Phân Tích Tính Dân Tộc Trong Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu | Văn Mẫu 12

Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc, hướng dẫn cách làm, lập dàn ý chi tiết và tham khảo một số bài văn mẫu hay nêu và làm rõ tính dân tộc trong nội dung bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu).

Bài văn mẫu hay nhất phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiên phong của thơ ca cách mạng Việt Nam, cả đời ông đã dành hết sự cống hiến không ngừng nghỉ cho sự nghiệp cách mạng dân tộc. Tác phẩm của Tố Hữu thường hướng tới những tư tưởng cao cả, những lẽ sống vĩ đại hoặc những sự kiện quan trọng của đất nước. Đặc biệt, những tác phẩm này đã mang tinh thần của dân tộc, làm cho chúng trở nên sâu sắc, cân đối và trường tồn qua thời gian. "Việt Bắc" là một tác phẩm tiêu biểu trong số đó.

Khi đánh giá tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, có những quan điểm cho rằng tính dân tộc là một trong những đặc điểm vốn có của tác phẩm này. Vậy trước hết ta cần làm rõ tính dân tộc trong văn học có ý nghĩa gì? Tính dân tộc là một thuộc tính của văn học phản ánh đời sống mỗi dân tộc, tạo ra cho tác phẩm văn học một bản nhạc dân tộc độc đáo, không thể hòa trộn. Với khái niệm như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng "Việt Bắc" đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để trở thành một tác phẩm thơ đậm đà tính dân tộc về cả mặt nội dung và nghệ thuật.

Với đề tài "Việt Bắc", trước hết nó đề cập đến một sự kiện chính trị lớn của dân tộc, đó là kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương, đánh dấu hòa bình và sự tái thiết sau chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc nước ta. Vào tháng 10 năm 1945, các chiến sĩ kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời khỏi chiến khu Việt Bắc và trở lại thủ đô. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ "Việt Bắc". Do đó, sự ra đời của bài thơ "Việt Bắc" liên kết chặt chẽ với lịch sử dân tộc, là một cột mốc rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đánh dấu giai đoạn chuyển mình quan trọng của quốc gia, mở ra một trang sử huy hoàng cho dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, tính dân tộc trong "Việt Bắc" được thể hiện ngay từ đề tài.

Thứ hai về nội dung bài thơ Việt Bắc đã tái hiện vẻ đẹp ấn tượng của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc qua đó nhằm tôn vinh Vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của tổ quốc ta trong Việt Bắc có đoạn Tố Hữu viết.

"Ta về mình có nhớ ta, Ta về ta nhớ những hoa cùng người, Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng, Ngày xuân mơ nở trắng rừng, Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang, Ve kêu rừng phách đổ vàng, Nhớ cô em gái hái măng một mình, Rừng thu trăng rọi Hòa Bình, Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Việt Bắc có thiên nhiên tuyệt đẹp, hài hòa và cảnh sắc thay đổi theo từng mùa và mỗi mùa đều mỹ lệ mà thanh nhã. Cảnh sắc thiên nhiên ở đây có nét đặc biệt riêng theo mùa, không thể hòa lẫn. Mùa xuân, thiên nhiên Việt Bắc khoác lên mình chiếc áo choàng trắng tinh khiết của hoa mơ. Màu trắng của hoa mơ tạo nên vẻ đẹp thanh khiết và trong trẻo đặc trưng của vùng sơn cước. Khi mùa xuân qua đi, hạ đến Việt Bắc với một phong thái và tinh thần mới. Ngoài tiếng ve quen thuộc vẫn vang lên còn có màu vàng đầy ấn tượng của rừng phách. Hãy tưởng tượng chỉ trong một khoảnh khắc, cả không gian bỗng bùng nở vì sắc vàng đầy uy quyền của rừng phách, lúc đó chúng ta mới thấy được sự tráng lệ và khác biệt của vùng đất này, đó chính là vẻ đẹp của mùa thu Việt Bắc.

