Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang Văn 7 - 6 Bài

Tác giả của bài thơ Qua Đèo Ngang là Bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng là nhà thơ lỗi lạc, tinh tế lúc bấy giờ. Tại bài viết này, Lambaitap.edu.vn sẽ đem đến các bạn học sinh 6 bài văn mẫu phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang lớp 7 siêu hay.

Dàn ý cảm nghĩ của em về bài thơ Qua Đèo Ngang

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả của bài thơ qua đèo ngang. Nêu cảm nghĩ chung về bài thơ.

2. Thân bài

a. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang: 2 câu đề

– Thời điểm nhà thơ đặt chân đến đèo Ngang là lúc chiều tà

– Cảnh vật tiêu điều, gợi nỗi buồn trong lòng người lữ khách 

– Quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ hoang sơ và căng đầy sức sống của đèo Ngang thông qua điệp từ chen và hai vế đối “cỏ cây chen đá lá chen hoa”

=> Cảnh đẹp nhưng vẫn đượm buồn, cô quanh của  miền sơn cước.

b. Cảm nghĩ về bài Qua Đèo Ngang: 2 câu thực

– Đảo ngữ-> nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ.

– Hình ảnh ngôi chợ là biểu tượng sung túc của một vùng quê nhưng ở đây, chợ chỉ là lác đác vài túp lều tranh mỏng manh xiêu vẹo ven sông.

=> Không khí ảm đạm vắng vẻ, hiu quạn bao trùm lên toàn cảnh vật.

c. Cảm nghĩ về hai câu luận

– Tiếng cuốc kêu khắc khoải lúc chiều buông càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng.

– Có thể là tiếng cuốc kêu mà cũng có thể là tiếng vọng từ trong tâm tưởng hoài cổ của nữ sĩ đang nuối tiếc thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.

– Nghệ thuật đối câu (câu 5 với câu 6) rất chỉnh, kết hợp với lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa tài tình, tô đậm ý nghĩa tượng trưng của hai câu luận.

d. Cảm nghĩ của em về bài Qua Đèo Ngang:  2 câu kết

– Vẻ đẹp của Đèo Ngang thật hùng vĩ làm nữ sĩ phải dừng chân chiêm ngưỡng, để thu hết vẻ đẹp huyền ảo ấy vào tâm hồn.

– Sự tương phản giữa cảnh vật và lòng người có: thiên nhiên cao rộng><con người bé nhỏ.

– Sự tương phản càng làm nổi bật nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng người.

– Đau buồn không thể sẻ chia nên nó dồn lại trong tim và hình thành nên một tình yêu riêng, chỉ có ta với ta mà thôi.

3. Kết bài

– Qua Đèo Ngang được coi là bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng của nữ sĩ và tình yêu non sông đất nước.

– Thể thơ Đường luật tao nhã, vì ngôn ngữ trong sáng, hình ảnh quen thuộc, giản dị nên đã trở nên bình dân, dễ hiểu.

 – Bài thơ có sức sống bất diệt trước thời gian và trong lòng bao thế hệ người yêu thơ.

Bài làm 1: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang lớp 7

“Qua đèo ngang” là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Bằng giọng văn tinh tế, điêu luyện, tác giả đã cho độc giả trải nghiệm những màu sắc, hình ảnh gần gũi mà nên thơ. Đồng thời, ta cũng của nhận được tâm ý của tác giả ẩn chứa trong từng câu chữ

Được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ “Qua đèo ngang” được mở đầu bằng hai câu đề:

