thời dân chết đói đầy đường mà Hoàng vẫn kiếm đủ mỗi ngày vài lạng thịt bò nuôi chó thì đâu phải loại người thường – và dữ dằn nữa. Liền sau hình ảnh chó dữ (đã chết) là chân dung biếm họa của Hoàng. Đây làloại chân dung dị dạng khôi hài rất sở trường của Nam Cao, khiến ông dựng Hoàng nổi hìnhnổi khối lên, cựa quậy rất kì thú: “Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thảbởi vì người to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khốithịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tun ngủn như ngắn quá. Đúng là một chân dung khiếnngười đọc phải nhờn ngấy lên. Nam Cao còn bổ sung vào đấy “một cái vành móng ngựaria” đặc thị dân. Chỉ mới xuất hiện, Hoàng đã hiện lên rất sống: đầy ứ sự no nê múp míp, sựnhàn hạ phong lưu, khiến anh ta trở nên rất chướng trong hoàn cảnh cả một dân tộc đanggian lao kháng chiến.Qua hồi tưởng của Độ, Nam Cao dùng phép đồng hiện làm hiện ra một Hoàng củaquá khứ, tạo thêm bề dày cho hình tượng. Hoàng vốn là kẻ đố kị, cơ hội, lật lọng, giả dối… Đặc biệt Hoàng có cái tật “đá bạn” một cách đột ngột, có lúc đã ra báo chửi bạn bè. Nam Cao không đao to búa lớn với Hoàng, như Hoàng đã từng đao to búa lớn bángbổ nông dân. Nhiều chỗ, ngòi bút của nhà văn rất kín, thoáng đọc chẳng thấy gì, nhưng càngngẫm càng thấy đầy thâm ý. Ví như đoạn tả Hoàng đón Độ. Thoạt nhìn thì có vẻ thân tình, nhìn kĩ thì hoá ra đóng kịch. Hoàng cầu kì, phức tạp, tạo dáng trong một hệ thống động tác,trau chuốt đến cả những cái chìa tay, hé miệng, rồi lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổhọng… Nam Cao đã “kịch hóa” hành động của nhân vật, bắt anh ta phải bộc lộ tân cùng sựgiả dối trong bản chất.Mà nào đã hết. Cái nghề của Hoàng cũng có một điều gì thật bất ổn: Hoàng là nhàvăn kiêm tay buôn chợ đen. Quả là một kết hợp cọc cạch, lạc điệu. Nhà văn hướng thiện,tay buôn hướng lợi. Ở Hoàng, nhà văn không lấn át được con buôn, mà ngược lại “con buônhóa”, nên Hoàng luôn so bì tính toán, sợ thiệt.Nhiều người đã cho rằng bản thân cách sống thanh lịch của Hoàng không có gì đángphê phán cả. Hoàng cũng không phải là phản động, là kẻ thù của kháng chiến. Vậy đánh giácách sống của Hoàng như thế nào? Phải đặt Hoàng vào hoàn cảnh cả dân tộc kháng chiến.Trong lúc mọi người quên cá nhân mình để sống và chiến đấu cho độc lập, tự do của tổquốc thì Hoàng lại chăm sóc cá nhân quá kĩ lưỡng: đi tản cư vẫn dùng thuốc lá thơm, và cònđủ thời gian tỉa tót vành ria mép… Đấy là lối sống kiểu cách, xa lạ, vô trách nhiệm, bộc lộbản chất ích kỉ của Hoàng.Cách sống ấy có nguyên nhân từ cách nhìn, nhìn lệch thì sống lệch. Cái nhìn củahoàng cũng không phải sai cả, nhưng cơ bản, Hoàng nhìn rất méo mó về nhân dân (đặc biệtlà nông dân), về kháng chiến. Người xưa nói: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.Nhưng Hoàng lại sống rất vô trách nhiệm, ngôi nhà luôn đóng kín cổng của anh như mộtbiểu tượng cho thái độ đứng ngoài cuộc, cho cái lạnh lẽo dửng dưng của kẻ đã khước