PHÁT BỒ ĐỀ TÂM VĂN 勸發菩提心文 | NGUYỄN LANG

Nguyên văn: 石杭梵天寺沙門實賢撰

Âm Hán: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn

Dịch nghĩa: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn

I/- Tự phần (Phần Tựa) Nguyên văn: 不肖愚下凡夫僧實賢。泣血稽顙。哀告現前大眾。及當世淨信男女等。唯願慈悲。少加聽察。嘗聞入道要門。發心為首。修行急務。立願居先。願立則眾生可度。心發則佛道堪成。苟不發廣大心。立堅固願。則縱經塵劫。依然還在輪回。雖有修行。總是徒勞辛苦。故華嚴經云。忘失菩提心。修諸善法。是名魔業。忘失尚爾。況未發乎。故知欲學如來乘。必先具發菩薩願。不可緩也。

Âm Hán: Bất tiếu, ngu hạ phàm phu tăng Thật Hiền, khấp huyết khể tảng, ai cáo hiện tiền đại chúng, cập đương thế tịnh tín nam nữ đẳng. Duy nguyện từ bi, thiểu gia thính sát. Thường văn nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ; tu hành cấp vụ, lập nguyện cư tiên. Nguyện lập tắc chúng sanh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành. Cẩu bất phát quảng đại tâm, lập kiên cố nguyện, tắc túng kinh trần kiếp, y nhiên hoàn tại luân hồi; tuy hữu tu hành, tổng thị đồ lao tân khổ. Cố Hoa Nghiêm kinh vân: “Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp”. Vong thất thượng nhĩ, huống vị phát hồ! Cố tri dục học Như Lai thừa, tất tiên cụ phát Bồ Tát nguyện, bất khả hoãn dã.

Dịch nghĩa: Thật Hiền tôi, một sư tăng phàm phu, hư hèn, ngu muội, dập đầu lậy khóc, rướm máu quanh mi, van xin đại chúng hiện tiền, cùng tín hữu nam nữ mai hậu. cúi xim quý vị xót thương, ghé tai nghe xét. Từng nghe, cữa ngõ vào đạo lấy sự phát tâm đứng hàng đầu, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm bước trước. Nguyện có lập thì chugs sanh mới độ nỗi, tâm có phát thì đạo mới tựu thành. Nếu tâm rộng lớn không phát, nguyện kiên cố không lập, thì dù trải qua trăm kiếp ngàn đời, vẫn cứ quanh quẩn trong vòng luân hồi mãi mãi. Dù có gia công tu hành, cũng chỉ nhọc công vô ích, đắng cay vẫn hoàn cay đắng. cho nên kinh Hoa nghiêm nói: “Quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp, gọi là hành động của ma. Quên mất còn như thế, huốn nữa là chưa phát?” cho nên biết rằng, muốn học đạo Như Lai trước hết phải phát nguyện bồ đề, không thể hoản đãi được.

Dịch thơ: Thật hiền Phạm thiên soạn Tôi vốn tên Thật Hiền Kẻ xuất thế phàm phu Bất tiếu lại hèn ngu Khẩn thiết tôi rướm lệ Trước Tăng lữ xuất gia Cùng thện tín ở đời Xin mở lượng hải hà Lắng nghe lời thiết tha Thường thường tôi được nghe Cửa chánh đạo muốn vào Tâm bồ đề phát trước Việc khẩn thiết tu tâm Phải lập nguyện chí thành Nguyện lập độ chúng sanh Tâm phát đạo ắc thành Tâm rộng lớn không phát Kiên chí nguyện không lập Lại qua bao trần kiếp Luân hồi vẫn nối tiếp Vì thế dẩu tu hành Vẫn khổ hải trôi lăng Vì vậy kinh Hoa Nghiêm Được Thế Tôn dạy rõ Bồ đề không phát sanh Dẫu thực hiện pháp lành Pháp ấy thành ma nghiệp Quên mất còn như vậy Huốn bồ đề chưa thấy Muốn đại thừa như lai Phải hiện Bồ Tát hạnh Không thể hẹn ngày mai.

Nguyên văn: 然心願差別。其相乃多。若不指陳。如何趣向。今為大眾略而言之。相有其八。所謂邪正真偽大小偏圓是也。云何名為邪正真偽大小偏圓邪。 世有行人。一向修行。不究自心。但知外務。或求利養。或好名聞。或貪現世欲樂。或望未來果報。如是發心。名之為邪。既不求利養名聞。又不貪欲樂果報。唯為生死。為菩提。如是發心。名之為正。 念念上求佛道。心心下化眾生。聞佛道長遠。不生退怯。觀眾生難度。不生厭倦。如登萬仞之山。必窮其頂。如上九層之塔。必造其顛。如是發心。名之為真 有罪不懺。有過不除。內濁外清。始勤終怠。雖有好心。多為名利之所夾雜。雖有善法。復為罪業之所染污。如是發心。名之為偽。 眾生界盡。我願方盡。菩提道成。我願方成。如是發心。名之為大。 觀三界如牢獄。視生死如冤家。但期自度。不欲度人。如是發心。名之為小 若於心外見有眾生。及以佛道。願度願成。功勛不忘。知見不泯。如是發心。名之為偏。 若知自性是眾生。故願度脫。自性是佛道。故願成就。不見一法離心別有。以虗空之心。發虗空之願。行虗空之行。證虗空之果。亦無虗空之相可得。如是發心。名之為圓。 知此八種差別。則知審察。知審察。則知去取。知去取。則可發心。云何審察。謂我所發心。於此八中。為邪為正。為真為偽。為大為小。為偏為圓。云何去取。所謂去邪去偽。去小去偏。取正取真。取大取圓。如此發心。方得名為真正發菩提心也。

