Phân Tích Vẻ đẹp Thơ Mộng, Trữ Tình Của Con Sông Đà
Có thể bạn quan tâm
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con Sông Đà thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân vừa được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết.
I. Dàn ý Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con Sông Đà
Dàn ý Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông Đà - Bài mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân là một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam).
2. Thân bài
Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"
"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"
→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.
→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà và giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Dàn ý Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông Đà - Bài mẫu 2
1. Mở bài
Người lái đò sông Đà là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà. Hình ảnh con sông Đà với 2 đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Khi miêu tả tính cách hung bạo của sông Đà, tác giả sử dụng những câu văn mang nhịp điệu dồn dập, hình ảnh thơ hùng vĩ. Nhưng khi ca ngợi dòng sông Đà trữ tình gợi cảm ông lại dùng những câu văn dài, êm ả, nghe như tiếng hát ngân nga.
2. Thân bài
* Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà
Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm: câu văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.
Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.
Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.
* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:
Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều
* Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:
Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.
Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở.
3. Kết bài
Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
II. Văn mẫu Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 1
Nguyễn Tuân được biết đến là nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch. Ở những tác phẩm của ông ta nhận thấy rõ sự thay đổi trong phong cách văn chương qua từng giai đoạn, đặc biệt là tác phẩm Người lái đò sông Đà. Tác phẩm không chỉ mang đến cho bạn đọc vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của con sông Đà mà còn nêu lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của nó.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà với nhiều góc độ. Đầu tiên là góc từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo. Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa đã phô ra vẻ dịu dàng, duyên dáng kiêu sa, kiều diễm của sông Đà và bộ lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Sông Đà mang dáng vẻ của thiếu nữ, một nữ nhân xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa, hoa gạo và vẻ bồng bềnh mây khói. Mùa xuân màu nước xanh màu ngọc bích, khác với sông Gâm, sông Lô màu xanh canh hến. Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa. Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.
Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có. Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước.
Tác phẩm là một áng văn tiêu biểu của Nguyễn Tuân. Qua ngòi bút tài tình của ông, dòng sông Đà hiện lên mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình vô cùng đáng yêu, dịu dàng và cũng rất xinh đẹp. Tác phẩm đã góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm giàu đẹp, phong phú hơn và để lại nhiều giá trị, bài học cho thế hệ mai sau.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 2
Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu và vang danh bao nhà văn, nhà thơ tài năng. Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân - một cây bút tài hoa với những sáng tác nổi bật. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất ở mảng tùy bút. Tiêu biểu trong những sáng tác của ông phải kể đến là tùy bút Người lái đò Sông Đà. Con sông Đà không chỉ đẹp bởi vẻ hung bạo, dữ dội mà còn vô cùng thơ mộng, trữ tình.
Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo" "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" là những vẻ đẹp thơ mộng mà tác giả cảm nhận được từ con sông Đà. Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa. Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng vẻ đẹp của dòng sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng như vẻ đẹp của sông Đà nói chung vẫn còn nguyên vẹn và sống mãi trong lòng bạn đọc với một dấu ấn riêng biệt không gì sánh bằng.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 3
Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học. Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945. Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng những hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống, cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được.
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 4
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống. Và tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút như vậy. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách tiêu biểu, đó là hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Với sự hiểu biết sâu, gắn bó máu thịt và niềm đam mê cháy bỏng bừng vào trang văn, Nguyễn Tuân đã biến dòng sông của tự nhiên thành dòng sông nghệ thuật, thành một sinh thể có tâm hồn tính cách, trước hết là những đẹp thơ mộng, trữ tình được tái hiện qua ngòi bút của Nguyễn Tuân làm say mê bao trái tim bạn đọc.
Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ trên cao xuống tức là lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng ra và đi thuyền trực tiếp trên sông nước. Trước hết là cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp của sông Đà khi nhìn từ trên cao xuống, tác giả so sánh từ trên máy bay sông Đà “như chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”, phép so sánh cụ thể hóa dáng hình mềm mại của sông Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn như hình con long trên núi rừng Tây Bắc. Tác giả tiếp tục sử dụng trùng điệp các đối so sánh liên hoàn để tô đậm thêm vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ muôn sắc của dòng sông, ‘con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…”. Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều dài sông Đà chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc, phép so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình lại nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm mại óng ả, mượt mà, duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều, hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông. Động từ “bung nở” là một động từ mạnh đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết làm tăng thêm cảm nhận về sự vận động của sắc màu cứ xôn xao rạo rực rồi bừng lên lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt diệu cuốn hút lòng người. Những phép tu từ giúp Nguyễn Tuân vừa tả sông Đà lại vừa gợi lên vẻ đẹp lộng lẫy giống như một cô gái Tây Bắc e ấp tình tứ. Nguyễn Tuân phải rất yêu sông Đà thì mới có cái nhìn đắm đuối say mê xuyên qua làn mây mùa xuân thấy “mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích”, phép so sánh tài hoa làm nổi bật màu nước sông Đà vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Còn khi qua làn sương mùa thu thì nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”, gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Khi đi từ rừng ra nhà văn lại thấy nước sông Đà chói lóa như trẻ con nghịch miếng gương chiếu vào mặt trời, ánh sáng này cũng cho ta cảm nhận rằng nước sông Đà rất trong, phản chiếu ánh mặt trời chói lóa gợi cảm giác ấm áp. Trên bờ bãi sông còn có sắc màu lộng lẫy của chuồn chuồn, bươm bướm.
Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh” hiền lành như muốn hỏi ông khách sông Đà…, những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa giàu.
Với đôi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên nhiên sông Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dòng sông lúc thì như một cố nhân, lúc lại đắm say như một tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi xa thì nhớ, gặp lại thì vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa dầm” có cảm giác đằm đằm, âm ấm rất hạnh phúc. Tài hoa của Nguyễn Tuân đã truyền đến cho người đọc bao yêu thương trìu mến để sông Đà mãi sống trong lòng người đọc.
Thành công xuất sắc của tùy bút “Người lái đò sông Đà” đó là bức tranh thiên nhiên rất thực hòa quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân. Những đặc sắc nghệ thuật với rất nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dòng sông Đà của thiên nhiên vĩnh viễn trở thành dòng sông nghệ thuật.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 5
Nguyễn Tuân là một con người hết mực tài hoa, uyên bác. Dù chỉ viết văn nhưng ông lại có sự am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…Biết vận dụng con mắt nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác để tăng cường khả năng quan sát, biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngôn từ. Và “Người lái đò Sông Đà” là một tác phẩm đỉnh cao, thể hiện sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ, cũng như những quan sát tinh tế của Nguyễn Tuân.
Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo. Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau, có lúc ông quan sát con sông từ trên cao xuống tức là lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc thì tầm nhìn của ông lại gần hơn khi ông đi thuyền trực tiếp trên con sông. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà thật “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chôc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Con Sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình - một nét tính khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm chất trữ tình.
Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”. Phép so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình như nhấn mạnh hình dáng dòng sông mềm mại, mượt mà, lại duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều như áng tóc của người con gái. Cùng vớ hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu “của Lý Bạch, Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh” hiền lành như muốn hỏi ông khách sông Đà…, những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa giàu. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái đẹp.
Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Qua đôi mắt người lái đò, hay là đôi mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dòng cảm xúc thật lạ kì, thần tiên và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp không phải nơi nào cũng có được. Và sông Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 6
Ham thích xê dịch, tôn thờ cái đẹp độc đáo như một thứ tôn giáo, cả cuộc đời Nguyễn Tuân say mê tìm kiếm cái đẹp muôn màu của thiên nhiên, cuộc sống, con người. Trong hành trình khám phá bất tận ấy, Nguyễn Tuân đã gặp sông Đà như một mối duyên kì ngộ… Bởi sông Đà mang vẻ trong mình vẻ đẹp lạ thường, vừa vô cùng hung bạo vừa rất đỗi thơ mộng. Tất cả vẻ đẹp độc đáo, quyến rũ đến mê hồn của sông Đà đã được Nguyễn Tuân phóng bút trong “Người lái đó sông Đà” – một thành quả đẹp mà nhà văn thu hoạch trong chuyến đi gian khổ mà đầy hứng khởi tới miền Tây Bắc xa xôi. Là người nghệ sĩ suốt đời săn tìm cái đẹp, hứng thú với những cái phi thường, khác lạ, đối nghịch, trái khoáy, Nguyễn Tuân không chỉ kì công miêu tả vẻ độc đáo của sông Đà mà còn say mê đắm đuối vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của nó. Nhiều lần, Nguyễn Tuân đã đến với sông Đà, bước chân phiêu lãng của in dấu trên mọi nẻo bến bờ. Mỗi lần đến với dòng sông là thêm một phát hiện về vẻ duyên dáng của con sông Tây Bắc.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Nguyễn Tuân thấy con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương xuân. Điệp từ tuôn dài cùng nhịp văn mềm mại như ru như ngân đã gợi ra vẻ êm đềm lững lờ thướt tha của sông. Phép so sáng dòng sông như một áng tóc trữ tình là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa này chẳng những phô ra vẻ dịu dàng, duyên dáng kiêu sa, kiều diễm của sông Đà mà còn bộ lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của thiếu nữ, một nữ nhân xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa, hoa gạo và vẻ bồng bềnh mây khói. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, quyến rũ của đất trời đã ùa về thực dậy trong câu văn Nguyễn Tuân. Hình ảnh so sánh của Nguyễn Tuân gợi ta nhớ đế dòng sông trữ tình, diễm lệ và bóng dáng của những dòng sông ấy đã in sâu trong những trang văn, trang thơ. Đó là dòng sông Hương trong nét vẽ của Hoàng Phủ Ngọc Tường như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng duyên dáng. Đó là con sông duyên dáng như áng tóc huyền dưới chân núi Dục Thúy trong ngòi bút thơ Nguyễn Trãi. Mê đắm vẻ đẹp kiều diễm của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra mĩ nhân sông Đà luôn muốn làm đẹp với mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa một sắc. Mùa xuân nước sông xanh màu xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ. Chưa bao giờ sông Đà có màu đen xấu xí như cách thực dân Pháp gọi con sông này. Chỉ bằng vài nét phác họa, chấm phá, thiên nhiên Tây Bắc mà linh hồn của sông Đà hiện lên như bức họa nên thơ quyến rũ.
