Phần VI- Diệt Phiền Não - Kinh Sách _ Dạng .Doc

Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VII_2 Pháp hành Thiền Tuệ
  • * Mục lục-Lời tựa
  • Phần I- Bắt đầu và cuối cùng của pháp hành Thiền Tuệ
    • -Sơ lược tiểu sử cảu Đúc Phật Gotama
    • - Chuyển Pháp luân
    • -Sự thật (Sacca)
    • - Đối tượng Paramattha
    • -Thuyết Pháp (DESANĀ)
  • Phần II- Pháp Hành (Bhāvanā)
    • - Pháp hành thiền định
    • - Pháp hành thiền Tuệ; Danh; Sắc
    • -Thiền Tuệ: 3 trạng thái chung
    • -Thiền Tuệ: Tứ Thánh đế
    • - Bốn Thánh đạo; Niết bàn...
  • * Phần III- Pháp hành Tứ niệm xứ
  • Phần IV- Tứ oai nghi
    • - Pháp học; Pháp hành Tứ oai nghi
    • -Chánh Niệm, Trí Tuệ Tỉnh Giác
  • Phần V- Kết quả của pháp hành thiền Tuệ
    • - Kết quả của pháp hành thiền Tuệ
    • - Két quả: Trí tuệ Thiền tuệ thứ tư...
    • - Kết quả: Trí tuệ thiền Tuệ Thứ Sáu...
    • -Trí tuệ Thiền Tuệ thứ Mười Hai
  • * Phần VI- Diệt phiền não
  • * Phần VII- Bảy pháp thanh tịnh
  • * Phần VIII- Quả báu đặc biệt của thiền Tuệ
  • * Phần IX- Sự khác biệt giữa Thiền Định và Thiền Tuệ
  • Phần X- Những Pháp nên biết
    • - Sáu Pháp Chướng Ngại (Nīvaraṇa)
    • - Ngũ Uẩn Tà Kiến
    • - Danh Pháp, Sắc Pháp
    • - Pháp hành Giới Định Tuệ
    • - Đức Phật Xuất Hiện Trên Thế Gian
    • - Bậc Thánh Arahán
  • ** Đoạn kết

Phần VI.

Diệt phiền não (Kilesapahāna)

Phiền não dịch từ tiếng Pāḷi: Kilesa.

Kilesa: phiền não là những bất thiện tâm sơû đồng sanh với những bất thiện tâm làm cho thân tâm nóng nảy, khó chịu, khổ thân, khổ tâm; phiền não còn làm cho tâm, tâm sở bị ô nhiễm, khiến tạo nghiệp do thân, khẩu, ý.

Phiền não có 10 loại:

1- Tham: Đó là tham tâm sở đồng sanh với 8 tham tâm có trạng thái tham muốn, hài lòng say mê trong đối tượng.

2- Sân: Đó là sân tâm sở đồng sanh với 2 sân tâm, có trạng thái hung dữ, tàn bạo, không hài lòng nơi đối tượng.

3- Si: Đó là si tâm sở đồng sanh với 12 bất thiện tâm, có trạng thái si mê không biết thực tánh của các pháp.

4- Tà kiến: Đó là tà kiến tâm sở đồng sanh với 4 tham tâm hợp tà kiến, có trạng thái thấy sai, chấp lầm trong đối tượng.

5- Ngã mạn: Đó là ngã mạn tâm sở đồng sanh với 4 tham tâm không hợp tà kiến, có trạng thái so sánh "Ta" hơn người, bằng người, kém thua người.

6- Hoài nghi: Đó là hoài nghi tâm sở đồng sanh với si tâm hợp hoài nghi, có trạng thái hoài nghi nơi đối tượng.

7- Buồn chán:Đó là buồn chán tâm sở đồng sanh với 4 tham tâm và 1 sân tâm (loại tâm cần động viên), có trạng thái không hăng hái, buông bỏ đối tượng.

8- Phóng tâm: Đó là phóng tâm tâm sở đồng sanh với 12 bất thiện tâm, có trạng thái không an trụ ở đối tượng.