Âm Hán: Nhiên tâm nguyện sai biệt, kỳ tướng nãi đa, nhược bất chỉ trần, như hà xu hướng? Kim vị đại chúng lược nhi ngôn chi, tướng hữu kỳ bát. Sở vị tà, chánh chân, ngụy, đại, tiểu, thiên,viên thị dã. Vân hà danh vi tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên da? Thế hữu hành nhân, nhất hướng tu hành, bất cứu tự tâm, đãn tri ngoại vụ, hoặc cầu lợi dưỡng, hoặc hiếu danh văn, hoặc tham hiện thế dục lạc, hoặc vọng vị lai quả báo. Như thị phát tâm, danh chi vi tà. Ký bất cầu lợi dưỡng danh văn, hựu bất tham dục lạc quả báo, duy vị sanh tử, vị Bồ đề, như thị phát tâm, danh chi vi chánh. Niệm niệm thượng cầu Phật đạo, tâm tâm hạ hóa chúng sanh, văn Phật đạo trường viễn, bất sanh thối khiếp, quán chúng sanh nan độ, bất sanh yếm quyện, như đăng vạn nhẫn chi sơn, tất cùng kỳ đảnh, như thướng cửu tằng chi tháp, tất tháo kỳ điên. Như thị phát tâm, danh chi vi chân. Hữu tội bất sám, hữu quá bất trừ, nội trược ngoại thanh, thủy cần chung đãi, tuy hữu hảo tâm, đa vị danh lợi chi sở giáp tạp, tuy hữu thiện pháp, phục vi tội nghiệp chi sở nhiễm ô. Như thị phát tâm, danh chi vi ngụy. Chúng sanh giới tận, ngã nguyện phương tận, Bồ đề đạo thành, ngã nguyện phương thành. Như thị phát tâm, danh chi vi đại. Quán tam giới như lao ngục, thị sanh tử như oán gia, đãn kỳ tự độ, bất dục độ nhân, như thị phát tâm, danh chi vi tiểu. Nhược ư tâm ngoại kiến hữu chúng sanh, cập dĩ Phật đạo, nguyện độ nguyện thành, công huân bất vong, tri kiến bất mẫn, như thị phát tâm, danh chi vi thiên. Nhược tri tự tánh thị chúng sanh, cố nguyện độ thoát, tự tánh thị Phật đạo, cố nguyện thành tựu, bất kiến nhất pháp, ly tâm biệt hữu, dĩ hư không chi tâm, phát hư không chi nguyện, hành hư không chi hạnh, chứng hư không chi quả, diệc vô hư không chi tướng khả đắc, như thị phát tâm, danh chi vi viên. Tri thử bát chủng sai biệt, tắc tri thẩm sát, tri thẩm sát, tắc tri khứ thủ, tri khứ thủ, tắc khả phát tâm. Vân hà thẩm sát? Vị ngã sở phát tâm, ư thử bát trung, vi tà vi chánh, vi chân vi ngụy, vi đại vi tiểu, vi thiên vi viên. Vân hà khứ thủ? Sở vị khứ tà khứ ngụy, khứ tiểu khứ thiên, thủ chánh thủ chân, thủ đại thủ viên. Như thử phát tâm, phương đắc danh vi chân chánh phát Bồ đề tâm dã.