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Chỉ hai câu thơ ngắn, tác giả đã nói được thời gian, địa điểm và cả quang cảnh nơi tác giả đang đặt chân đến. Cảnh vật được nhắc đến thật tự nhiên vì tác giả chỉ “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình chứ không hề có ý làm thơ. Cái “bóng xế tà” gợi một nỗi cô đơn, buồn man mác, lại cũng có chút tiếc nuối về một ngày sắp qua đi ẩn chứa trong câu chữ. Ở đèo ngang, “cỏ cây chen lá, đá chen hoa”. Thiên nhiên, thực vật ở đây được nhân hóa “chen” nhau tạo cảm giác xô bồ, đông đúc mà sống động đến lạ. Cây cỏ, đến hòn đá cũng tràn đầy năng lượng. Sức sống mãnh liệt của chúng trong cảnh chiều tàn lại khiến cho tác giả mơ hồ có thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đã ở trên cao, nhìn xuống phía dưới đèo Ngang, phóng xa tầm mắt và nhìn vạn vật dưới đèo. Không chỉ còn là cây cỏ, đá núi mà ở đây, tác giả còn thấy cả người, cả nhà. Tức là sự sống vẫn tồn tại nơi đây, không kém gì cây cỏ. Thấp thoáng bóng dáng con người đang chăm chỉ làm việc:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ với những từ láy để thể hiện hai câu thơ này. Nhưng dường như, sự sống con người ở đây thật hiu hắt, chỉ “lom khom” làm việc, còn “lác đác” nhà ở. Cảnh vật thật ảm đạm, thê lương. Giữa cảnh vật hùng vĩ, con người thật nhỏ bé, dường như thiên nhiên đã “nuốt trọn” lấy con người.

Tiếp theo, hai câu luận là nỗi buồn được bộc lộ rõ nét qua những từ ngữ não lòng:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Vẫn sử dụng từ láy trong câu thơ, nhưng từ láy ở câu thơ này mang tính chất mạnh hơn, thể hiện tiếng lòng tha thiết của tác giả. Ở đây, tác giả còn sử dụng câu thơ điển tích xưa về vua mất nước đã hóa thành con cuốc, chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Nỗi đau mất mát quá lớn gợi sự thê lương, thảm thiết đến nao lòng. Còn “gia gia” là nỗi thương nhà, tiếng gọi từ chính con tim gọi về chốn chưa. Cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt, độc giả có thể cảm nhận được tấm lòng yêu nước, thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Cảnh vật hùng vĩ trái ngược với trái tim nhỏ bé của tác giả. Tác giả muốn ôm trọn lấy cảnh vật không muốn rời. Cảnh vật, núi non, đất trời như níu chân thi sỹ không buông. Nhưng đứng trước nó, tác giả lại dâng lên sự cô đơn trong lòng. Khung cảnh càng lớn thì lòng lữ khách càng hiu quạnh. Nỗi lòng tác giả, ai thấu hiểu? Hết thúc bài thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc của tác giả.

Một cảnh tượng hùng vĩ, một tâm hồn bao la được tóm gọn trong bài thơ “Qua đèo ngang”. Phải thật giàu cảm xúc, phải có một tấm lòng yêu nước da diết mới có thể viết lên được những câu chữ tuyệt vời như vậy. Và Bà Huyện Thanh Quan đã làm được điều đó.

Bài làm 2: Nêu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang lớp 7

“Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hoàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều ta lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.

Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ :

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

“Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.

Bài làm 3: Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua Đèo Ngang lớp 7

Trong số những nhà thơ nữ của thời kì trung đại, có thể nói Bà huyện Thanh Quan là một trong số những nhà thơ mang lại cho em những cảm nhận sâu sắc nhất. bà thường viết thể thơ Đường luật là một trong những dạng thơ cần nhiều quy tắc cả về câu chữ, thanh âm. Ấy thế mà, những bài thơ của bà luôn luôn không những tuân thủ một cách chặt chẽ mà còn mang những ý nghĩa sâu sắc, đem lại cho người đọc rất nhiều những suy nghĩ, gợi hình. Và trong số những tác phẩm của bà, em ấn tượng nhất với bài thơ “ qua đèo Ngang” được tác giả viết khi đi tới Phú Xuân và dừng chân tại đèo Ngang- bài thơ thất ngôn bát cú đường luật khi ấy đã được ra đời.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Mở đầu hai câu đề là hoàn cảnh của tác giả. Khi nữ thi sĩ bước tới nơi đây cũng đã là hoàng hôn, mọi thứ xuất hiện trước mắt bà là hình ảnh của tất cả cảnh vật như thấm đẫm trong đó sự trầm lắng, nhẹ nhàng. Bà nhìn xuống đất và phía trước mặt, ngay sát cạnh mình, đó toàn là hình ảnh của những nào cây, nào cỏ, nào hoa. Tất cả thiên nhiên của nơi đây đều là sự hoang sơ, tĩnh lặng và chưa có sự khai phá của con người. Thiên nhiên như hòa chung với xúc cảm của con người. tất cả hoa lá, cây cối nơi đây mọc lên rậm rạp, chen chúc lên nhau để kiếm tìm chút ánh sáng mặt trỏi.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác trên song chợ mấy nhà