Mùa thu Việt Bắc có vẻ đẹp mê hồn và huyền bí trong những đêm trăng mờ ảo. Đặc sản ở nơi đây là ánh trăng của hòa bình, tĩnh lặng và bình yên, thứ ánh sáng nhẹ nhàng mang theo hơi thở của cuộc sống thanh bình, tràn đầy hi vọng và niềm tin. Nếu mùa xuân đầy nồng nàn và thuần khiết, mùa hạ rực rỡ với ngàn sắc kiêu sa, thì mùa thu ở Việt Bắc có xu hướng thanh nhẹ, tinh tế như lấy đi sự vội vã và ồn ào của cuộc sống hàng ngày. Chuyển sang cảnh sắc mùa đông, cả rừng Việt Bắc bạt ngàn chìm trong sắc xanh, nổi bật trên nền ấy là những bông hoa chuối rừng đỏ rực. Điều đáng chú ý là mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo và giá băng, mà thật ấm áp, long lanh và tràn đầy sức sống. Đây là một đặc điểm độc đáo, chỉ có thể thấy ở Việt Bắc. Điều này khiến con người nhớ mãi và không muốn rời xa. Tố Hữu sử dụng ngôn từ tinh tế nhất để gợi lên vẻ đẹp độc đáo và đa dạng của thiên nhiên Việt Bắc. Qua từng câu thơ, từng chữ viết, ông tái hiện và làm sống dậy vẻ đẹp tự nhiên của đất nước, và một lần nữa, sự đậm đà của tính dân tộc được thể hiện rõ trong Việt Bắc.

Tác phẩm đặc sắc này còn thể hiện tính dân tộc thông qua sự tự hào ngợi ca của tác giả đối với cuộc kháng chiến vĩ đại trường kì của dân tộc. Tố Hữu đã khéo léo gợi lại lịch sử hùng tráng một cách sống động và lãng mạn. Sự kết hợp này vừa hiện thực vừa mang tính lãng mạn, và ngôn từ thơ ca như thổi luồng lửa tự hào trong lòng người đọc về Tổ quốc Việt Nam.

"Những đường Việt Bắc của ta, Đêm đêm rầm rập như là đất rung, Quân đi điệp điệp trùng trùng, Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan, Dân công đỏ đuốc từng đoàn, Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay, Nghìn đêm thăm thẳm sương dày".

Trong không gian của núi rừng hùng vĩ, chứa đầy những hiểm nguy và mối đe dọa, quân đội của chúng ta ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến. Những cuộc hành quân trong đêm dài tái hiện một cách hoành tráng và oai hùng sức mạnh của quân và dân ta, với lực lượng đông đảo, khí phách kiêu hãnh, tinh thần quả cảm và dũng khí vươn lên tận cùng bầu trời. Những bước chân tiến quân trở nên phi thường, mang sức mạnh không thể địch lại, có khả năng nghiền nát mọi chướng ngại, rung chuyển cả đất trời. Đây không chỉ là cuộc hành quân ở Việt Bắc, mà còn mang trong đó không khí, linh hồn và tinh thần của cả dân tộc Việt Nam. Một dân tộc đã đứng lên như một trận bão, một thác đổ mà không một kẻ thù nào có thể đánh bại được. Qua những cuộc hành quân mang vẻ đẹp huyền thoại trong Việt Bắc, Tố Hữu đã ngầm ca ngợi và tôn vinh cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt. Từ đó, nó gợi lên lòng yêu nước, yêu tổ quốc và đánh thức niềm tự hào về đất nước trong mỗi người. Một lần nữa, điều này khẳng định tính dân tộc là một phẩm chất tồn tại trong Việt Bắc.

Ngoài vẻ đẹp thiên nhiên của núi rừng, Tố Hữu cũng không quên ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam với những đức tính chăm chỉ, cần cù và chịu thương chịu khó. Họ đã đóng góp một phần sức lực của mình vào cuộc kháng chiến anh dũng của tổ quốc. Hình ảnh người mẹ không ngại mệt nhọc địu con lên cánh đồng làm nương để nuôi sống gia đình hiện lên cảm động và chân thực thông qua bút pháp của Tố Hữu.