Dịch nghĩa: Nhưng tâm nguyện có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không trình bầy, biết đâu mà hướng tới? Nay vì đại chúng, xin nói tóm lược. Tướng trạng tâm nguyện có tám, đó là Tà, Chánh, Chân, Ngụy, Đại, Tiểu, Thiên, Viên. Đời có người tu, sau khi vào chùa chảng xét tâm mình, chuyên lo ngoại vụ. Hoặc cầu sướng thân, hoặc ham nổi tiếng, hoặc ưa thích dục lạc thế gian, hoặc mong cầu quả vui mai hậu. phát tâm như thế đích thị là Tà. Danh lợi không ham, quả vui chẳng thiết, chỉ mong giải thoát, đạt đạo bồ đề, phát tâm như thế được gọi là Chánh. Niệm niệm liên tục, ngước lên thì cầu Phật đạo, cuối xuống thì độ chúng sanh. Nghe Phật đạo cao siêu không sanh cầu do thoái chí, thấy chúng sanh khó độ không sanh mệt mỏi sờn lòng. Như trèo núi cao muôn trượng, quyết lên thấu đỉnh, như leo tháp lớn chín tầng, phải leo tận nóc. Phát tâm như thế được gọi là Chân. Có tội không sám hối, có lỗi không dức trừ, ngoài sạch trong nhơ, trước siêng sau nhác. Tâm tuy tốt đấy nhưng bị danh lợi giao xen, pháp tuy tốt đấy nhưng oan uổng bị vọng nghiệp nhướm bẩn. Phát tâm như thế đích thị là Ngụy. Cỏi chúng sanh hết, nguyện ta mới hết, đạo bồ đề thành, nguyện ta mới thành. Phát tâm như thế được gọi là Đại. Xem ba cỏi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế đích thị là Tiểu. Ngoài tâm nếu thấy có chúng sanh cần độ, có Phật đạo mong thành, công phu không xã, thấy biết không tan. Phát tâm như thế đích thị là Thiên. Nếu biết tự tánh là chúng sanh, nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo, nên nguyện tu hành. Không thấy pháp nào ngoài tâm riêng có. Đem tâm hư không phát nguyện hư không, tu hạnh hư không, chứng quả hư không. Cũng không có tướng hư không có thể chứng đắc. Phát tâm như thế được gọi là Viên. Biết được tám tướng khác nhau trên đây là biết cứu xét, biết cứu xét là biết lấy bỏ, biết lấy bỏ là biết phát tâm. Cứu xét như thế nào? Cứu xét tâm mình phát ra, đối với tám tướng nói trên, là Chánh, là Tà, là Chân, là Ngụy, là Đại, là Tiểu, là Thiên, hay Viên. Lấy bỏ thế nào? Bỏ Tà, bỏ Ngụy, bỏ Tiểu, bỏ Thiên, lấy Chánh, lấy Chân, lấy Đại, lấy Viên. Phát tâm như thế mới gọi là chân chánh phát tâm bồ đề.

Dịch thơ Sóng tâm niệm nhiều phương Vì đại chúng tôi thưa Gồm chánh tà nhơn thiên Lớn nhỏ gồm thấp cao Người đời vẫn tu tâm Chẳng cứu tận tự tâm Hoặc mong cầu lợi dưỡng Tìm dục lạc hiện tại Hướng tâm theo xú uế Không chỉ khó xu hướng Tâm nguyện ứng tám đường Đại tiểu cùng ngụy viên Chánh tà ra làm sao Sống định hướng sai lầm Chỉ hướng ngoại suy tầm Hoặc đấm chút lợi danh Cầu quả báo tương lai Tà vậy là như thế Danh lợi chảng động tâm Lạc thú chẳng suy tầm Vì chấm dức sanh tử Ta phát bồ đề tâm Nội tâm hiện như thế Gọi là chánh phát tâm Niệm niệm trên cầu Phật Liên tục dưới độ sanh Phật đạo dù cao xa Không vì thế sao lãng Chúng sanh chỉ can cường Không vì thế bỏ qua Như lên núi vạn dậm Quyết đến đỉnh mới thôi Cũng như tháp chín tần Chưa đạt chẳng dừng chân Cứ như vậy phát tâm Được gọi là chính chân Có tội không sám hối Mắc lỗi không chịu chừa Trong ôm lòng lợi danh Ngoài khéo hiện thanh thanh Buổi đầu tu hăng hái Về sau hiện giải đãi Dù mang tiếng xuất gia Cũng trong vòng danh lợi Dù có tập làm thiện Cũng vọng nghiệp chúng sanh Với tâm tư như vậy Xuất thế cũng ngụy danh Chúng sanh giờ nếu còn Lập nguyện chí con còn Trọn thành bồ đề đạo Trí nguyện quyết vuôn tròn Tâm con không chướng ngoại Nguyện lập tâm trọng đại Tam giới như lao ngục Sanh tử tợ oan gia Chỉ mong cầu tự độ Chẳng hề có lợi tha Phát tâm theo chiều ấy Là tiểu tiết tà ma Ngoài tâm có chúng sanh Ngoài tâm Phật đạo thành Rồi nguyện độ chúng sanh Ra công không xã bỏ Kiến chấp thấy thô cợt Phát tâm vậy thiên lệch Biệt tánh có chúng sanh Tự độ nguyện siêu thoát Biết tự tánh có Phật Tự độ nguyện viên thành Không thấy có một pháp Thiệt tồn tại ngoài tâm Vận tâm trí chơn không Phát chơn không chí nguyện Lập chí hạnh chơn không Chứng chơn không diệu quả Chẳng thấy thiệt có quả Chơn không ta chứng đắc Trí ấy không đảo điên Phát tâm ấy đại viên Biết tâm rẽ tám phương Quyết phải có định hướng Định hướng phương án nào Tâm tự chọn thấp cao Tâm hướng theo tà viên Hay đại tiểu thiên viên Bỏ tà ngụy tiểu thiên Theo chánh đại chơn viên Thẩm tri đúng như vậy Chơn thật bồ đề tâm