từkháng chiến. Ấy thế mà Hoàng lại thích đứng ngoài để chửi đổng – chửi đổng nhân dân,chửi đổng kháng chiến. Hoàng sắc sảo đến hiếm có khi giễu cợt nhân dân: nào là chị dâu bịem đuổi ra vườn mà đẻ; nào là người nhà quê hay nhòm ngó, khách lạ vào làng thì đếmđược từng nốt ruồi trên mặt, từng lỗ rách ở ống quần bên trái; nào là người nhà quê thích xétgiấy, thích nói chuyện chính trị…, tóm lại là toàn những người “vừa ngố vừa nhặng xị”. Hoàng còn có tài bình luận bộc lộ thái độ đánh giá theo kiểu chê bai một cách nồng nhiệtđến trắng trợn. “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũianh nhăn lai như ngửi thấy mùi xác thối”. Đồng minh với thái độ độc ác này là vợ Hoàng.Cô ta nghe chồng kể, khoái trá tới mức cười rú lên, cười đến phát ho, đến chảy cả nướcmắt… Hoàng càng tỏ ra sắc sảo càng trở nên phiến diện. Độ nhận xét rất chính xác: cách nhìn đời, nhìn người của Hoàng là cách nhìn “một phía”,(mà lại là phía hiện tượng, phíabên ngoài), hoàn toàn mù mờ về bản chất tốt đẹp bên trong của những người nông dânkháng chiến, nên anh ta đã khinh bỉ họ đến tàn nhẫn, dẫn đến thái độ bi quan trước tiền đồcủa cuộc kháng chiến là một tất yếu. Chính Hoàng tự nhận: “Tôi bi lắm”. Bi vì không côngnhận vai trò lịch sử của nhân dân, Hoàng chỉ biết sùng bái cá nhân lãnh tụ. Mà Hoàng sùngbái Cụ Hồ một cách ngô nghê, nực cười, nhất là khi Hoàng tỏ ý thương cho Ông cụ: “Phảicứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông cụ lắm (…) dù dân mình có tồi đi nữa,Ông cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường”. Đây là cái nhìn của một con người bịcầm tù trong chủ nghĩa cá nhân, làm hỏng tư cách công dân lẫn tư cách nhà văn ở Hoàng.Nam Cao để Hoàng thả sức “chửi đổng” đối với cuộc kháng chiến, rồi bất ngờ lại để Hoàngsa vào cái bàn tổ tôm với bọn trí thức cặn bã ở Hà Nội thải về. Nam Cao còn để Hoàng than phiền rằng không có một cái bàn cho ra hồn để viết văn, và y ao ước sẽ viết về cái thời nàynhư Vũ Trọng Phụng từng viết Số đỏ . Lại một cơ hội để Nam Cao phơi bày không thươngtiếc cái nhìn hời hợt mà tàn nhẫn của Hoàng. Chao ơi! Chỉ có loại người như Hoàng mớidám táo tợn đánh đồng cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc với cái ô hợp, phi lí thời VũTrọng Phụng, đặt cuộc kháng chiến trong một cái nhìn giễu cợt. Đến đây thì toàn bộ bảnchất của Hoàng đã bị lột trần trước tiếng cười biếm hoạ sắc sảo, thâm thuý của Nam Cao.3/ Hoàng tràn ngập trong Đôi mắt, nhưng nói thế giới của Đôi mắt là thế giới củaHoàng thì lại không ổn. Vì cạnh Hoàng là Độ. Cuộc gặp gỡ giữa Hoàng và Độ là cuộc gặpgỡ của hai cái nhìn, hai cách sống trái ngược. Độ là một nhà văn cũ nhưng có cái nhìn mới,sống gắn bó với kháng chiến. Nếu Hoàng đầy ắp ngôn ngữ đến mức ngoa ngoắt thì Độ lạiđầy ắp suy tư. Hai nhân vật tương phản nhau gay gắt ở cả tính cách, cái nhìn lẫn bút phápmiêu tả của Nam Cao.Truyện còn có một chi tiết rất dí dỏm: Do Độ từng ngủ chung với công nhân xưởngin, nên khi nằm chung với