Tới  hai câu thực, lúc này, tầm mắt của tác giả đã phóng ra xa. Những hình ảnh hiện trong mắt của người nghệ sĩ lúc này chỉ còn lại là những chấm nhỏ. Đó là những hoạt động của con  người nơi đây. Thế nhưng, ở đây dân cư vẫn rất thưa thớt. Nghệ thuật đảo ngữ trong bài thơ lúc này lại càng làm cho sự đìu hiu, vắng lặng không gian của con người càng gia tăng. Tất cả những điều đó, như nhẹ nhàng mà đi sâu vào người đọc những hình ảnh của đèo Ngang lúc bấy giờ.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điểm nhìn của tác giả đã thay đồi. Lúc này đây, nữ thi sĩ đã không cảm nhận thế giời quanh mình bằng đôi  mắt nữa mà bằng chính đôi tai, bằng những âm thanh xung quanh. Thế nhưng, những gì mà bà nghe thấy chỉ là những tiếng kêu “ quốc, quốc” của những con chim cuốc. Tiếng kêu của chúng như hằn sâu vào lòng người bởi chính sự sầu não, cô liêu. Trong hoàn cảnh hoàng hôn nơi hoang sơ, hung vĩ, tiếng kêu đau buồn, gợi lên nhiều kỉ niệm buồn ấy làm cho người đọc, người nghe có tâm trạng như chùng xuống, như khơi gợi lên về những điều suy nghĩ ở trong lòng. Và tác giả- người có mặt ngay tại nơi ấy cũng không còn là ngoại lệ.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Sự tĩnh lặng của thiên nhiên, sự hung vĩ, bạt ngàn của nơi đây đã làm cho người nghệ sĩ dâng lên trong lòng rất nhiều những suy nghĩ. Bà nhớ về quê nhà, nhớ đất kinh kì với tâm trạng khắc khoải. Nỗi lòng của bà như được nâng lên, được nổi bật giữa cái to lớn của toàn vũ trụ.

Tóm lại, bài thơ Qua đèo ngang là bài thơ tả cảnh mang rất nhiều những ý nghĩa trong nó mà  qua đó, chúng ta cũng thấy được tình yêu quê hương đất nước của tác giả qua tác phẩm của bà.

Bài làm 4: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan 

Bước vào nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp một nữ sĩ tài danh hiếm có, nữ sĩ ấy chính là Bà Huyện Thanh Quan ở thế kỉ XX. Bà đã dùng ngòi bút để giãi bày tâm sự, gửi gắm tình cảm của mình đối với thiên nhiên, đối với đất nước mà bà đã yêu tha thiết. Bài thơ Qua đèo Ngang là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của bà.

Mở đầu bài thơ là cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Tác giả dừng bước tới Đèo ngang cũng là lúc ánh ngày sắp sửa đi qua:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