"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng, Địu con lên rẫy bé từng bắp ngô".

Người dân nơi đây rất chân thành, giản dị và bao dung. Mặc dù cuộc sống của họ đơn giản, nhưng dường như không bao giờ họ mất đi tinh thần lao động, sự cần cù và sự kiên trì. "Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang", "Nhớ cô em gái hái măng một mình", cùng với đó, suốt tác phẩm, Tố Hữu còn làm nổi bật sự thủy chung và tình nghĩa của con người Việt Bắc. Điều này cũng là một phần trong vẻ đẹp truyền thống của người Việt Nam, khi nhân dân chung lòng đồng cam cộng khổ, chia sẻ khó khăn và khắc phục hoạn nạn cùng với cách mạng.

"Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng".

Là những ngày tháng dài tình bên, nghĩa trọn, trước sau như một.

"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Thêm vào đó, người dân Việt Bắc cũng có tâm hồn lạc quan, yêu đời, mặc cho "gian nan đời vẫn ca vang núi đèo". Với họ, gian khổ không thành vấn đề, chỉ cần mỗi ngày gắn bó với cách mạng là một ngày hạnh phúc. Dù cuộc sống đầy gian nan và khó khăn, họ vẫn hát ca vô tư, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Dễ dàng nhận thấy rằng tất cả các phẩm chất, từ sự chăm chỉ, cần cù, yêu lao động đến lòng trung thành và tinh thần lạc quan của người Việt Bắc hoàn toàn trùng khớp với những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam từ xưa đến nay. Điều này có nghĩa là Việt Bắc đã thành công trong việc tái hiện và tôn vinh tinh thần dân tộc thông qua hình ảnh của con người nơi đây. Điều đó cũng làm cho khoảng cách giữa độc giả và tác phẩm trở nên gần gũi hơn, sự đồng điệu bắt đầu từ đây, tính dân tộc sâu sắc cũng được bộc lộ rõ nét.

Về hình thức Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc, hơn nữa lục bát của Việt Bắc gần giống với lục bát của ca dao kết hợp với lối nói tiểu đối tạo cho bài thơ thêm âm hưởng thiết tha, da diết như len sâu vào lòng người. Tố Hữu cũng khéo léo khi vận dụng cách nói đối đáp, giao duyên rất phổ biến trong ca dao dân tộc Việt Nam, để bộc lộ những tư tưởng, tình cảm tâm sự. Bên cạnh đó tác giả đã cực kỳ tinh tế, khéo léo khi vận dụng và kết hợp sử dụng các đại từ nhân xưng "mình, ta", mình ta lúc là hai, lúc là một, soi chiếu tình cảm lẫn nhau, quyện hòa vào nhau khiến cho nhịp thơ đong đầy tình, nghĩa, ngôn ngữ thơ cũng rất mộc mạc, đơn sơ, không cầu kỳ, độc đáo, cũng không tráng lệ phi phàm, làm mọi thứ dường như chỉ dừng lại ở mức lời ăn, tiếng nói hằng ngày.

Cách nói ví von, những câu thành ngữ, ca dao được sử dụng vừa hài hòa, vừa triệt để đã tạo cho Việt Bắc một bản sắc dân tộc Việt sâu sắc, thể hiện cả trên bề mặt chữ lẫn chiều sâu. Cuối cùng là cách tác giả phát huy cao độ tính nhạc của tiếng Việt, các câu thơ đọc rất phù hợp với mặt trái của thể thơ, của cảm xúc, nhịp thơ tự do, tha thiết, không gò bó và rất dễ thuộc, dễ nhớ. Đóng góp vào thành công ấy không thể không kể đến vai trò của hệ thống từ láy linh hoạt, phong phú, độc đáo suốt dọc chiều dài của tác phẩm. Chính nhờ có điều này mà thơ Việt Bắc không thể khô khan, kích thích người đọc tiếp nhận tác phẩm. Như vậy, toàn bộ hình thức của Việt Bắc là minh chứng không thể rõ ràng hơn về tính dân tộc của tác phẩm.