9- Không hổ thẹn: Đó là không hổ thẹn tâm sở đồng sanh với 12 bất thiện tâm, có trạng thái không biết hổ thẹn với mình, khi hành ác.

10- Không ghê sợ: Đó là không ghê sợ tâm sở đồng sanh với 12 bất thiện tâm, có trạng thái không biết ghê sợ tội lỗi, khi hành ác.

Đó là 10 loại phiền não, mỗi khi có phiền não nào phát sanh trong bất thiện tâm không những làm cho tâm bị ô nhiễm, nóng nảy, mà còn làm cho thân cũng nóng nảy, khó chịu, mặt mày mất vẻ tự nhiên, không còn tươi tỉnh....

Tính chất phiền não – pháp diệt phiền não

Tính chất của phiền não có 3 loại và diệt chúng bằng 3 pháp:

1- Vitikkamakilesa: phiền não loại thô được biểu hiện ra ở thân hành ác như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm; và khẩu nói ác như: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.

Phiền não loại thô này có thể diệt bằng pháp hành giới, nghĩa là có tác ý thiện tâm (kusalacetanā) giữ gìn thân, khẩu tránh xa mọi hành ác, để làm cho thân và khẩu được trong sạch khỏi bị phiền não làm ô nhiễm.

Pháp hành giới có thể diệt từng thời (tadaṅgapahāna) được phiền não loại thô này, không hiện ra ở thân và khẩu.

2- Pariyuṭṭhākilesa: phiền não loại trung phát sanh ở trong tâm, đó là 5 pháp chướng ngại (nivāraṇa): tham dục, thù hận, buồn chán-buồn ngủ, phóng tâm-hối hận và hoài nghi.

Phiền não loại trung này có thể diệt bằng pháp hành thiền định.

Khi hành giả chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, do nhờ 5 chi thiền (hướng tâm, quan sát, hỉ, lạc, nhất tâm) có thể diệt bằng cách đè nén, chế ngự phiền não loại trung này.

3- Anusayakilesa: phiền não cực kỳ vi tế ẩn tàng ngấm ngầm ở trong tâm thức, đó là 7 pháp ngủ ngầm trong tâm: ái dục ngủ ngầm, ái kiếp ngủ ngầm, ngã mạn ngủ ngầm, tà kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm và vô minh ngủ ngầm.

Phiền não loại vi tế này chỉ có thể diệt bằng pháp hành thiền tuệ.

Hành giả tiến hành thiền tuệ đến khi trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới đó là chứng đắc 4 Thánh Đạo Tuệ, mới có thể diệt đoạn tuyệt được loại phiền não vi tế này.

Phiền não tính rộng có 1.500 loại:

Phiền não có 10 loại này, khi chúng liên quan đến đối tượng làm nhân duyên để phát sanh phiền não, tính rộng có 1.500 loại phiền não.

Cách tính như sau:

75 pháp có thể làm đối tượng của phiền não: Tâm tính là 1 pháp (vì cùng có một trạng thái biết đối tượng). Tâm sở tính 52 pháp (vì mỗi tâm sở có mỗi trạng thái riêng biệt). Sắc pháp chỉ có 18 sắc pháp hiện hữu thật rõ ràng; và trạng thái của sắc pháp có 4 pháp.

Như vậy, gồm có (1+52+18+4) = 75 pháp có thể làm đối tượng của phiền não.

75 pháp này làm đối tượng của phiền não bên trong mình, là kẻ thù bên trong.

75 pháp này làm đối tượng của phiền não bên ngoài mình, là kẻ thù bên ngoài.

Đối tượng của phiền não bên trong mình có 75 pháp và bên ngoài mình có 75 pháp gồm cả thảy 150 pháp, nhân với 10 loại phiền não (tham, sân, si, tà kiến, ngã mạn, hoài nghi, buồn chán, phóng tâm, không hổ thẹn, không ghê sợ) (150 x 10) thành 1.500 loại phiền não.