“Bóng xế” đã thể hiện một khung cảnh vắng vẻ, trầm buồn, không ồn ào náo nhiệt. Đây là quãng thời gian thích hợp để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải. Còn thiên nhiên ở đây lại mang dáng vẻ hoang sơ, có còn chăng là những tia nắng yếu ớt cuối ngày. Không gian gợi nỗi buồn man mác, đặc biệt buồn hơn đối với người lữ khách tha phương như Bà Huyện Thanh Quan. Bà rất buồn vì phải rời xa quê hương để làm nhiệm vụ. Nhìn thấy cảnh vật ở Đèo Ngang, bà có dịp bộc lộ tâm trạng của mình, đó là cách tả cảnh ngụ tình mà Bà Huyện Thanh Quan cũng như các nhà thơ cổ điển đã sử dụng. Cảnh thiên nhiên càng trở nên lạnh lẽo bởi vẻ thưa thớt của con người:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Đây là sự vắng vẻ, đơn điệu cảu cuộc sống chốn Đèo Ngang. Đèo Ngang thật kì vĩ nhưng còn hoang sơ, tẻ nhạt. Bóng dáng nữ sĩ dường như bị mất hút vào không gian mênh mông, bất tận ấy. Hình ảnh con người chỉ thoáng bóng, đó là những người lao động khổ cực, bầu bạn với núi rừng, sông núi. Hình ảnh này đã làm cho tâm hồn nữ sĩ mang nỗi buồn thương man mác. Khung cảnh đã buồn, tâm trạng bà lại buồn hơn. Buồn vì đất nước đang lênh đênh trong những triều đại phong kiến. Bà đã mượn tiếng kêu chiều của chim rừng để bày tỏ nỗi lòng mình:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Sự đơn điệu trong câu thơ thật hay, thật ấn tượng. Có phải chăng “quốc” ở đây là nước còn “gia” là nhà? Tiếng cuốc kêu hay chính là lời non nước? Tiếng gia gia trong câu thơ có phải là lời nhắn gọi của quê hương, gia đình và người thân mà ngày đêm bà hằng mong nhớ. Là phụ nữ thì bà cũng không thể thoát khỏi “nữ nhi thường tình” ấy. Đến đây nỗi nhớ nước và nỗi thầm lặng cô đơn của Bà Huyện Thanh Quan hiện lên rất rõ. Nỗi buồn tâm sự mỗi lúc một dồn nén. Cảm nhận ban đầu là hình ảnh của không gian, cảnh vật rồi đến cuộc sống con người, âm thanh vang vọng trong cuộc sống. Tất cả đã làm cho tình cảm tác giả sâu lắng rồi chất chứa và cô đọng thành nỗi buồn vô tận, nỗi cô đơn không cùng ai chia sẻ:

Dừng chân đứng lại, trời, non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Tác gia đang đứng trước một không gian rộng lớn với chan chứa nỗi buồn. Đứng trên đỉnh cao của Đèo Ngang, tác giả nhìn thấy cảnh trời non nước, nhìn rõ cảnh tượng thoáng đãng mà heo hút, hoang sơ, thấy rõ cảnh đượm buồn của đất nước và tâm trạng u hoài của chính mình. Bà Huyện Thanh Quan và cảnh Đèo Ngang đang có một điểm tương đồng. Đó là dáng vẻ trầm buồn, day dứt. Nỗi buồn cô đơn chỉ một mình bà bày tỏ, Bà Huyện Thanh Quan đã mượn cảnh tả tình, tâm sự sẻ chia nỗi buồn cùng cảnh vật. Nhà thơ đã tự gặp lại mình trong nỗi buồn thương da diết khôn nguôi của mình bà trước cuộc sống đương thời.

Với bút pháp tả cảnh và biện pháp đảo ngữ mà tác giả đã sử dụng, bài thơ đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, đượm buồn trong buổi chiều tà ngả bóng, đồng thời thể hiện một nỗi buồn sâu lắng cô đơn của tác giả. Dù tác giả đi làm quan nhưng vẫn khắc khoải nhớ về quê hương. Tâm trạng bà ngổn ngang bao nỗi niềm với đất nước. Đó là cái cao quý ở Bà Huyện Thanh Quan.

Bà đã để lại cho đời những áng thơ đặc sắc. Bài thơ Qua Đèo Ngang mang đậm thời thế cuộc đời, nó đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bài làm 5: Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan 

Qua đèo ngang  là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà huyện thanh quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân  đi qua đèo ngang là một địa danh  phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề    

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”

Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang ,khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang  buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hòng sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.

“Cỏ cây chen là đá cheo hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.

Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá,lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vìa chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom”khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác,chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc,chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghe tiếng chim rừng mà tác gỉa thấy nhớ nước,nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ on là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.

“Dừng chân ngắm lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ “dừng chân ngắm lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang,tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình  “một mảnh tình riêng ta với ta”. Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé  “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.

Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc .

Bài làm 6: Nêu cảm nghĩ về bài Qua Đèo Ngang lớp 7

Trong nền văn học Trung đại Việt Nam có lẽ sẽ chẳng ai quên được hai nữ nhà thơ tài năng: Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu ở bà chúa thơ Nôm ta thấy nét bứt phá, hơi nổi loạn thì ta lại tìm thấy những xúc cảm trầm buồn nhẹ nhàng ở Bà Huyện Thanh Quan, tiêu biểu đó là bài “Qua Đèo Ngang”.

Sáng tác trong một lần tác giả đi vào Huế để nhậm chức. Trên đường có đi qua địa danh này, nỗi lòng yêu nước nhớ quê hương, xót nước lại trào dâng làm cảm hứng để tác giả ngẫu hứng bật ra những vần thơ.Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với đầy đủ theo cấu trúc truyền thống của thể loại này, bao gồm: đề, thực, luận, kết. Qua đó đã diễn tả những nỗi niềm tâm tư của tác giả về đất nước. Đó là tuyệt thi thấm đượm nỗi buồn man mác, bâng khuâng, để lại trong lòng mỗi người không ít u sầu về lòng người cũng như thế sự đương thời bấy giờ:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá lá chen hoa”

Vừa đặt chân đến chốn đây cũng là lúc mặt trời đổ bóng. Thời gian lúc này là “bóng xế tà ” là khoảng thời gian kết thúc của một ngày. Xưa kia văn thơ trung đại người ta thường chỉ lấy buổi chiều làm hình ảnh trong thi phẩm chỉ khi lòng người mang đậm nỗi buồn. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, phải chăng là nỗi lòng bà huyện Thanh quan tài năng kia cũng mang một nỗi niềm về thế thời. Từ “chen” được điệp đến hai lần trong một câu thơ như tăng thêm chất hiu quạnh hơn. Nghệ thuật tiểu đối trong cùng một câu tạo nên nhịp thơ đăng đối hài hoà. Thêm đó lại càng làm bức tranh chiều tăng thâm phần hiu quạnh.

“Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà”

Dấu hiệu sự sống, con người đến hai câu thực đã dần xuất hiện. Hình ảnh “tiều vài chú, chợ, mấy nhà” đó là tất cả hơi thở cuộc sống nơi đây. Một lần nữa nghệ thuật tiểu đối trong các câu, giữa các câu đã phần nào tô thêm vào bức tranh con người nơi đây. Biện pháp tu từ đảo ngữ được tác giả sử dụng triệt thành công ” Lom khom, lác đác”. Đồng thời cũng là những từ láy nhằm chỉ sự hoạt động nhỏ nhặt nhấn mạnh vào sự cô quạnh nơi đây. Đồng thời lột tả về nhịp sống mong manh, thưa thớt mà tẻ nhạt thiếu sức sống.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái da da”

Dường như đến hai câu luận nỗi niềm tâm sự càng thêm trĩu nặng hơn. “Con quốc quốc” và “cái da da” tạo nên âm hưởng dìu dặt da diết cho âm điệu của câu thơ. Những cảm xúc, dòng suy nghĩ dần bộc lộ rõ hơn của tác giả. Là một nữ sĩ tài năng, tài tú không những thế bà còn là người mang nặng lòng với niềm mất nước trước bấy giờ. Thủ pháp lấy động tả tĩnh được khai thác đã khắc hoạ thêm cái u sầu của bài thơ. Nghe tiếng kêu rỉ máu của “cuốc cuốc” và cái “da da” mà lòng người thêm thê lương đau đáu về nỗi niềm thế sự. Thương cho thảm cảnh đất nước phân li, nước mất nhà tan lú bây giờ. Dường như để tránh, xoa dịu nỗi đau ấy tác giả đã sáng tạo thay vì “quốc quốc, gia gia” trong từ quốc gia thay bằng từ đồng âm. Nhưng nỗi niềm của bà huyện Thanh Quan vẫn khắc sâu ở đó, vẫn đau tâm khảm, vẫn nặng trĩu u sầu thậm chí thấm đượm trong cả cảnh vật.