Vậy nhận định ban đầu là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở đầy khẳng định được giá trị nổi bật của Việt Bắc là tính dân tộc, cũng chính tính dân tộc này đã tạo cho Tố Hữu một phong cách sáng tác riêng mang phong cách, dấu ấn của riêng ông, không thể trộn lẫn giữa các dòng chảy của văn học hiện đại. Đồng thời còn là sự ghi nhận tài năng tài chính của Tố Hữu khi sử dụng ngôn từ để tái hiện hồn cốt dân tộc. Một điều mà ít, rất ít nhà thơ làm được hoàn hảo, bởi vậy là hoàn toàn xứng đáng khi nói tính dân tộc đã làm Việt Bắc rất cao và chói sáng trên thi đàn Việt Nam.

Nhìn chung tính dân tộc không phải là yếu tố độc nhất của một thi phẩm hay, nhưng có lẽ chỉ có nó mới có thể tạo được sức sống lâu bền cho tác phẩm. Nếu như tất cả các tác phẩm đều có thể dung hòa tính dân tộc sâu sắc, với cái mới, cái hay, cái độc đáo, sáng tạo của cá nhân tác giả, thì chắc chắn sẽ ngày càng có nhiều hơn nữa những bài thơ hay, làm đẹp cho đời sống hôm nay và mai sau.

Hướng dẫn phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

1. Phân tích đề

- Kiểu bài: dạng bài phân tích tác phẩm văn học có định hướng (tính dân tộc).

- Vấn đề nghị luận: tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc.

- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu: các căn cứ, hình ảnh, chi tiết,... thuộc phạm vi bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

2. Hệ thống luận điểm về tính dân tộc trong bài Việt Bắc

- Luận điểm 1: Giải thích thế nào là tính dân tộc

- Luận điểm 2: Những biểu hiện của tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

+ Về nội dung

+ Về nghệ thuật

+ Về ngôn ngữ

+ Về nhạc điệu

3. Sơ đồ tư duy phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc

Sơ đồ tư duy phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

Chi tiết sơ đồ tư duy về tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

Xem thêm: Hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc

Để nắm chắc cũng như tự hoàn thành bài văn đặc sắc của mình, Đọc tài liệu cũng gợi ý thêm cho các em bố cục dàn ý sau:

4. Lập dàn ý phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

a) Mở bài:

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Tố Hữu, tác phẩm Việt Bắc

- Nêu nhận định trong thơ Tố Hữu đậm chất dân tộc.

b) Thân bài:

* Giải thích tính dân tộc là gì?

- Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.

- Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.

* Những biểu hiện của tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc:

- Về nội dung:

+ Bài thơ đề cập đến đề tài chiến tranh, hướng cảm xúc đến nghĩa tình thủy chung cách mạng của con người Việt Nam trong kháng chiến, đó là một phẩm chất có ý nghĩa truyền thống của dân tộc.

+ Bài thơ đã làm sống lại vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc, vẻ đẹp của cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng ấm áp tình người, vẻ đẹp của lịch sử cách mạng Việt Nam một thời không quên.

- Về nghệ thuật:

+ Sử dụng thể thơ lục bát truyền thống kết hợp giọng cổ điển và dân gian, thể hiện những nội dung tình cảm cách mạng có gốc rễ từ truyền thống tinh thần dân tộc, làm phong phú cho thể thơ lục bát dân tộc.

+ Bài thơ sử dụng cách nói "mình - ta" và lối đối đáp của ca dao dân ca, tạo nên một giọng thơ ngọt ngào thương mến, qua đó thể hiện những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của dân tộc.