Con sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người sông Đà, sông Đà lại gợi cảm. Với Nguyễn Tuân, đi rừng lâu này gặp lại thấy con sông Đà đằm đằm ấm ấm như một cố nhân. Gương mặt cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ như một miếng sáng, lóe lên màu nắng tháng ba: Đường Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Gặp lại cố nhân, người nghệ sĩ không giấu được niềm hân hoan, háo hức. Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dần, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Chỉ bằng vài nét chấm phá mà diện mạo của cố nhân bỗng hiện lên sống động, tâm trạng, cảm xúc của người nghệ sĩ cũng chan chứa, tràn khắp câu văn.
Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của Đà giang trong phong thái của một khách lãng du, mê đắm, thưởng ngoạn, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ nên thơ, nên họa của dòng sông. Xuôi về hạ lưu, dòng sông lững lờ, êm trôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên phía thượng nguồn Tây Bắc. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, cổ kính, hoang sơ. Tưởng như từ đời Lí, Trần, Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Con sông Đà dường như chỉ biết tồn tại trong không gian mà không hề biết đến thời gian. Thời gian mải miết trôi, sông Đà vẫn mãi vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dại bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiêu như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Hai bên bờ sông tịnh không một bóng người. Chỉ có những nương ngô mới nhú lên những là ngô non đầu mùa, những đồi cỏ gianh đang ra nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng, con hươu thơ thẩn ngẩng đầu khỏi ánh cỏ sương chăm chăm nhìn ông khách sông Đà mà như muốn hỏi rằng: Có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương”. Vạn vật như đang chìm vào cõi mộng mơ. Dưới lòng sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi thoi. Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ mềm mại, du dương, như nét vẽ thanh nhẹ, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt dào, chất thơ, chất họa, vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh kì thú như những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh vừa hoang sơ, cổ kính, vừa thơ mộng, trữ tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa sức sống tươi non.
Không phải đến “Người lái đò sông Đà, lần đầu tiên, dòng sông Đà đi vào văn chương nghệ thuật. Thực ra từ lâu, sông Đà đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Thế nhưng, chỉ dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, vẻ đẹp hoang dại mà thơ mộng, bí ẩn mà diễm lệ của con sông Tây Bắc mới thực sự hiện ra, nổi hình, nổi sắc, mới trẻ nên có thần, có hồn và lay động người đọc. Khám phá vẻ đẹp sông Đà trong trang văn Nguyễn Tuân, ta mới thêm thấm thía chân lí nghệ thuật: Thế giới không phải được tạo lập một lần mà mỗi một lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo lập”
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 7
Nguyễn Tuân là một nhà văn duy mĩ bởi ông quan niệm cuộc đời hành trình đi tìm cái đẹp và khẳng định cái đẹp. “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Ông là nhà văn lớn nổi tiếng nhất của Việt Nam thế kỉ XX, là nghệ sĩ tài hoa, độc đáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm như một mĩ nhân Tây Bắc. Đoạn văn ta sắp phân tích sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đó của Đà giang.
“Người lái đò Sông Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tùy bút in trong tập Sông Đà (1960) - tập tùy bút cho thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân đã căn bản thay đổi để trở thành một nhà văn mới trong thời đại mới.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hung vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Lóong “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Bên cạnh sự hung bạo, sông Đà còn hiện lên với những nét nên thơ, trữ tình. Nguyễn Tuân quan sát sông Đà với nhiều góc độ. Đầu tiên là góc từ trên cao nhìn xuống, tác giả hình dung con sông Đà quyến rũ như một thiếu nữ với mái tóc buông dài hòa vào vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người Tây Bắc. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân” Trong câu văn của Nguyễn Tuân, có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn, rực rỡ của hoa ban, hoa gạo tháng hai và đặc biệt là cái ấm áp, gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của Tổ quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó gần gũi, thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp Vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn, lạc lõng xa xôi, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường của những người lao động bình thường.
Nguyễn Tuân đã có sự quan sát thật tỉ mỉ, ngắm con sông ở nhiều thời điểm để phát hiện sự thay đổi của sắc nước, tạo nên nét đẹp đặc trưng của nước sông Đà. Qua làn mây mùa xuân, nước sông Đà xanh màu ngọc bích. Đó là dòng xanh ngọc bích trong sáng, quý giá và êm nhẹ của sông Đà mùa xuân Đó còn là sự thiên vị của một niềm yêu khi so sánh với “màu xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô. Qua ánh nắng mùa thu, nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Hình ảnh so sánh nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về” đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng, ẩn chứa những đe dọa của một dòng sông vẫn muôn đời báo oán, đánh ghen với con người.
Tâm hồn coi sông Đà như một cố nhân. Tác giả tiếp tục bộc lộ những cảm xúc khi sắp gặp lại dòng sông, nhìn dòng sông “thấy loang loáng như đứa trẻ con nghịch chiếu gương vào mặt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của của người chưa ra đến cửa rừng, chỉ mới thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp lánh ánh nắng của những vạt cây rừng mà đã háo hức, bồn chồn, vội vàng, khao khát. Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ được coi là Thiên cổ lệ cú của Lí Bạch “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Cảm xúc gặp lại sông Đà cũng được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: “Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nối lại chiêm bao đứt quãng là một việc gần như không thể có trong cuộc đời mỗi con người. Hình ảnh so sánh cho thấy, sự nối lại giấc mơ càng hi hữu, hiếm quý bao nhiêu, càng đem đến cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu cho tác giả khi gặp lại dòng sông thân thương. Gặp lại dòng sông thì nhiều lần, nhưng với tác giả thì vẫn như là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất.
Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Câu văn mở đầu đoạn “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà” hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng như tái hiện hình ảnh con thuyền êm ái, nhẹ nhàng trôi xuôi. Những so sánh, liên tưởng giàu hình ảnh đã gợi ra vẻ thơ mộng, yên tĩnh, huyền ảo của sông Đà. Hình ảnh “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp” vừa gợi tả sự trùng điệp của những đồi cỏ gianh nối tiếp nhau đến tận những dãy núi xa xăm, vừa gợi ra hình ảnh sinh sôi, nảy nở, tràn đầy sức sống của những “nõn búp”. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” với hình ảnh so sánh độc đáo vừa gợi tả âm thanh (tiếng quẫy), vừa cho thấy màu sắc (sắc trắng như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình (thon dài như thoi) của những đàn cá dầm xanh quý hiếm và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Đoạn văn đã sử dụng hình ảnh miêu tả tràn đầy sức sống, gợi lên sự trù phú, tô điểm thêm cho vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mĩ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
Sông Đà hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa là một con sông hung bạo gây bao khó khăn, nguy hiểm cho con người Tây Bắc, vừa là một dòng sông rất đỗi trữ tình, tạo nên nét thơ mộng cho cảnh sắc đất nước, Sông Đà quả là “chất vàng” của Tây Bắc. Qua hình tượng Sông Đà, văn phong tài hoa, uyên bác cùng tình yêu đất nước của Nguyễn Tuân thật sự để lại ấn tượng sâu sắc nơi người đọc.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 8
Là người tự do, phóng túng, Nguyễn Tuân quan niệm "đời là một trường du hý", sống là chơi mà viết cũng là chơi. Đi đã trở thành một lý tưởng, một triết lý sống của ông ngay từ thời trai tráng trước Cách mạng. Trong "Vang bóng một thời", thời vàng son mà Nguyễn Tuân nhận thấy có khi là những sinh hoạt bình thường gần gũi xung quanh con người, do hờ hững mà người ta đã vô tình bỏ quên. Đó là những thú chơi tao nhã, những nét đẹp cổ truyền của dân tộc Việt Nam như: uống trà ("Những chiếc ấm đất", "Chén trà trong sương sớm"); uống rượu ("Hương cuội"), chơi đẹp ("Thả thơ", "Đánh thơ", "Một cảnh thu muộn"); hoa tay đẹp ("Trên đỉnh non tản"), tài nghệ đẹp ("Chém treo ngành", "Ném bút chì") và nhân cách đẹp ("Chữ người tử tù") ... những cái đẹp mà con người đã vô tình quên đi và có lẽ đời sau sẽ không biết đến nữa.
Cái đẹp luôn tồn tại muôn đời trong tâm tưởng chúng ta, và cái đẹp của "Vang bóng một thời" như Vũ Ngọc Phan từng nói: "Cái tiếng vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua, mà ngày nay tưởng như văng vẳng". Suốt dọc đường chân trời góc bể, dù lạ người lạ cảnh, nhà văn vẫn có thể chuyển biến thành "quen người quen cảnh". Ấy là nhờ tài quan sát, tỉ mỉ trong từng khâu nhìn ngắm, cảm nhận, ghi chép của ông. Nhà văn nguyện được đi mãi trên con đường vô định: "Tôi sống với ngoài đường, với những con người đi trên đường, với cái luân lý của người khách bộ hành" (Chiếc vali mới). Tâm hồn cô đơn, bất lực và quẩn quanh của ông trước Cách mạng được bộc lộ rõ trong "Thiếu quê hương", khi nhân vật Bạch chỉ luôn thèm muốn được đổi chỗ, rong ruổi trên những con đường dài hun hút, không có chỗ bắt đầu mà cũng chẳng có điểm kết thúc. Họ tha lê cái đầu rỗng tuếch, cái thân tàn tạ trên đường đời, cái phẫn uất ngàn năm không gột rửa, chỉ biết lấy xe dịch làm cứu cánh.
Lướt dài trên hành trình của Nguyên Tuân như thế để mỗi người nhận ra rằng, nhà văn đã "lột xác" thế nào trong "Tùy bút sông Đà" sáng tác năm 1960, khi từ hình ảnh một "Tây Bắc đầy của chìm, của nổi, với những phong cảnh bao la một niềm lãng mạn xã hội chủ nghĩa" với "Với tất cả cái nhộn nhịp tươi trẻ của tất cả con người làm ruộng xã hội chủ nghĩa, làm đường xã hội chủ nghĩa" đã hiện ra dài hun hút trên trang văn sau Cách mạng. Và tiêu biểu trong đó không thể không kể đến tùy bút "Người lái đò sông Đà" với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội song cũng rất trữ tình, thơ mộng.
Nhà văn Pautopxki từng khẳng định: "Nhà văn là người dẫn đường đến xử sở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp." Quả thật vậy, Nguyễn Tuân là một nhà văn chân chính khi dẫn người đọc đến với vẻ đẹp của dòng sông Đà, không chỉ hung bạo dữ dội mà còn rất trữ tình, thơ mộng.