Thật ra, 10 loại phiền não trong bất thiện tâm mới làm cho tâm bị ô nhiễm, làm cho tâm nóng nảy, khó chịu, khổ tâm, khổ thân.

Phiền não làm nhân tạo nghiệp

- Phiền não làm nguyên nhân trực tiếp tạo mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

- Phiền não làm nguyên nhân gián tiếp tạo mọi thiện nghiệp trong tam giới (do vô minh làm duyên nên tạo mọi thiện nghiệp).

Hễ còn phiền não, còn nghiệp thì còn phải tái sanh kiếp sau, tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài vô thủy vô chung.

Hễ còn phiền não thì còn phải chịu khổ tâm.

- Đối với hạng phàm nhân còn đầy đủ 10 loại phiền não; phiền não có nhiều năng lực, sự khổ tâm càng nhiều, thì sự an lạc rất ít.

- Đối với bậc Thánh Hữu Học (bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai) còn lại ít phiền não chừng nào, sự khổ tâm có ít chừng ấy, thì sự an lạc càng nhiều.

- Đối với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, tham ái, ác pháp không còn dư sót, hoàn toàn không có khổ tâm, thì tâm luôn luôn được an lạc hoàn toàn. Song chỉ còn có khổ thân mà thôi, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn chấm dứt sự tử sanh luân hồi, mới hoàn toàn giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, chư bậc Thánh nhân ca tụng Niết Bàn an lạc tuyệt đối.

Năm Cách Diệt Phiền Não

Diệt phiền não có 5 cách, bằng 5 pháp :

1- Vikkhambhanapahāna: Diệt phiền não bằng cách chế ngự, do năng lực thiền định. tâm thiền định này có khả năng chế ngự (đè nén) được phiền não loại trung.

2- Tadaṅgapahāna: Diệt phiền não bằng cách từng thời, do có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận trực giác nơi danh pháp, sắc pháp và do trí tuệ thiền tuệ từ trí tuệ thứ nhất (nāmarūpaparicchedañāṇa), cho đến trí tuệ thiền tuệ thứ 12 (anulomañāṇa). Những trí tuệ thiền tuệ này có khả năng diệt từng thời tâm tham, tâm sân, tâm si.

3- Samucchedapahāna: Diệt phiền não bằng cách diệt đoạn tuyệt, do năng lực của 4 Thánh Đạo Tuệ, nhờ có Niết Bàn làm đối tượng. Mỗi Thánh Đạo Tuệ có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt loại phiền não nào xong rồi, loại phiền não ấy vĩnh viễn không bao giờ có thể phát sanh lên được nữa.

4- Paṭipassaddhipahāna: Diệt phiền não bằng cách vắng lặng, do năng lực 4 Thánh Quả Tuệ, nhờ có Niết Bàn làm đối tượng. Mỗi Thánh Quả Tuệ có khả năng đặc biệt làm vắng lặng phiền não theo năng lực Thánh Quả Tuệ ấy, để hưởng sự an lạc tuyệt đối.

5- Nissaraṇapahāna: Diệt phiền não bằng cách giải thoát khỏi Khổ Thánh Đế, do nhờ chứng ngộ Niết Bàn, pháp diệt Khổ Thánh Đế.

Chú ý: Xem lại mỗi Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được tham ái, phiền não, ác pháp đã trình bày ở mục "Diệt Đoạn Tuyệt Phiền Não" trong phần Pháp Hành Thiền Tuệ (trang 203 đến 211).

Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt phiền não

Vấn: Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt phiền não trong quá khứ, hay diệt đoạn tuyệt phiền não trong vị lai, hay diệt đoạn tuyệt phiền não đang trong hiện tại?

Đáp: Thánh Đạo Tuệ không phải diệt đoạn tuyệt phiền não trong quá khứ, cũng không phải diệt đoạn tuyệt phiền não trong vị lai, và cũng không phải diệt đoạn tuyệt phiền não đang trong hiện tại. Vì những lý do như sau:

- Phiền não nào đã sanh trong quá khứ, phiền não ấy đã diệt trong quá khứ rồi, không dư sót lại trong hiện tại. Phiền não nào đã diệt rồi, chẳng lẽ Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt phiền não ấy được hay sao!