Hoàng, Độ lo ngay ngáy mấy con rận trong bộ quần áo tây củamình “du lịch” sang cái chăn bông thoang thoảng mùi nước hoa của Hoàng. Một chi tiếtnhỏ mà đủ dựng lên thế đối lập hài hước giữa hai cách sống: Chiếc chăn bông thơm nức sựsang trọng là chân dung của một lối sống xa hoa lạc lõng, còn bộ quần áo tây có “cái giốngkí sinh trùng hay phản chủ ấy” lại tiêu biểu cho lối sống gắn bó với nhân dân kháng chiếnđang lam lũ trong cuộc đấu tranh sinh tử.Nhưng phép tương phản của Nam Cao chỉ tỏ ra sâu sắc nhất là lúc nhà văn đặt Độ vàHoàng cùng đứng trước một tình thế: anh nông dân đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn”. Đâylà phép thử quan trọng nhằm phân biệt triệt để hai con người rất khác nhau này. Điều gì đãxảy ra? Hoàng nồng nhiệt phì ra bao nhiêu khinh bỉ cùng những triết lí tăm tối, trong lúc Độchỉ lặng lẽ hạ một nhận xét ngắn: “Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “bagiai đoạn” nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quânthù”. Nhận xét này vạch rõ sự khác biệt giữa hai kiểu tư duy: Hoàng thiên về cái nhìn bềngoài nên hời hợt, bi quan, tàn nhẫn; Độ hướng cái nhìn vào bản chất, mục đích nên thôngcảm, tin yêu nhân dân. Cái nhìn của Độ thể hiện một quá trình phát triển, từ phiến diện đếntoàn diện. Độ bộc lộ chân thành: trước cũng nghi ngờ sức mạnh của quần chúng, nay đãthấy những anh “răng đen mắt toét”, “gọi lựu đạn là nựu đạn” mà “lúc ra trận thì xungphong can đảm lắm”. Miêu tả quá trình chuyển hoá của Độ, ngòi bút Nam Cao tăng thêm sức mạnh chân thực, giàu thuyết phục. Độ cũng thuộc lớp nhà văn cũ đi theo kháng chiến,kịp rũ bỏ tư tưởng lạc hậu để có đôi mắt mới, tình cảm mới. Nhìn đời, nhìn người đúng. Độđã biết hòa nhập với kháng chiến, với nhân dân. Sự đối lập giữa Độ và Hoàng là sự đối lậpgiữa cái mới và cái cũ. Miêu tả sự đối lập đó, tác giả Nam Cao nhằm tăng sức phê phán cáicũ, khẳng định cái mới.4/ Đúng như Tô Hoài đánh giá, Đôi mắt là một bản tuyên ngôn nghệ thuật. Đại hộivăn hóa toàn quốc năm 1948 kêu gọi trí thức và văn nghệ sĩ “Kháng chiến hóa văn hóa, vănhóa hóa kháng chiến”. Nhạy cảm với phương hướng đó, Đôi mắt trở thành tuyên ngôn vềcái nhìn tin yêu đối với nhân dân và thời đại, tuyên ngôn về chỗ đứng của nhà văn trongkháng chiến: Hãy biết tin vào sức mạnh nhân dân, hãy biết đứng vào hàng ngũ của họ, đemtài năng dâng hiến cho sự nghiệp cách mạng. Đi mắt còn là tuyên ngôn về một quan điểmmĩ học mới: cái đẹp thuộc về nhân dân, nhân dân là nhân vật trung tâm, là nguồn cảm hứnglớn của nền văn nghệ mới. Đây là vấn đề sinh tử, là chân lí muôn đời của nghệ thuật. Mộtnền nghệ thuật đánh mất nhân dân là một nền nghệ thuật tự diệt.