Hình tượng con sông Đà trữ tình hiện lên với ba góc nhìn. Đầu tiên là góc nhìn từ trên cao nhìn xuống khi đi tàu bay, tiếp đến là góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà và của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu; và cuối cùng là góc nhìn của một cố nhân, tình nhân. Nhà văn đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội họa mà tạo hóa ban tặng tô điểm cho đất nước, ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ với phong cách tài hoa. Dù ở góc nhìn nào, nhà văn cũng đều thể hiện được kiến thức phong phú của mình trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, điêu khắc, điện ảnh, lịch sử, hội họa, văn học,... Mỗi câu văn tuôn ra đều giống như một áng tóc dài tha thiết, mượt mà và êm ả đến độ người ta phải bật thốt lên vì tài năng văn chương của người nghệ sĩ họ Nguyễn.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều mà sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người thiếu nữ đang khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân đã nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của con sông Đà tựa như một áng tóc trữ tình buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ. Đẹp lắm, duy dáng lắm! Nhà văn sử dụng câu văn dài, ít ngắt quãng để gợi tả độ dài của sông Đà và mái tóc của người thiếu nữ. Đồng thời sử dụng từ ngữ gợi tả dòng chảy êm đềm của sông Đà mang cái linh hồn của Tây Bắc "Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc cuồn cuộn mùi khói mèo đốt nương xuân". Điệp ngữ "tuôn dài' cùng nhịp văn mềm mại như ru tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển, thướt tha của dòng sông. Phép so sánh dòng sông như một "áng tóc trữ tình" là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh ấy đầy chất thơ, chất họa, chẳng những phô ra được vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, kiêu sa, kiều diễm của dòng sông Đà mà còn bộc lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Dòng Đà giang giờ đây tựa như một nàng thiếu nữ xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa mùa hoa ban, hoa gạo dưới vẻ đẹp bồng bềnh của mây khói. Thần sắc của thiên nhiên nơi đây được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, rất thơ. Khói núi Mèo mà người đồng bào đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến người ta nao lòng đến lạ. Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà hung bạo đến đâu cũng có lúc kiều diễm như cô gái trẻ bùng cháy sức xuân trong khoảnh khắc thanh xuân. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình quyến rũ của đất trời đã ùa về thức dậy trong câu văn của Nguyễn Tuân - "Người thợ kim hoàn của chữ" (Hoài Thanh)
Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà còn được thể hiện ở màu sắc đặc biệt của dòng sông. Mê đắm trước vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra sự thay đổi và biến chuyển của màu nước trên sông. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp lạ lùng, quyến rũ như một mỹ nhân với những điệu nghệ làm say đắm lòng người. Sông Đà luôn làm mới, làm đẹp với chính mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đã say sưa mê đắm, chiêm nghiệm vẻ đẹp của con sông này để cất lên những trang viết như thứ men say gửi đến bạn đọc. Con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn biết bao! "Tôi đã say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống sông Đà", lúc này đây người nghệ sĩ ấy đã phó amwjc thả trôi tâm hồn mình cùng với sóng nước sông Đà, chính vẻ đẹp của mây trời Tây Bắc bung nở hoa đã gieo nên những hạt mầm xanh tốt tạo nên cái sắc riêng không trộn lẫn của thiên nhiên nơi đây Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy dòng sông Hương với ánh nắng ban mai rực rỡ tạo nên cái sắc "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím", tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên đôi bờ và sự phản quang của đất trời vạn vật để tạo nên một đóa hoa phù dung mĩ miều, thì Nguyễn Tuân lại viết về sông Đà với những cảm quan nhạy bén.
Mùa xuân nước sông Đà xanh ngọc bích chứ không "xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô". Cũng là xanh đấy, nhưng xanh ở đây là sự kết đọng của vẻ đẹp toàn bích, trong sáng, xanh một màu xanh gợi cảm, trong lành, rung rinh trong nắng sớm mà lấp loáng bóng cây rợp quang dòng sông. Sắc xanh ấy phải chăng là cái điệu xanh của xanh cây, xanh rừng, xanh núi, xanh mây trời, xanh như cái sức mạnh kì diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Mùa thu, nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"; "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội mỗi độ thu về'. Câu văn sử dụng phép so sánh đặc sắc khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của màu nước sông Đà. Lần đầu tiên có người dùng màu sắc của da người để miêu tả vẻ đẹp của dòng sông. Cái màu đỏ "lừ lừ" ấy có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm mới viết nên được. Nó chỉ có thể tạo nên từ bàn tay của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác. Đặc biệt, phải khẳng định rằng, dù có đa sắc màu nhưng nước sông Đà chưa bao giờ màu đen như bọn "thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ thức mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu". Qua những câu văn miêu tả về màu nước sông Đà, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được cái trữ tình, thơ mộng của dòng nước còn cả cái dữ dội ngàn đời của con sông nơi đầu tổ quốc. Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế giới thiên nhiên rộng mở, tươi đẹp sống động và giãy giụa trên trang giấy, những trang viết ấy tựa như "một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm".