Đến hai câu kết:

“Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta”

Non nước giờ đây hiện hữu trước mắt nhưng thay vì thấy sự hùng vĩ tráng lệ thì ta lại vẫn buồn vì những chữ ” dừng chân đứng lại”. Phải chăng cái dừng chân ấy có phải là cái dừng chân, cái dáng đứng bất lực trước thế thời của tác giả. Mảnh đất bao la của “quốc gia” mà lòng người thấy cô đơn lạc lõng biết bao, đứng trước cái mênh mông ấy nên bà chỉ cảm thấy ” mảnh tình con con”. Bởi thế mà cụm từ đầy sáng tạo “ta với ta” thêm khắc sâu nỗi buồn man mác trĩu nặng lòng người hơn.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với tài năng nghệ thuật tác giả, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các từ láy, các phép đối đã làm nên một thi phẩm để đời. Qua đó ta thấy thêm hiểu nỗi lòng của một thi nữ tài năng mà cũng đầy trân trọng và cảm thông với bà.

Bài làm 7: Nêu biểu cảm về bài thơ Qua Đèo Ngang lớp 7

Bà Huyện Thanh Quan là một trong số ít những thi sĩ trong nền văn học Việt Nam trung đại. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của bà là Qua Đèo Ngang. Bài thơ đã gợi cho người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc.

Đầu tiên, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên tràn đầy sức sống nơi đèo Ngang:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”

Thời gian “bóng xế tà là thời điểm kết thúc của một ngày, khi vạn vật thường trở nghỉ ngơi sau một ngày lao động vất vả. Còn vẻ đẹp thiên nhiên nơi đèo Ngang hiện lên qua câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ – từ “chen” cùng với đó là những hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Một thiên nhiên tràn đầy sức sống hiện ra trước mắt người đọc.

Trong cái nền thiên nhiên rộng lớn đẹp đẽ đó, con người cũng xuất hiện:

“Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà”

Với cụm từ “lom khom – tiều vài chú” gợi ra hình ảnh dáng đứng lom khom dưới chân núi. Còn cụm từ “lác đác – chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ đã thật khéo léo sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người. Giữa vũ trụ bao la, con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ, nhỏ bé mà thôi. Bốn câu thơ đầu,

Từ đó, nhà thơ bộc lộ nỗi lòng của một con người yêu quê hương, đất nước:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Ở đây “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Người đọc dường như có thể cảm nhận được tiếng kêu đến xé lòng.

Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta.”

Cách sử dụng “ta với ta” từng được sử dụng trong thơ Nguyễn Khuyến ở bài “Bạn đến chơi nhà”:

“Đầu trò tiếp khách, trầu không cóBác đến chơi đây ta với ta.”

Nhưng rõ ràng, chúng ta có thể thấy được sự khác biệt trong cách sử dụng của hai nhà thơ. Trong thơ Nguyễn Khuyến, t ừ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ – chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn – khách đến chơi. Nhà thơ đã gửi gắm tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Nhưng Bà Huyện Thanh Quan lại sử dụng cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Từ đó, nhà thơ muốn nhận mạnh nỗi nhớ về quê hương, cũng như tình yêu đất nước sâu nặng.

Có thể khẳng định, “Qua Đèo Ngang” rất tiêu biểu cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm đem đến nhiều cảm xúc cho người đọc.

Trên đây là 5 bài văn mẫu Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang được tổng hợp và biên tập chi tiết bơi Lambaitap.edu.vn. Ngoài ra để có củng cố kiến thức và ý tưởng làm bài ngữ văn lớp 7, các bạn có thể truy cập vào danh mục Ngữ Văn Lớp 7 để tham khảo.

Từ khóa » Cảm Nghĩ Bài Qua đèo Ngang Lớp 7