- Về ngôn ngữ:

+ Bài thơ sử dụng từ ngữ và lối nói quen thuộc của dân tộc, những so sánh ví von truyền thống nhưng lại biểu hiện được nội dung mới của thời đại.

+ Bài thơ có sự chuyển đổi linh hoạt về ngôn ngữ, giọng điệu, tạo nên hiệu quả biểu đạt cao. Chất thơ mang đậm sắc màu núi rừng và cuộc sống của những người dân Việt Bắc.

- Nhạc điệu: thể hiện chiều sâu tính dân tộc của nghệ thuật thơ Tố Hữu.

+ Phát huy tiếng nhạc phong phú của các câu thơ, diễn tả nhạc điệu bên trong của tâm hồn, một thứ nhạc tâm tình mà ở bề sâu của nó là nhạc điệu cảm xúc dân tộc, tâm hồn dân tộc.

+ Giai điệu thơ vừa ngọt ngào sâu lắng khi diễn tả tình cảm gắn bó thủy chung, vừa sôi động hào hùng thể hiện cuộc chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của dân tộc, vừa tha thiết thành kính với hình ảnh Đảng và Bác Hồ kính yêu…

* Nhận xét, đánh giá:

- Tính dân tộc và ý nghĩa, giá trị của bài thơ "Việt Bắc" trong thơ ca dân tộc: Bài thơ vừa đánh dấu một giai đoạn lịch sử của dân tộc, vừa nêu bật phẩm chất truyền thống của con người Việt Nam trong chiến tranh.

- Tính dân tộc và sự thể hiện phong cách thơ Tố Hữu: Sự gắn bó tha thiết giữa hồn thơ Tố Hữu và ấn tượng thơ của ông.

c) Kết bài

- Nêu cảm nghĩ của bản thân về tính dân tộc trong bài thơ "Việt Bắc".

Sau đây, mời các em tham khảo bài văn mẫu phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc để mở rộng ý, vốn từ ngữ cũng như rút kinh nghiệm về cách trình bày cho bài văn của mình.

TOP 3 bài văn tham khảo phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc bài số 1:

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử: Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.

Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc đó là hình ảnh: "Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương", hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những "rừng nứa bờ tre, ngòi thưa, sông Đáy" là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng "Chày đêm nện cối đều đều suối xa".

Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hìa quyện với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:

Ta về mình có nhớ ta

...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng. Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ thiếu thốn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son", hình ảnh người mẹ "Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô", là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

​      Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên... Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ còn đi sâu vào lý giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh tình nghĩa thủy chung: "Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi" nhất là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Tất cả tạo thành hình ảnh "đất nước đứng lên".

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh, hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa "mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù" cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.

Mình về có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Trong những năm tháng kháng chiến gian lao Việt Bắc là nơi có "cụ Hồ soi sáng", có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.

​      Từ tình cảm yêu mến, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hoà bình, phồn vinh.

Ngày mai rộn rã sơn khê

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng

Than Phấn Mễ, thiết Cao Bằng

Phố phường như nấm như măng giữa trời.

Những hình ảnh ấy là mơ ước, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng, nơi đã cưu mang, che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.

Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai, nhà thơ không quên, một nét đẹp trong đạo lý truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung, có mới mà không nới cũ, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hoá khi có sự thay đổi môi trường, khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình. Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.

Tính dân tộc là đặc điểm nổi bật ở Việt Bắc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Tính dân tộc của bài thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải được tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm đã ngợi ca những ngày hào hùng vẻ vang của dân tộc, những ngày mà toàn dân nô nức ra trận, những ngày mà mảnh đất Việt Bắc in dấu bao thời khắc, chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc… Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã mang tinh thần và tư tưởng của thời đại nhưng người ta có thể ngân ngợi như những bài ca dao.

>>Đừng bỏ lỡ tuyển chọn những bài văn phân tích Việt Bắc đặc sắc nhất mà em có thể lưu ý.

Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc bài số 2

Tố Hữu được mệnh danh là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Năm tập thơ của ông phản ánh những chặng đường của lịch sử dân tộc. “Từ ấy” là tập thơ đầu tay ghi lại quá trình giác ngộ và trưởng thành của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Tiếp theo, tập “Việt Bắc’’ được ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tập thơ là một  bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc. Tập “Gió Lộng’’ đánh dấu một bước phát triển của thơ Tố Hữu khi viết về hai nhiệm vụ của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ ở miền Nam. Và giọng thơ anh hùng ca càng được nhà thơ thể hiện rõ ở hai tập “Ra trận’’, “Máu và hoa’’. Cuối cùng, tập thơ “Một tiếng đờn’’ là những dòng tâm tư trăn trở của tác giả trong thời kỳ đất nước đã hòa bình.

Mỗi tập thơ của Tố Hữu đều thể hiện tính dân tộc đậm đà trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Song trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc”. Bởi đây là một bài thơ tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến chống Pháp và được lựa chọn trong chương trình ngữ văn lớp 12, được sử dụng làm đề thi tốt nghiệp THPT trong nhiều năm.

Xét về mặt nội dung thì bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện được những vấn đề nóng bỏng mang vận mệnh dân tộc; thể hiện được hình ảnh con người Việt Nam trong kháng chiến. Đẹp nhất là hình tượng Bác Hồ. Người là kết tinh tinh hoa dân tộc:

“Nhớ ông cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”

Nhà thơ Tố Hữu gọi  Bác là “Ông cụ” nghe sao gần gũi thân thương mà ấm áp bao ân tình. Tấm  “áo nâu” mà Bác mặc thường ngày là hình ảnh gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam đều dành cho Bác tình cảm trân trọng, ngưỡng mộ, biết ơn, luôn hướng về Bác với một niềm tin mãnh liệt:

“Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”

Bác Hồ đã trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ, tình cảm của nhân dân.

Sáng tác bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu không chỉ thay lời nhân dân nói nên lòng biết ơn với Đảng, với Bác kính yêu mà ông còn thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân Việt Bắc. Trong tâm tư của người ra về còn in sâu hình ảnh áo chàm giản dị mà thủy chung. Trong 15 năm chung sức chung lòng, người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua bao gian khó đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến bến bờ của sự thành công:

“Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”

Tố Hữu ca ngợi tình cảm thủy chung sắt son của người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng chính là ca ngợi truyền thống: “uống nước nhớ nguồn”; truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã thể hiện được tính chất của cuộc kháng chiến chống Pháp là toàn dân toàn diện. Với sự tham gia của nhiều lực lượng, không phân biệt già, trẻ, trai, gái ai ai cũng mong muốn được góp phần mình cho kháng chiến. Nối tiếp những đoàn quân ra trận là những đoàn dân công với nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đạn dược ra chiến trường. Tất cả vì tiền tuyến:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Khí thế của cả dân tộc cùng ra trận thật hào hùng, mãnh liệt, không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Họ ra trận với một tinh thần yêu nước, niềm tin tưởng ở ngày mai tất thắng

Bài thơ “Việt Bắc” còn đánh dấu sự thành công của Tố Hữu ở phương diện nghệ thuật mang đậm tính dân tộc biểu hiện ở thể thơ, ngôn từ, nhạc điệu, hình ảnh. Tố Hữu vốn là người xứ Huế - nơi có những làn điệu dân ca ngọt ngào. Những lời ru của mẹ đã thấm vào tâm hồn thơ Tố Hữu, đi vào trang thơ của ông. Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu đối đáp như câu hát giao duyên của đôi trai gái yêu nhau. Vì thế câu chuyện chính trị đã được tác giả chuyển hóa giống như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nó không khô khan mà ngọt ngào tình tứ đã giúp nhà thơ thể hiện được tình cảm thiết tha của người đi (cách mạng) và kẻ ở (Việt Bắc) trong buổi chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến:

“Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”

Đọc thơ Tố Hữu, ta rất ấn tượng với cách sử dụng cặp đại từ “mình”, “ta” giống như của ca dao xưa. Người cách mạng và đồng bào Việt Bắc đã coi nhau như những người bạn đời gắn bó tri kỉ trong suốt 15 năm. Vì thế đại từ “mình” và “ta” được nhà thơ vận dụng rất linh hoạt, có lúc phân định rõ nhưng có lúc “ta” và “mình” lại hòa làm một. Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.

Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua âm điệu của bài thơ. Bài thơ rất giàu nhạc điệu bởi hệ thống từ láy giàu giá trị tượng thanh như “rầm rập”, những điệp từ “nhớ”, “vui”… nghệ thuật liệt kê và nghệ thuật tiểu đối tạo tính cân xứng cho câu thơ.

Nhận xét về thơ Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh’’. Thật vậy, đọc bài thơ Việt Bắc, ta bắt gặp những hình ảnh như “củ khoai”, “củ sắn”, “bờ lau” rất đỗi bình dị nhưng qua cách diễn đạt tài tình của nhà thơ, những hình đó lại trở thành hình tượng biểu tượng cho cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả của đồng bào Việt Bắc nói riêng, của toàn dân tộc nói chung trong những ngày đầu của cuộc chiến chống Pháp đầy gian khổ.

Tóm lại, Tố Hữu viết  bài thơ Việt Bắc bằng tất cả tấm lòng chân thành hướng về Đảng, về cách mạng, về nhân dân. Bài thơ giúp ta cảm nhận được nhiều phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam: yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết, lạc quan, thủy chung son sắt; thấy được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đọc thơ Tố Hữu, ta thêm yêu quê hương, Tổ quốc mình. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu xứng đáng là một kiệt tác của dòng văn học cách mạng Việt Nam.

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết - THPT Tiên Lữ

Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc bài số 3:

Một nghệ sĩ có thể coi là nhà văn mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của họ thấm nhuần tính dân tộc. Khi tính dân tộc lan tỏa vào từng yếu tố của tác phẩm, ta sẽ cảm nhận được màu xanh của lá, mùi của đất, tiếng chim hót trên cành, hương của hoa... Khi đọc tác phẩm "Việt Bắc" của Tố Hữu, ta sẽ thấy trong đó lịch sử của đất nước chúng ta, tình yêu của chúng ta, núi rừng của Việt Nam và ca dao dân ca trong đó nhưng được thể hiện bằng một giọng điệu rất riêng. Xét về cả nội dung và hình thức nghệ thuật, tác phẩm đều rất đậm đà tính dân tộc.

Tính dân tộc là sự phản ánh các đặc điểm đặc sắc của bản sắc dân tộc, thể hiện qua cả nội dung và hình thức nghệ thuật trong một tác phẩm văn học. Tính dân tộc cũng là đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu. Ông luôn tạo ra những tác phẩm thể hiện đậm đà tinh thần bản sắc dân tộc và "Việt Bắc" là một ví dụ tiêu biểu cho điều đó.

Trong nội dung Tố Hữu đã thể hiện những đặc điểm mang tính bản sắc riêng của văn hóa đất nước Việt Nam.

“Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Tác giả còn thể hiện cả những truyền thống nghĩa tình thủy chung son sắt. Đó là tình quân dân cả – nước mặn nồng và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.

Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã thành công trong việc vận dụng sáng tạo hình ảnh người về - kẻ ở quen thuộc trong ca dao dân ca. Cụ thể là cặp đại từ xưng hô "mình - ta" và "người về - kẻ ở" thường dùng để diễn đạt tình cảm riêng tư, tình cảm của đôi lứa. Tuy nhiên trong bài thơ Việt Bắc, lối đối đáp lại được thể hiện thông qua tình cảm chung của lòng yêu nước và lòng yêu cách mạng.