"Con sông Đà gợi cảm" - câu văn như một lời khẳng định chắc chắn. Qua góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà, của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu và góc nhìn của cố nhân, sông Đà hiện lên bởi những hình ảnh của quá khứ hiện tại và tương lai với điểm nhìn cận cảnh. Trong tầm mắt người thưởng ngoạn, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, "đối với mỗi người, sông Đà gợi một cách". Và đối với nhà văn, đã có lần ông nhìn sông Đà như một cố nhân, như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Nhà văn kể rằng: chuyến ấy, ông đi rừng núi cũng hơi lâu, và khi về, nhìn thấy sông Đà loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy, từ xa lại gần, ông háo hức như tìm lại được người tri kỉ cũ. Một màu nắng tháng ba Đường Thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" hiện lên trang văn, nhưng cũng như một bức vẽ nắng sinh động, ta cũng như thấy vui khi nghĩ đến cảnh tượng nắng lấp lánh trải lên nước sông xanh biếc. Và ta lại chẳng lạ gì khi cảm nhận được niềm vui sum vầy "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Lòng ta cũng rộn rã "giòn tan" như nắng, lòng ta cũng như đi vào cơn mộng đẹp vô ngần trong giấc say. Và khi ấy, cảm giác của người đi xa về nhận mặt từng cảnh vật, từ "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà" thật sự khiến người nghệ sĩ phải đắm say: "đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dù người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy". Sông Đà đã trở thành người bạn thủy chung, nặng tình nặng nghĩa luôn đợi người lữ khách Nguyễn Tuân.
Leonit Leonop đã từng khẳng định: "Một tác phẩm phải là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung." Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của con sông, Nguyễn Tuân còn đưa người đọc lạc vào thế giới cổ tích, thế giới tiền sử. Câu văn "thuyền tôi trôi trên sông Đà" toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: "Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi." Sự yên tĩnh, "lặng tờ" ấy càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa". Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thủy của buổi sơ khai. Hai chữ "lặng tờ" được nhắc đi nhắc lại tới hai lần theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ, không gian vắng lặng nhưng không thể "lặng tờ" hơn được nữa. Du khách đang đi thuyền trên quãng sông này nhưng lại có cảm giác mình đang đi ngược về quá khứ xa xôi.
Theo dòng trôi của con thuyền, người đọc đi vào thế giới hoang sơ, tĩnh mịch, bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô "nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa", đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên "mà không một bóng người". Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những "nõn búp" ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu "hoang dại" và "cổ tích". Không phải chú nai vàng ngơ ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào mà ở đây chỉ có: "Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm". "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa". Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. "Bờ tiền sử", "nỗi niềm cổ tích xưa" là chữ của nhà văn bậc thầy ngôn ngữ này. Nhà văn không dựa vào trực giác để so sánh, ông đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kỳ thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp "hoang dại" và hồn nhiên" của Đà giang. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà "Dải Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình" của một người tình nhân chưa quen biết càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút. Áng văn sông Đà thơ mộng trữ tình tựa như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn.
Quãng hạ nguồn với khúc sông êm đềm, trở thành dòng sông thi ca với cái nắng tháng ba Đường thi, với cái nắng giòn tan sau ki mưa dầm, với cả cái nắng rực rỡ đã chiếu rọi "xuyên tim" những người đọc tùy bút của Nguyễn Tuân. Người ta đã không thể nhìn ngắm hết cái vẻ đẹp trù phú của sông Đà đến thế nếu không được nhà văn mở đường đi tìm cái đẹp, dù cái đẹp ấy còn hoang sơ của đất trời Tây Bắc.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 9
Nguyễn Tuân là nhà văn yêu thiên nhiên, cái đẹp. Các tác phẩm của ông chứa đầy những hình ảnh sống động về con người và thiên nhiên, với trọng tâm là ca ngợi cái trước. Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Tuân phải kể đến là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm này, con sông Đà được nhìn lên vừa dữ dội vừa hiền hòa, hệt như một dòng sông Tây Bắc xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm, nhiều góc độ khác nhau nên có rất nhiều cách cảm nhận về hình dáng con sông này. Khi ngồi trên máy bay nhìn xuống, nhà văn nhận thấy dòng sông như một cái dây thừng ngoằn ngoèo trải ra trên một đại dương núi đá. Hình ảnh này giúp người đọc hình dung được toàn cảnh về độ lớn, độ hoành tráng của dòng sông, nó uốn lượn trải dài gần như toàn bộ vùng Tây Bắc.
Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì không có gì xứng đáng với tình yêu của tác giả, chính dòng sông này lại mang trong mình một vẻ đẹp khác, vô cùng thơ mộng, trữ tình làm xao xuyến lòng người: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Câu văn dài chỉ một dấu ngắt tay duy nhất kết hợp với điệp từ "tuôn dài" khiến Sông Đà hiện lên như một người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trữ tình, trẻ trung, duyên dáng, bồng bềnh giữa núi rừng.
Nếu ở trên thượng nguồn, dòng sông hung bạo bao nhiêu thì về đến hạ nguồn dòng sông lại trở nên đằm thắm, dịu dàng bấy nhiêu. Bản thân dòng sông đã mang vẻ đẹp quyến rũ nhưng tác giả còn tô điểm thêm màu sắc, đường nét cảnh vật xung quanh. Sắc xanh của dòng sông càng trở nên nổi bật giữa sắc trắng tinh khôi của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng người của hoa gạo, bức tranh đó lại được ẩn hiện trong lớp sương khói núi Mèo càng tạo nên vẻ đẹp mơ màng, huyền áo, đầy bí ẩn. Đoạn văn còn thể hiện tài hoa của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ giữa hai chữ "tuôn dài" thường sẽ có một dấu phẩy nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để tô đậm ấn tượng về cái mênh mang, trải dài, mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Câu văn còn sử dụng nhiều thanh bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy êm đềm, nhẹ nhàng. Chính những nét phá vỡ đấy đã cho người đọc thấy được sự say mê của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của đất nước. Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp nhất được coi là "tờ hoa" trong nền văn học Việt Nam.
Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường phát hiện nước Sông Hương thay đổi theo thời gian trong ngày "Sớm xanh trưa vàng chiều tím" thì Nguyễn Tuân lại nhìn thấy nước Sông Đà thay đổi theo mùa trong năm. Mùa xuân "Sông Đà mang sắc xanh ngọc bích". Ẩn đằng sau hình ảnh miêu tả tưởng chừng như đơn giản ấy là vẻ đẹp của nước, về độ trong cũng như ánh sáng trên dòng sông. Bởi để có thể tạo nên sắc xanh đẹp đẽ như sắc ngõ thì đòi hỏi dòng nước phải đạt đến độ trong vắt, dòng chảy êm đềm, ngoài ra còn có ánh sáng chan hòa rực rỡ. Bằng sự từng trải của một người ham mê phong cách xê dịch, nhà văn đã nhận thấy cùng là sắc xanh nhưng chỉ nước sông Đà về mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và đẹp như thế, còn các dòng sông khác như sông Lô, sông Gâm lại mang màu xanh cánh hến.
Về mùa thu nước sông Đà lại biến đổi hoàn toàn, không còn là màu xanh mà chuyển sang "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về". Câu văn gợi ra một dòng sông chảy chậm, nhẹ nhàng với màu đỏ của phù sa nặng trĩu. Sắc đỏ của dòng sông được miêu tả không chỉ ở bề mặt mà còn ở sâu trong tâm trạng, ở sự bất mãn, bực bội mà phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu được. "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo" vì thế mà Nguyễn Tuân đã có một phép so sánh trường nghĩa đầy táo bạo màu sắc sông giống với màu bệnh lý của khuôn mặt người. Bằng tình yêu của một người say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng thắn phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã gọi sông Đà là sông Đen. Nhà văn đã trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của con sông xứ sở và niềm tự tôn dân tộc sâu sắc.
Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không đơn thuần chỉ là quan hệ giữa nhà văn với đối tượng được miêu tả mà còn là giữa những người bạn tri ân, tri kỷ. Tác giả đã dùng một từ rất thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là "cố nhân". Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở nơi thượng nguồn. Về đến thượng nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng, đằm thắm, trở thành một người bạn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người. Bởi vậy, khi xa dòng sông nhà văn nhớ nó như một người bạn thân thiết. Tác giả dành cho dòng sông một nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa tràn ra bề mặt câu chữ.
Nắng chiếu trên dòng sông Đà đẹp đến mê hồn. Nguyễn Tuân đã tạo ra một kết hợp từ độc đáo "Nắng tháng ba Đường thi", trong câu văn có cả màu sắc, thời gian và thi ca. Căn văn đưa người đọc trở về với vẻ đẹp lãng mạn trong thơ Đường " Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Ấn tượng để lại trong lòng người đọc là hình ảnh dòng sông phẳng lặng, yên bình, trong sáng và đầy sắc xuân. Cảm xúc được bộc lộ trực tiếp bằng hình ảnh so sánh độc đáo "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được đem ra so sánh có sự đối lập nhau. "Nắng giòn tan" là hình ảnh ẩn dụ gợi ra cái nắng trong trẻo, nhẹ nhàng hoàn toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời ngày mưa dầm. Đặc biệt "nối lại chiêm bao đứt quãng" là việc gần như không thể có trong đời và nó hi hữu, hiếm hoi bao nhiêu thì đem lại cảm giác sung sướng bấy nhiêu. Cuối cùng, Nguyễn Tuân nhấn mạnh lại một lần nữa cảm giác gặp lại sông Đà bằng hình ảnh so sánh "nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân". Hai từ láy liên tiếp gợi cảm giác ấm áp, trìu mến. Sông Đà trở thành người bạn cũ với bao kỉ niệm, tình yêu thương và nhớ nhung. Hình ảnh dòng sông mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, vừa mãnh liệt, vừa hết sức nhân văn đó là tính trữ tình toát lên từ tâm hồn, tính cách của dòng sông hạ nguồn.
Từ điểm nhìn của mình, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ cảnh vật ven sông. Một vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn đó dấu tích lịch sử của ông cha ta để lại "cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến như thế". Hai hình ảnh so sánh độc đáo đặt cạnh nhau "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa" gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo và tĩnh lặng đến tuyệt đối của dòng sông Đà. Chất trữ tình còn được thể hiện rõ nét qua cảnh vật như "nương ngô nhú lên mấy lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, con hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh". Chỉ vài chi tiết nhỏ nhưng tạo ra ấn tượng về sự tràn đầy sức sống của những bờ đê dọc con sông Đà. Cảnh vật nối tiếp nhau tạo nên một bức tranh thơ mộng, trữ tình bình yên. Biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến" đã khẳng định không gian thanh bình vắng vẻ nơi đây. Tác giả đã chứng minh được vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca.
Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà tuyệt đẹp bằng cách sử dụng cảm nhận tinh tế, giác quan nhạy bén, ngôn từ độc lạ và một lối viết tài hoa. Ông đã biến hình ảnh dòng sông trở thành một biểu tượng thể hiện niềm tự hào về thiên nhiên cây cỏ, sông núi và khát khao tìm thấy cái đẹp. Bài tùy bút "Người lái đò sông Đà" là một câu chuyện hiện thực về thiên nhiên và nguồn cảm hứng mãnh liệt say mê với nó của Nguyễn Tuân. Đặc sắc nghệ thuật của nó với nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú đã làm cho sông Đà trong văn học mãi mãi trở thành một địa danh nghệ thuật.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 10
Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.
“Người lái đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên vùng núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đặc biệt là trong chuyến đi vào năm 1958, Nguyễn Tuân được sống hòa mình với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn để ông sáng tác.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống - với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh “sông Đà như một áng tóc” kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà - của người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.
Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.
Tác giả đã quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” - Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.
Cảnh vật hai bên bờ sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc - nơi khởi nguồn cho tình yêu đất nước.
Đoạn trích được khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà - Bài làm 11
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa. Trong các tác phẩm của ông, Người lái đò sông Đà đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm đã ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Nổi bật nhất là hình tượng con sông Đà với vẻ thơ mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát qua câu văn: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nhà văn tinh tế sử dụng biện pháp tu từ so sánh kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài” để khắc họa hình ảnh con sông dài vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh của núi rừng. Từ “áng” thường được sử dụng để nói về áng thơ, áng văn. Ở đây, tác giả lại sử dụng là “áng tóc trữ tình”. Cách kết hợp từ độc đáo, thú vị đã gợi ra hình ảnh dòng sông như một người thiếu nữ trẻ trung với mái tóc dài thật đẹp đẽ. Và không chỉ có vậy, điểm lên “áng tóc” là những bông hoa gạo đỏ rực hai bên bờ sông - khiến ta hình dung rằng mái tóc như được trang trí với hoa ban trắng tinh, họa gạo đỏ rực.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân miêu tả qua màu sắc của nước sông: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nhà văn kiên nhẫn quan sát, khéo léo trong cách miêu tả sự thay đổi của màu nước sông Đà trong từng khoảng thời gian. Mùa xuân, nước sông mang màu “xanh ngọc bích” - vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Đến mùa thu thì nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Nhưng nước sông Đà không có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ” - câu văn không chỉ nói về màu nước sông mà còn kín đáo gửi gắm tấm lòng tự yêu nước của nhà văn.
Tiếp đến, Nguyễn Tuân ví con sông giống như “một cố nhân” - người bạn cũ, từng rất thân thiết đã lâu không gặp, nay được gặp lại cảm thấy vui mừng khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng, nhà văn cảm nhận được vẻ đẹp mang đậm dấu ấn cổ điển của Đường thi: “Yên ba tam nguyệt há dương châu”. Đặc biệt là những câu văn diễn tả được niềm vui của tác giả khi gặp lại sông Đà: “Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Câu văn diễn tả tâm trạng vui mừng, sung sướng của nhân vật trữ tình.
Nguyễn Tuân còn so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn khéo léo dùng không gian để gợi mở thời gian. Hình ảnh “một bờ tiền sử” hay “một nỗi niềm cổ tích thời xưa” nhằm thể hiện vẻ đẹp hoang sơ của con sông. Thiên nhiên hai bên bờ sông Đà tràn đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cùng với “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Sông Đà qua cái nhìn của Nguyễn Tuân không chỉ là một con sông hung bạo, dữ dội. Mà nó còn mang nét đẹp đầy thơ mộng, nhẹ nhàng.
Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung
III. Lịch thi THPT Quốc Gia 2024
Xem chi tiết lịch thi: Lịch thi THPT Quốc Gia 2024
Từ khóa » Bờ Sông Hoang Dại Như Một Bờ Tiền Sử. Bờ Sông Hồn Nhiên Như Một Nỗi Niềm Cổ Tích Tuổi Xưa
-
Trong Bài Tùy Bút Người Lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã Có Những ...
-
Câu Văn "Bờ Sông Hoang Dại Như Một Bờ Tiền Sử. Bờ Sông Hồn ...
-
ĐỌC – HIỂU ( 2.0 điểm) Cho Văn Bản Sau: “Thuyền Tôi Trôi Trên Sông ...
-
Câu Văn "Bờ Sông Hoang Dại Như Một Bờ Tiền Sử ... - Cungthi.online
-
Phân Tích Chi Tiết đôi Bờ Tiền Sử (2 Mẫu) - Văn 12
-
Phân Tích đoạn Văn... - Hội Những Người Thi Đại Học Khối D
-
Nêu Cảm Nhận Về Vẻ đẹp đoạn... - Văn Học Và Những Cảm Nhận
-
Bình Giảng đoạn Văn Sau Trong Người Lái đò Sông Đà
-
[DOC] Cảm Nhận Của Anh/chị Về Vẻ đẹp Dòng Sông Đà Trong đoạn Văn Trên ...
-
Nêu Nét đặc Sắc Trong Câu Văn Bờ Sông Hoang Dại Như Một Bờ Tiền ...
-
Bộ đề Đọc Hiểu Người Lái đò Sông Đà - Top Lời Giải
-
Phân Tích Hình Tượng Con Sông Đà Trong Người Lái đò Sông Đà
-
Xác định đúng Vấn đề Cần Nghị Luận Hình Tượng Sông Đà Trữ Tình ...
-
Top 13 Bài Phân Tích Hình Tượng Con Sông Đà Trong Người Lái đò ...