II/- Chánh tông phần (Phần Chánh tông) Nguyên văn: 此菩提心。諸善中王。必有因緣。方得發起。今言因緣。略有十種。何等為十。一者念佛重恩故。二者念父母恩故。三者念師長。恩故。四者念施主恩故。五者念眾生恩故。六者念死生苦故。七者尊重己靈故。八者懺悔業障故。九者求生淨土故。十者為念正法得久住故。

Âm Hán: Thử Bồ đề tâm, chư thiện trung vương, tất hữu nhân duyên, phương đắc phát khởi. Kim ngôn nhân duyên, lược hữu thập chủng. Hà đẳng vi thập? Nhất giả niệm Phật trọng ân cố, Nhị giả niệm phụ mẫu ân cố, Tam giả niệm sư trưởng ân cố, Tứ giả niệm thí chủ ân cố, Ngũ giả niệm chúng sanh ân cố, Lục giả niệm sanh tử khổ cố, Thất giả tôn trọng kỷ linh cố, Bát giả sám hối nghiệp chướng cố, Cửu giả cầu sanh Tịnh độ cố, Thập giả vị niệm chánh pháp đắc cửu trụ cố.

Dịch nghĩa: Tâm Bồ Đề này là pháp lành hàng đầu trong các pháp lành. Phát khởi được tâm ấy hẳn phải có nhân duyên. Nhân duyên lược khởi tóm có mười: Một là nhớ nghĩ ơn nặng của Phật. Hai là nhớ nghĩ công ơn Cha, Mẹ Ba là nhớ nghĩ công ơn sư trưỡng Bốn là nhớ nghĩ công ơn thí chủ Năm là nhớ nghĩ công ơn chúng sanh Sáu là nhớ nghĩ khổ đâu sanh tử Bảy là tôn trọng tánh linh của mình Tám là sám hối nghiệp chướng đã gây Chín là nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ Mười là làm cho chánh pháp được tồn tại lâu dài

Dịch thơ Bồ đề tâm tráng kiện Vua trong các pháp thiện Phát khởi phải hợp chiều Tổng quát có mười điều Một ân Phật độ sanh Hai cha mẹ sanh thành Ba thầy tổ dạy răn Bốn thí chủ nuôi ăn Năm chúng sanh tương thành Sáu nhớ khổ tứ sanh Bảy tôn trọng tánh linh Tám sám hối nghiệp mình Chín tịnh độ tối tôn Mười Phật pháp trường tồn.

1. Niệm Phật trọng ân Nguyên văn: 云何念佛重恩。謂我釋迦如來。最初發心。為我等故。行菩薩道。經無量劫。備受諸苦。我造業時。佛則哀憐。方便教化。而我愚癡。不知信受。我墮地獄。佛復悲痛。欲代我苦。而我業重。不能救拔。我生人道。佛以方便。令種善根。世世生生。隨逐於我。心無暫捨。佛初出世。我尚沉淪。今得人身。佛已滅度。何罪而生末法。何福而預出家。何障而不見金身。何幸而躬逢舍利。如是思惟。向使不種善根。何以得聞佛法。不聞佛法。焉知常受佛恩。此恩此德。邱山難喻。自非發廣大心。行菩薩道。建立佛法。救度眾生。縱使粉骨碎身。豈能酬答。是為發菩提心第一因緣也。