“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Đọc hai câu thơ này tưởng như viết về tình cảm đôi lứa nhưng khi đọc ở những câu thơ sau đặc biệt là hai câu

“Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Mới nhận ra đây là lúc đồng bào và chiến sĩ phải chia tay. Điều đó cho thấy, nội dung của tác phẩm là tình cảm chung của tất cả, trong khi hình thức lại là tình yêu đôi lứa. Tình cảm đối với quê hương và cách mạng được truyền đạt đến người đọc thông qua lối đi của tình yêu lứa đôi, tạo nên sức lay động sâu sắc và cũng là sự sáng tạo của tác giả.

Trong đặc sắc nghệ thuật, Tố Hữu còn sử dụng sáng tạo gặp đại từ mình – ta. Cặp đại từ mình ta được sử dụng vừa mộc mạc, bình dị vừa gần gũi, thân thiết như ca dao dân ca:

“Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Có những câu thơ, cặp đại từ lại được sử dụng một cách sáng tạo để nói lên tình cảm giữa nhân dân và cách mạng. Trong tiếng Việt, “mình” được sử dụng với ngôi thứ nhất, có khi “mình” cũng sử dụng cả ở ngôi thứ hai để chỉ đối tượng khi đối tượng được nói có sự gắn bó với thịt (“mình” thường dùng xưng hô chơ vợ hoặc chồng). Ở bài “Việt Bắc”, cặp mình – ta được sử dụng độc đáo. Từ “mình” chủ yếu được chỉ ở ngôi thứ hai để chỉ đối tượng:

“Mình về mình có nhớ ta”

... cũng có khi từ “mình” vừa nói về bản thân vừa nói về đối tượng

“Mình đi mình lại nhớ mình”

Với biện pháp nghệ thuật này Tố Hữu đã nói lên sự gắn bó giữa “mình” với “ta” trong “mình” có “ta” và trong “ta” có “mình” cũng như sự gắn bó giữa nhân dân với cách mạng, trong cách mạng có nhân dân và trong nhân dân có cách mạng.

Tính dân tộc trong đặc sắc nghệ thuật còn thể hiện ở chỗ tác giả đã sử dụng sáng tạo và thành công thể thơ lục bát của dân tộc. Thành công bởi Tố Hữu đã viết lên những câu thơ lục bát đẹp như ca dao dân ca:

“Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đâu núi nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thường đi về”

Những câu thơ lục bát của Tố Hữu mẫu mực và điêu luyện, đạt đến trình độ bác học. Để thể hiện vẻ đẹp chuẩn mực này Tố Hữu đã sử dụng những câu thơ một cách nhịp nhàng cân xứng bằng nghệ thuật tiểu đối

“Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ nguồn”

“Bâng Khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi”

“Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù”

“Miếng cơm chấm muối / mối thùng nặng vai”

Ngoài việc sử dụng tiểu đối, tác giả còn sử dụng bình đối để tạo ra vẻ đẹp cân xứng. Đặc biệt, trong đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Bắc như một bức tranh tứ bình, mỗi câu sáu chữ mô tả về thiên nhiên đều có câu tám chữ để khắc họa hình ảnh con người. Nhờ đó, âm điệu của những khúc hát du dương, trầm bổng, sâu nắng và tiếng ngân nga vọng lên trong lòng người đọc.

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu vẫn trường tồn mãi mãi trong lòng độc giả qua các thế hệ chính vì tính dân tộc sâu sắc thấm nhuần trong nó. Không quá phô trương khi ví bài thơ này như một tác phẩm văn học mẫu mực của dân tộc."

-/-

 Trên đây là dàn ý tham khảo và bài văn mẫu đề văn phân tích tính dân tộc thể hiện qua bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Các bạn có thể tham khảo thêm các bài văn mẫu Việt Bắc hoặc tổng hợp tài liệu Văn mẫu lớp 12 khác tại doctailieu.com.

Từ khóa » Tính Dân Tộc Qua Bài Thơ Việt Bắc