Đặt trong thế giới nhân vật trí thức khá đông đúc của Nam Cao (như Hộ trongtruyện ngắn Đời thừa, Điền trong truyện ngắn Trăng sáng, Hài trong truyện ngắn Mua nhà,Thứ, Đích, San … trong tiểu thuyết Sống mòn…), nhân vật Độ và Hoàng thể hiện tài nghệxuất sắc của Nam Cao trong việc miêu tả nhân vật. Nhân vật của ông sâu sắc về tư tưởngmà không khô khan trong khái niệm, vừa giàu cá tính mà vẫn rất khái quát, có thể từ trang sách bước ra cuộc đời. Ở hình tượng nhân vật Hoàng, ông đã phối hợp miêu tả được cả chân dung, hành vi với ngôn ngữ, giọng điệu rất nhuần nhuyễn khiến Hoàng như con người cóthật, rất thật, đang hung hăng cười nói, tức giận, sùi cả bọt mép trước mắt ta. Ví như cách Nam Cao kết thúc thiên truyện bằng cái vỗ đùi đắc ý và lời khen Tào Tháo của Hoàng – mộtchi tiết thật tài năng, lột tả cảm xúc hết mình của Hoàng với một thế giới xưa cũ trong sách,trong khi rất thờ ơ với cuộc đời kề cận. Đó là một niềm vui lạc lõng như thứ quả trái mùacủa đôi mắt nhìn đời, nhìn người lệch về một phía. Tài năng của Nam Cao chính là ở sự kếthợp sâu sắc giữa tính tư tưởng đầy sức khái quát với tính hình tượng cực kì sinh động này.Đề 2: Phân tích văn sĩ Hoàng trong “Đôi mắt” của Nam Cao để làm sáng tỏ chủđề tác phẩm.* Gợi ý Ta đã từng tiếp xúc với những Điền, những Hộ, với một Chí Phèo, một Lão Hạc củaNam Cao trong những sáng tác trước cách mạng! Ta đã bắt gặp được ở đó những người dân quê lam lũ nghèo nàn, sớm tối quần quật với cây cày lưỡi cuốc, bị biến chất bởi xã hội đentối xấu xa. Ta đã nhìn thấy và thông cảm đớn đau cùng với nỗi bi kịch tinh thần đang chấtchứa, xâu xé tâm hồn của những người trí thức nghèo trong xã hội. Những con người ấydường như đã được tập hợp lại để trở thành một hệ thống nhân vật trong truyện ngắn củaNam Cao!Sau cách mạng một thời gian, ta lại được tiếp xúc với những tác phẩm mới của ông.Và, ta chợt ngỡ ngàng và không nén nổi cái thú vị trước một hình tượng nhân vật mới củaNam Cao! Đó là Hoàng trong Đôi mắt.Ở đây, nhân vật trung gian được phản ánh qua câu chuyện cũng là một trong nhữngnhân vật nằm trong hệ thống quen thuộc của Nam Cao. Hoàng được giới thiệu với chúng tacùng dưới tư cách là một nhà văn, nghĩa là cũng sử dụng ngòi bút để làm một cái nghề cao quý. Nhưng có lẽ không hoàn toàn là một nhân vật Điền luôn đớn đau day dứt trong Trăngsáng những ngày xưa. Ở đây Hoàng hiện lên với hình ảnh của một nhà văn có tư cách củamột con buôn giữa chợ đen. Cũng sử dụng ngòi bút, nhưng Hoàng chưa một lần phải bănkhoăn day dứt, phải tự đối diện và suy ngẫm cùng chính bản thân mình về thiên chức củamột nhà văn, chưa một lần nào Hoàng dằn vặt đớn đau với những “dòng văn chương viết dễdãi, cẩu thả và vô nghĩa lí”. Nói chung hơn là chưa bao giờ Hoàng tự nghĩ về trách nhiệmxã hội của mình đối với nghề văn. Trong Hoàng, dường như cái ý nghĩ “Là nhà văn thìtrong suốt cuộc đời không thể cho phép mình sống thờ ơ, ích kỉ” đã chưa từng tồn tại,Hoàng sống giữa cuộc đời, cũng tính toán suy tư, nhưng đó lại là những “suy tư” làm sao đểcó thể được an nhàn hưởng thụ. Hoàng chấp nhận và ca tụng một lối sống ích kỉ, chỉ biết lo và nghĩ đến bản thân mình. Hoàng sẵn sàng đặt lợi ích của cá nhân lên trên tất cả.“Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (Mác), một cuộc sống có ý nghĩaphải là cuộc sống có cho và có nhận. Anh phải sống vì anh và vì cả mọi người. Thực ra, nếusuy xét cho đến tận cùng, thì việc đem lại hạnh phúc cho người khác cũng chính là đem hạnh phúc cho chính bản thân mình, và hơn nữa, đó có thể được coi như là một nhiệm vụcần phải được làm ở mỗi người:“Nếu là con chim, chiếc láThì con chim phải hót, chiếc lá phải xanhLẽ nào vay mà không có trảSống là cho đâu phải nhận riêng mình”Trong Đôi mắt, thông qua nhân vật Hoàng, Nam Cao đã nêu bật lên một vấn đề có ýnghĩa vĩnh cữu. Nó day dứt những người làm nghệ thuật. Bất kì một nhà văn nào mà lạikhông cần đến “đôi mắt”và cái nhìn đứng đắn để khám phá và sáng tạo thực tại. Nhưng,nếu có một “đôi mắt” như Hoàng thì không nên có và quả thực không cần phải có nhất là cho những người làm nghệ thuật! Với đôi mắt ấy, Hoàng dường như đã bị “mù” trước thờiđại. Những người kháng chiến trí thức nhập cuộc sẵn sàng “chiến trường đi chẳng tiếc đờixanh”, hay như trong lời một bài hát “Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi , nào có sá chi đếnngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết không lui”, nhưng với Hoàng,thì người nông dân, lực lượng chủ yếu của kháng chiến chỉ là một lũ “đần độn, lỗ mãng, íchkỉ tham lam, bần tiện cả”! Anh nhìn họ với đôi mắt “thiếu tình thương, thiếu trân trọng”.Những gì mà anh nói với họ không phải là không có cơ sở, tuy nhiên nói theo Nam Cao là “chỉ nhìn thấy cái ngố bên ngoài mà không thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong”.Chính vì “vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn”, nên nếu nhìn càng nhiều, càng quan sát lắm thì chỉcàng thêm”chua chát và chán nản”mà thôi. Hoàng nhìn cuộc kháng chiến một cách biquan, dù có được một chút thán phục người lãnh tụ. Nhưng nếu xét kĩ thì cái “chút xíu” tintưởng ấy là xuất phát từ cái nhìn duy tâm, do sự sùng bái cá nhân. Chỉ thán phục có “ôngcụ” như đã từng đắc ý với Tào Tháo. Hoàng đã thực sự sống xa rời quần chúng, chính vìvậy nên anh đánh giá không hết những khả năng của họ.Đối với Độ, một con người sống gần gũi, hòa nhập với sinh hoạt và gắn bó với quầnchúng lao động thì lại bị Hoàng cho là “làm một anh tuyên truyền nhãi nhép”. Độ nhìnngười nông dân với cái nhìn “người nông dân nước mình vẫn còn có thể làm cách mạng màlàm cách mạng thì hăng hái lắm, và can đảm lắm”, anh nhìn họ bằng cái nhìn đầy nâng niuvà trìu mến khác hẳn với Hoàng là khinh khi miệt thị họ, phần đông họ “dốt nát, nheonhếch, nhát sợ, chịu nhục một cách đáng thương”. Hoàng không như Độ có thể cảm thôngtrước những tật xấu của người nông dân, để hiểu được họ và đánh giá đúng mức sự đónggóp của họ vào kháng chiến. Sống cuộc sống trưởng giả sang giàu nên Hoàng không thể từbỏ nó để hòa mình vào bầu không khí chung của dân tộc. Anh đứng bên lề cuộc chiến, nhìnđời bằng đôi mắt thiển cận, thản nhiên với tình cảnh dầu sôi lửa bỏng, vô tình với cái vậnmệnh đang “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước nhân