Âm Hán: Vân hà niệm Phật trọng ân? Vị ngã Thích Ca Như Lai tối sơ phát tâm, vị ngã đẳng cố, hành Bồ Tát đạo, kinh vô lượng kiếp, bị thọ chư khổ. Ngã tạo nghiệp thời, Phật tắc ai lân, phương tiện giáo hóa, nhi ngã ngu si, bất tri tín thọ. Ngã đọa địa ngục, Phật phục bi thống, dục đại ngã khổ, nhi ngã nghiệp trọng, bất năng cứu bạt. Ngã sanh nhân đạo, Phật dĩ phương tiện, linh chủng thiện căn. Thế thế sanh sanh, tùy trục ư ngã, tâm vô tạm xả. Phật sơ xuất thế, ngã thượng trầm luân, kim đắc nhân thân, Phật dĩ diệt độ. Hà tội nhi sanh mạt pháp? Hà phước nhi dự xuất gia? Hà chướng nhi bất kiến kim thân? Hà hạnh nhi cung phùng Xá lợi? Như thị tư duy, hướng sử bất chủng thiện căn, hà dĩ đắc văn Phật pháp! Bất văn Phật pháp, yên tri thường thọ Phật ân! Thử ân thử đức, khâu sơn nan dụ! Tự phi phát quảng đại tâm, hành Bồ Tát đạo, kiến lập Phật pháp, cứu độ chúng sanh, túng sử phấn cốt toái thân, khởi năng thù đáp! Thị vi phát Bồ đề tâm đệ nhất nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là nhớ nghĩ ơn nặng của Phật? Đức thế tôn Thích Ca Như Lai chúng ta khi mới phát tâm vì tất cả chúng sanh mà tu hành đạo Bồ Tát. Trải qua vô lượng kiếp, nếm dủ mọi cây đắng gian lao. Khi ta gây nghiệp, ngài xót xa tìm cách giáo hóa, nhưng ta u mê chẳng chịu nghe. Ta đọa địa ngục ngài càng đâu xót hơn, muốn thây ta chịu khổ, nhưng nghiệp ta quá nặng, cứu vớt vô phương. Ta sinh ra ở cỏi người, ngài dùng phương tiện giúp ta trồng gieo căn lành. Đời đời kiếp kiếp, ngài theo dõi ta, không lúc nào bỏ. Khi ngài xuất thế, ta còn đắm chìm, nay được thân người thì Ngài đã diệt. Tội lỗi gì khiến ta sinh vào đời mạt pháp, phước đức nào đưa ta vào hàng ngũ xuất gia? Nghiệp chướng khiến ta không được thấy tân vàng của Phật. May mắn nào xui ta được cung nghiêm Xá Lợi của ngài? Suy nghĩ như thế thì mới rõ lẽ: Giả sử quá khứ ta không trồng thiện căn, thì sao hôm nay nghe được Phật pháp? Không nghe Phật pháp thì làm sao biết mình thường thọ Phật ân? Ân ấy đức ấy, non khâu khó sánh. Trừ khi tự mình phát tâm rộng lớn, hành đạo bồ tát, xây dựng pháp tràng, cứu độ chúng sanh, dù cho bị thịt nát xương tan, cũng khó mà đền đáp cho xứng. đó là nhân duyên thứ nhất của sự phát tâm Bồ Đề.

Dịch thơ Ơn Phật nghiệm đâu ra Thuở xưa Phật Thích Ca Khi phát tâm Bồ Đề Ngài nguyện độ chúng ta Trải số kiếp a tăng Ngài chịu mọi khó khăn U mê ta tạo nghiệp Ngài làm mãn gia tăng Ta thọ báo đâu thương Ngài tìm phương giáo hóa Ngài muốn ta thoát nạn Nghiệp ta tạo nặng quá Khi ta sanh làm người Ngài khuyến trồng thiện căn Cứ vậy qua nhiều đười Ngài theo ta dạy đạo Lúc Phật mới ra đời Ta hảy còn trầm luân Nay ta được làm người Ngài đã vào diệt độ Hảy suy xét phận mình Tội gì sanh mạt pháp Phước gì được xuất gia Trong hàng ngũ tăng già Nghiệp chướng gì riêng ta Không thấy Phật Thích Ca Hân hạnh phước mấy đời Nay gập Phật Xá Lợi Cứ vậy ta suy tầm Nếu không trồng thiện căn Làm sao hiểu Phật pháp Bốn biển Phật thâm ân! Ân Phật như biển núi Không phát bồ đề tâm Xây dựng đại đạo tràng Cứu độ mọi chúng sanh Dẫu nát thịt tan xương Khó đền đáp Phật ân Vậy phát bồ đề tâm Là nhân duyên số một

2. Niệm phụ mẫu ân Nguyên văn: 云何念父母恩。哀哀父母。生我劬勞。十月三年。懷胎乳哺。推乾去濕。嚥苦吐甘。才得成人。指望紹繼門風。供承祭祀。今我等既已出家。濫稱釋子。忝號沙門。甘旨不供。祭埽不給。生不能養其口體。死不能導其神靈。於世間則為大損。於出世又無實益。兩途既失。重罪難逃。如是思惟。唯有百劫千生。常行佛道。十方三世。普度眾生。則不唯一生父母。生生父母俱蒙拔濟。不唯一人父母。人人父母盡可超昇。是為發菩提心第二因緣也。

Âm Hán: Vân hà niệm phụ mẫu ân? Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, thập nguyệt tam niên, hoài thai nhũ bộ; thôi can khứ thấp, yến khổ thổ cam, tài đắc thành nhân, chỉ vọng thiệu kế môn phong, cung thừa tế tự. Kim ngã đẳng ký dĩ xuất gia, lạm xưng Thích tử, thiểm hiệu Sa môn. Cam chỉ bất cung, tế tảo bất cấp, sanh bất năng dưỡng kỳ khẩu thể, tử bất năng đạo kỳ thần linh. Ư thế gian tắc vi đại tổn, ư xuất thế hựu vô thật ích, lưỡng đồ ký thất, trọng tội nan đào. Như thị tư duy, duy hữu bách kiếp thiên sanh, thường hành Phật đạo, thập phương tam thế, phổ độ chúng sanh. Tắc bất duy nhất sanh phụ mẫu, nãi chí sanh sanh phụ mẫu, câu mông bạt tế. Bất duy nhất nhân phụ mẫu, nãi chí nhân nhân phụ mẫu, tận khả siêu thăng. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ nhị nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là nhớ nghĩ công ơn cha mẹ? Thương thay cha mẹ, sanh ta nhọc nhằn, mười tháng cưu mang, ba năm bú mớn, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, ngặm đắng nuốt cây, ngọt bùi chẳng tưởng, khổ công nhường ấy, ta mới thành người. Hy vọng về sau, tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Vậy mà nay ta lại đi xuất gia, lạm xưng thích tử, nhục hiệu Sa Môn, ngọt bùi không cung cấp, giỗ chập chẳng thừa đương. Lúc còn sống ta đã không chu toàn được miếng cơm manh áo, khi chết rồi ta lại chẳng đủ sức tiếp dẫn giác linh. Đối với thế gian ta là kẻ ăn hại, về mặt xuất thế ta cũng chẳng ích chi, hai đường đều mất tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế thì chỉ có một cách là thường hành Phật đạo trong muôn kiếp ngàn đời, độ khắp chúng sanh trong mười phương ba cỏi. Như vậy không những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều kiếp cũng được siêu thăng. Không những cha mẹ một người mà cha mẹ của tất cả đều đượ cứu vớt. đó là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm bồ đề.