Do đó, Thánh Đạo Tuệ không phải diệt đoạn tuyệt phiền não trong quá khứ.

- Phiền não nào sẽ sanh trong vị lai, phiền não ấy chưa phát sanh. Phiền não nào chưa sanh, chẳng lẽ Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt phiền não ấy được hay sao!

Do đó, Thánh Đạo Tuệ không phải diệt đoạn tuyệt phiền não trong vị lai.

- Phiền não nào đang sanh trong hiện tại. Nghĩa là phiền não ấy đang đồng sanh với bất thiện tâm, thì khi ấy, Thánh Đạo Tuệ không thể phát sanh lên, thì làm sao diệt đoạn tuyệt phiền não ấy đang sanh trong hiện tại được!

Do đó, Thánh Đạo Tuệ không phải diệt đoạn tuyệt phiền não trong hiện tại.

Sự thật, thì có Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt phiền não, có Thánh Quả Tuệ, có sự chứng ngộ Niết Bàn.

Ví dụ:

Có một cây ăn quả, đã từng cho quả trong quá khứ, đang cho quả trong hiện tại và cũng sẽ cho quả trong vị lai.

Người ta đốn cây ăn quả ấy, đào gốc, chặt hết rễ, đem phơi khô, đốt thành tro. Như vậy, những quả nào đã từng có trong quá khứ, thì những quả ấy đã ăn hết rồi; những quả nào sẽ sanh trong vị lai, thì những quả ấy sẽ không bao giờ có được ở vị lai nữa; những quả nào đang cho quả trong hiện tại, thì những quả ấy không còn nơi nương nhờ để cho quả nữa.

Cũng như vậy, sự sanh của danh pháp, sắc pháp, là nhân, là duyên để cho tất cả mọi phiền não nương nhờ nơi danh pháp, sắc pháp mà sanh lên.

Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi nào Thánh Đạo Tuệ phát sanh, có Niết Bàn làm đối tượng (không có danh pháp nào, cũng không có sắc pháp nào làm đối tượng). Do đó, phiền não nào đã từng sanh trong quá khứ, thì đã diệt trong quá khứ rồi, không còn dư sót lại trong hiện tại. Ngay hiện tại, Thánh Đạo Tuệ có Niết Bàn làm đối tượng, nên phiền não không những không thể nương nhờ vào nơi nào để phát sanh được, mà còn bị diệt đoạn tuyệt bằng Thánh Đạo Tuệ, nhờ có Niết Bàn làm đối tượng. Phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt được bằng Thánh Đạo Tuệ nào rồi, loại phiền não ấy, vĩnh viễn không bao giờ phát sanh trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai.

Do đó, có Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt phiền não, có Thánh Quả Tuệ, có sự chứng ngộ Niết Bàn.

Trí tuệ thiền tuệ với Pháp Thanh Tịnh

Hành giả tiến hành thiền tuệ, mục đích để mong chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được mọi tham ái, phiền não, ác pháp, ngõ hầu mong giải thoát mọi cảnh khổ trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới.

Như vậy, hành giả cần phải thực hành theo pháp hành Giới - Định - Tuệ; với điều kiện Pháp hành giới, Pháp hành thiền định, Pháp hành thiền tuệ phải hoàn toàn trong sạch thanh tịnh, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, Pháp hành Giới - Định - Tuệ, ở trong "Bảy Pháp Thanh Tịnh" (Visuddhi).

7 pháp thanh tịnh (visuddhi)

1- Giới thanh tịnh.

2- Định thanh tịnh.

3- Chánh kiến thanh tịnh.

4- Thoát ly hoài nghi thanh tịnh.

5- Đạo phi đạo tri kiến thánh tịnh.

6- Pháp hành tri kiến thanh tịnh.

7- Tri kiến thanh tịnh.

 

 

 

Từ khóa » Các Loại Phiền Não