dân. Trong cảnh tản cư mà Hoàngvẫn thuê được một căn nhà khang trang với “cái sàn gạch” đàng hoàng, vẫn “nuôi chóTây” và “màn chăn rắc nước hoa sực nức” và cả cái thú vui yên bình đêm đêm nằm đọctruyện Tam Quốc. Dĩ nhiên sống giàu sang, ung dung thư thái như thế thì không có hại cho ai, và nếu nhìn kĩ thì đó chính là cách sống của những người có văn hóa cần đáng được biểudương và ca tụng. Nhưng điều đáng nói ở đây là tình cảnh đất nước đang cần những người“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, bao người đã và đang sẵn sàng giũ áo ra đi, sẵn sànghi sinh và cống hiến bao xương máu, bao nhà văn đã tự nguyện lột xác để đến với nhân dânvới dân tộc, với trách nhiệm công dân. Xuân Diệu, Nguyễn Tuân đã hi sinh cái sở trườngtình yêu và sở thích “nhâm nhi chén trà trong sương sớm” để cho giọt mực thấm đẫm cáisức ấm nóng của thời đại, thì lối sống của Hoàng quả thực là lối sống của một con người vôtrách nhiệm, nhẫn tâm đến vô tình ác độc. Nó biểu hiện tư chất của một con người ích kỉ,sống chỉ lo cho đến lợi ích của bản thân mình!Namã xây dựng nên nhân vật Hoàng bằng một nghệ thuật vô cùng độc đáo.Hoàng “được” Nam Cao mổ xẻ về cái xấu cả nhân hình lẫn nhân tính. Ghét cay ghét đắngHoàng lẫn cái “tuýp” người như Hoàng trong xã hội đương thời. Nam Cao đã rất thâm thuýkhi đặt Hoàng ở bên cạnh con chó của anh ta. Con chó Hoàng chết, “chết không phải vì chủnó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để nó ăn, mà nó chết có lẽ vì chén phải thịtngười ươn hay vì hít phải mùi xú khí”. Thật độc đáo làm sao khi Nam Cao cũng để cho Hoàng đã một lần cũng “nhăn mũi như ngửi mùi xác thối”, con chó của Hoàng đã chết vìmùi xú khí, thì Hoàng cũng sẽ chết, chết như chính con chó của Hoàng thôi! Đó là một dựbáo mà cũng chính là điều tất yếu sẽ xảy ra với bản thân nhân vật.Như vậy, từ vô số những “đôi mắt” ích kỉ, vô tâm như vậy ở ngoài đời, Nam Cao đãhệ thống lại để đưa vào tập trung mọi bản chất trong cùng một con người, chính vì vậy nênnhân vật Hoàng có giá trị điển hình rất cao. Một con người “bước thong thả từ từ vì ngườianh quá béo, vừa bước vừa bơi bơi hai cánh tay khềnh khệnh ra hai bên, những khối u ở haibên nách kềnh ra, tủn mủn vì quá ngắn”, phải chăng là biểu tượng của một con người luônbơi ngược dòng thời đại, luôn là một vật cản đối với xã hội đương thời? Xây dựng nhân vậtbằng những nét điển hình độc đáo, bằng những chi tiết tả thực để từ đó có thể lột tả hếtnhững bản chất sâu xa bên trong của mỗi con người. Đó chính là một thành công khá xuấtsắc của Nam Cao – một nhà văn lớn của văn học Việt Nam. C. TƯ LIỆU (LỜI BÌNH): * Năm 1948, Nam Cao viết Đôi mắt là rất có ý thức. Lúc này, hầu hết các nhà văn“tiền chiến” (trước tháng 8 – 1945) đã đi theo kháng chiến. Nhưng hiện tượng xa rời, ít ra làchưa quen hòa nhập với quần chúng (nhất là với người dân quê); hiện tượng nhận thức vềkháng chiến, về nhân dân một cách lệch lạc, thiếu tin tưởng; hiện tượng đi với kháng chiếnnhưng vẫn chưa gắn cảm hứng nghệ thuật với kháng chiến, với nhân dân không phải làkhông còn. Vấn đề “nhận đường”, vấn đề “đôi mắt” đang phải đặt ra với người nghệ sĩ. Đạihội văn hóa toàn quốc năm 1948 đã cố gắng xác định những quan điểm cần thiết. Đôi mắtcủa Nam Cao là một tác phẩm nghệ thuật góp phần tích cực vào việc xác định những quanđiểm cần thiết đó.