Dịch thơ Ân cha mẹ suy ra Thương cha mẹ sanh ta Trải mười tháng cưu mang Ba năm trường bú mớn Bên ướt mẹ ta nằm Bên ráo để con lăn Đắng chay mẹ ta nuốt Ngon ngọt mẹ ta nhường Khi ta mới lên mười Đã đặt nhiều hy vọng Nào kế tự gia phong Khi cha mẹ còn sống Nào tế tự tôn linh Khi cha mẹ qua đời Nhưng nay ta đã nhận Sống cuộc đời xuất gia Làm sa môn thích tử Hậu duệ đức Thích Ca Vật ngon cùng cay ngọt Ta chưa biếu mẹ cha Tế tự cúng ông bà Ta chưa hề hội đủ Lúc cha mẹ còn sống Ta chưa nuôi một bữa Nay cha mẹ qua đời Chưa làm rạng tâm linh Xử sự theo luật đời Ta còn non thiếu quá Với đạo lý xuất gia Xem ra ta hời hợt Hai phước đều chưa tròn Bất hiếu phận làm con Suy tư đến điều ấy Tịnh tâm ta sẻ thấy Phải thực hành Phật đạo Trong tâm nệm vô sanh Mong cứu độ chúng sanh Tận lực làm từ thiện Thì không những một đời Mà cha mẹ nhiều kiếp Đều độ thoát đến nơi Không những song thân mình Cha mẹ mọi chúng sanh Khắp mười phương thế giới Bỉ ngạn đều độ tới Đây lý do thứ hai Bồ đề được triển khai

3. Niệm sư trưởng ân Nguyên văn: 云何念師長恩。父母雖能生育我身。若無世間師長。則不知禮義。若無出世師長。則不解佛法。不知禮義。則同於異類。不解佛法。則何異俗人。今我等粗知禮義。略解佛法袈裟被體。戒品沾身。此之重恩。從師長得。若求小果。僅能自利。今為大乘。普願利人。則世出世間二種師長。俱蒙利益。是為發菩提心第三因緣也。

Âm Hán: Vân hà niệm sư trưởng ân? Phụ mẫu tuy năng sanh dục ngã thân, nhược vô thế gian sư trưởng, tắc bất tri lễ nghĩa; nhược vô xuất thế sư trưởng, tắc bất giải Phật pháp. Bất tri lễ nghĩa, tắc đồng ư dị loại. Bất giải Phật pháp, tắc hà dị tục nhân. Kim ngã đẳng thô tri lễ nghĩa, lược giải Phật pháp, ca sa bị thể, giới phẩm triêm thân, thử chi trọng ân, tùng sư trưởng đắc. Nhược cầu tiểu quả, cẩn năng tự lợi, kim vị đại thừa, phổ nguyện lợi nhân. Tắc thế, xuất thế gian nhị chủng sư trưởng, câu mông lợi ích. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ tam nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là nhớ nghĩ công ơn sư trưỡng? Cha mẹ ta tuy sinh ra ta, và nuôi ta khôn lớn, nhưng nếu không có sư trưỡng thế gian thì lễ nghĩa không biết, không có sư trưỡng xuất thế thì Phật pháp không hay. Không biết lễ nghĩa khác gì cầm thú, không tin phật pháp tương đồng người phàm. Chúng ta ngày nay, Phật pháp có hiểu sơ qua, lễ nghĩa có biết tạm đủ, thân phủ cà sa, mình được giới phẩm. Công ơn lớn ấy chính nhờ sư trưởng mà có. Nếu cầu quả nhỏ thì được lợi mình. Nay theo Đại thừa, nguyện đem lợi lạc đến khắp quần sanh, thì sư trưỡng thế gian thành xuất thế, cả hai đều được lợi ích, do ta cung hiến. Đó là nhân duyên thứ ba của sự phát tâm bồ đề.

Dịch thơ: Ân sư trưởng nghiệm ra Cha mẹ sanh dưỡng ta Nếu không thầy dạy bảo Lễ nghĩa biết đâu mà Vắng bóng thầy chơn tu Phật pháp ta sẻ mà Người không có lễ nghĩa Hơn chi loài cầm thú Phật lý không am tường Chẳng khác phường phàm phu Phật hể biết qua loa Ơn thầy thật bao la Nay Phật lý phân minh Giới phẩm được thắm mình Cà sa phủ thân này Con mang nặng ơn thầy Tự lợi phước nhỏ thôi Đại bi giúp mọi người

4. Niệm thí chủ ân Nguyên văn: 云何念施主恩。謂我等今者日用所資。並非己有。三時粥飯。四季衣裳。疾病所須。身口所費。此皆出自他力。將為我用。彼則竭力躬耕。尚難餬口。我則安坐受食。猶不稱心。彼則紡織不已。猶自艱難。我於安服有餘。寧知愛惜。彼則蓽門蓬戶。擾攘終身。我則廣宇閒庭。優悠卒歲。以彼勞而供我逸。於心安乎。將他利而潤己身。於理順乎。自非悲智雙運。福慧二嚴。檀信沾恩。眾生受賜。則粒米寸絲。酬償有分。惡報難逃。是為發菩提心第四因緣也。

Âm Hán: Vân hà niệm thí chủ ân? Vị ngã đẳng kim giả nhật dụng sở tư, tịnh phi kỷ hữu. Nhị thời chúc phạn, tứ quý y thường, tật bệnh sở nhu, thân khẩu sở phí, thử giai xuất tự tha lực, tương vi ngã dụng. Bỉ tắc kiệt lực cung canh, thượng nan hồ khẩu, ngã tắc an tọa thọ thực, do bất xứng tâm. Bỉ tắc phưởng chức bất dĩ, do tự gian nan, ngã ư an phục hữu dư, ninh tri ái tích. Bỉ tắc tất môn bồng hộ, nhiễu nhương chung thân, ngã tắc quảng vũ nhàn đình, ưu du tuất tuế. Dĩ bỉ lao nhi cung ngã dật, ư tâm an hồ? Tương tha lợi nhi nhuận kỷ thân, ư lý thuận hồ? Tự phi bi trí song vận, phước huệ nhị nghiêm, đàn tín triêm ân, chúng sanh thọ tứ, tắc lạp mễ thốn ti, thù thường hữu phận, ác báo nan đào. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ tứ nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là nhớ nghĩ công ơn thí chủ? Chúng ta ngày nay, nhu dụng hàng ngày chẳng phải do ta tự cấp, cháo cơm ba bữa, quần áo bốn mùa. Thuốc than trị bệnh, chi phí linh tinh. Hết thảy đều do sức lực kẻ khác làm ra, mang đến cho ta chi dùng. Họ thì dóc sức cầy cấy, bụng chẳng đủ no, ta ngồi không an hưỡng lòng vẫn chưa thỏa. Họ thì dệt đan không ngừng tay mà suốt đời gian khổ, ta thì may mặc đến thừa mứa mà đâu biết tiếc thương. Họ thì nhà tranh cửa lá, nghèo khó suốt đời, ta thì sân rộng nhà dài, thong thả quanh năm. Đem sức lao nhọc của họ để cung cấp cho cái sống an nhàn của ta, lòng sao yên được, lấy cái lợi của người để bồi dưỡng thân ta xung sướng, lý có thuận không? Nếu chẳng phải mình vận dụng hai đức bi – trí, trang nghiêm hai quả phước – huệ, để tín thí nhờ ơn, chúng sanh thọ sủng, thì dù gạo chỉ một hột, vải chỉ một ô, mà mình đã thọ cúng trước kia, đến nay đều phải trả đủ, không thì ác baod khó trốn. Đó là nhân duyên thứ tư của sự phát tâm bồ đề.

Dịch thơ Ơn thí chủ như vầy Chi dụng trong hàng ngày Không sắm vẫn có dùng Do thí chủ dân cúng Cơm cháo ngày hai bữa Quần áo ấm bốn mùa Đâu ốm có thuốc than Lòng thí chủ sắm mua Ai cầy cấy cần cù Nuôi ta hưởng không dủ Tu yên ổn thong dong Vẫn thấy chưa bằng lòng Dệt vải chỉ chuyên cần Vẫn chưa đủ ấm thân Rong chơi ta thong thả Quần dư áo lượt là Ai phên cỏ nhà tranh Vất vả suốt cuộc đời Ta sân rộng chùa to Nhàn nhạ mãi ăn chơi Đem lao lực của ấy Phóng dật mình ăn chơi Làm sao xứng phận người Sức lao tác người ta Mình cung phụng thân này Làm sao hợp lý đây Phải trí huệ rạng lòng Phước đức hiện song song Thí chủ mong nhờ ân Chúng sanh cũng dự phần Nếu không phải như vậy Dù gạo chiêm nửa hạt Vải rẻo có nữa phân Vẫn cứ mắc nợ nần Và quả báo mai sau Không tránh khỏi khổ đâu Đây lý do thứ tư Tâm bồ đề rộng lớn.