… Vấn đề “đôi mắt” mà Nam Cao nêu lên trong tác phẩm, thì rõ ràng là vấn đềchẳng của riêng thời bấy giờ mà là vấn đề muôn thuở đối với nhà văn.(Nguyễn Đình Chú) * … Thời buổi nào cũng vậy, nhất là giữa lúc dân tộc nhân dân ta đang gian khó,đang đổ mồ hôi và máu vun đắp cuộc sống chung, thì đối với những con người vừa thoátthai từ kiếp nô lệ đói khổ, mù chữ… làm sao ta nỡ lòng đứng ngoài để xỉa xói khinh bỉ, dè bỉu và chế giễu ! … Còn nói rộng ra ở một cấp độ khác, trên phương diện làm người thì mộtkẻ chỉ biết mình, chỉ vì mình, chỉ lấy cái “tôi” làm chuẩn mực để yêu ghét, khen chê, chọnlựa, tính toán thì có lẽ muôn đời ở xã hội nào, ở thời đại nào, cũng phải chê trách.(Theo Mai Ngọc)

Tài liệu liên quan

  • Xây dựng hệ thống câu hỏi hiệu quả trong dạy học tác phẩm chí phèo của nhà văn nam cao Xây dựng hệ thống câu hỏi hiệu quả trong dạy học tác phẩm chí phèo của nhà văn nam cao
    • 19
    • 3
    • 19
  • Tài liệu Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao pptx Tài liệu Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao pptx
    • 12
    • 1
    • 22
  • Tài liệu Cảm nghĩ của em về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao pot Tài liệu Cảm nghĩ của em về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao pot
    • 5
    • 7
    • 19
  • Tài liệu PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “ĐỜI THỪA” CỦA NAM CAO – NGUYỄN HOÀNH KHUNG ppt Tài liệu PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “ĐỜI THỪA” CỦA NAM CAO – NGUYỄN HOÀNH KHUNG ppt
    • 12
    • 1
    • 25
  • Phân tích tác phẩm Đời thừa của Nam Cao potx Phân tích tác phẩm Đời thừa của Nam Cao potx
    • 6
    • 1
    • 4
  • Phân tích tác phẩm Phân tích tác phẩm "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân - ôn thi đại học
    • 24
    • 18
    • 160
  • Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
    • 11
    • 14
    • 170
  • Phân tích tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao – bài mẫu 1 Phân tích tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao – bài mẫu 1
    • 2
    • 1
    • 8
  • Phân tích tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao Phân tích tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao
    • 2
    • 996
    • 1
  • Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao - văn mẫu Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao - văn mẫu
    • 3
    • 3
    • 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(94 KB - 7 trang) - Phân tích tác phẩm Đôi Mắt của nhà văn Nam Cao Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Hãy Rũ Bỏ đôi Mắt Cũ