5. Niệm chúng sanh ân Nguyên văn: 云何念眾生恩。謂我與眾生。從曠劫來。世世生生。互為父母。彼此有恩。今雖隔世昏迷。互不相識。以理推之。豈無報効。今之披毛帶角。安知非昔為其子乎。今之蝡動蜎飛。安知不曾為我父乎。每見幼離父母。長而容貌都忘。何況宿世親緣。今則張王難記。彼其號呼於地獄之下。宛轉於餓鬼之中。苦痛誰知。飢虗安訴。我雖不見不聞。彼必求拯求濟。非經不能陳此事。非佛不能道此言。彼邪見人。何足以知此。是故菩薩觀於螻蟻。皆是過去父母。未來諸佛。常思利益。念報其恩。是為發菩提心第五因緣也。

Âm Hán: Vân hà niệm chúng sanh ân? Vị ngã dữ chúng sanh, tùng khoáng kiếp lai, thế thế sanh sanh, hỗ vi phụ mẫu, bỉ thử hữu ân. Kim tuy cách thế hôn mê, hỗ bất tương thức. Dĩ lý thôi chi, khởi vô báo hiệu! Kim chi phi mao đái giác, an tri phi tích vi kỳ tử hồ? Kim chi nhuyễn động quyên phi, an tri bất tằng vi ngã phụ hồ! Mỗi kiến ấu ly phụ mẫu, trưởng nhi dung mạo đô vong, hà huống túc thế thân duyên, kim tắc Trương Vương nan ký. Bỉ kỳ hào hô ư địa ngục chi hạ, uyển chuyển ư ngạ quỷ chi trung, khổ thống thùy tri, cơ hư an tố. Ngã tuy bất kiến bất văn, bỉ tất cầu chửng cầu tế. Phi kinh bất năng trần thử sự, phi Phật bất năng đạo thử ngôn. Bỉ tà kiến nhân, hà túc dĩ tri thử. Thị cố Bồ Tát quán ư lâu nghị, giai thị quá khứ phụ mẫu, vị lai chư Phật. Thường tư lợi ích, niệm báo kỳ ân. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ ngũ nhân duyên dã.

Dịch nghĩa:

Dịch thơ

6. Niệm sanh tử khổ Nguyên văn: 云何念生死苦。謂我與眾生從曠劫來。常在生死。未得解脫。人間天上。此界他方。出沒萬端昇。沈片刻。俄焉而天。俄焉而人。俄焉而地獄畜生餓鬼。黑門朝出而莫還。銕窟暫離而又入。登刀山也。則舉體無完膚。攀劍樹也。則方寸皆割裂。熱銕不除飢。吞之則肝腸盡爛。洋銅難療渴。飲之則骨肉都糜。利鋸解之。則斷而復續。巧風吹之。則死已還生。猛火城中。忍聽呌嘷之慘。煎熬盤裏。但聞苦痛之聲。冰凍始凝。則狀似青蓮蘂結。血肉既裂則身如紅藕華開。一夜死生。地下每經萬徧。一朝苦痛。人間已過百年。頻煩獄卒疲勞。誰信閻翁教誡。受時知苦雖悔恨以何追脫已還忘。其作業也如故。鞭驢出血。誰知吾母之悲。牽豕就屠。焉識乃翁之痛。 食其子而不知。文王尚爾。噉其親而未識。凡類皆然。當年恩愛。今作冤家。昔日宼讐。今成骨肉。昔為母而今為婦。舊是翁而新作夫。宿命知之。則可羞可恥。天眼視之。則可笑可憐。糞穢叢中。十月包藏難過。膿血道裏。一時倒下可憐。少也何知。東西莫辨。長而有識。貪欲便生。須臾而老病相尋。迅速而無常又至。風火交煎。神識於中潰亂。精血既竭。皮肉自外乾枯。無一毛而不被針鑽。有一竅而皆從刀割。龜之將烹。其脫殻也猶易。神之欲謝。其去體也倍難。 心無常主。類商賈而處處奔馳。身無定形。似房屋而頻頻遷徙。大千塵點難窮往返之身。四海波濤。孰計別離之淚。峩峩積骨。過彼崇山。莾莾橫尸。多於大地。向使不聞佛語。此事誰見誰聞。未覩佛經。此理焉知焉覺。其或依前貪戀。仍舊癡迷。祗恐萬劫千生。一錯百錯。人身難得而易失良。時易往而難追。道路冥冥。別離長久。三途惡報。還自受之。痛不可言。誰當相代。興言及此。能不寒心。是故宜應斷生死流。出愛欲海。自他兼濟。彼岸同登。曠劫殊勛。在此一舉。是為發菩提心第六因緣也。

Âm Hán: Vân hà niệm sanh tử khổ? Vị ngã dữ chúng sanh, tùng khoáng kiếp lai, thường tại sanh tử, vị đắc giải thoát. Nhân gian thiên thượng, thử giới tha phương, xuất một vạn đoan, thăng trầm phiến khắc, nga yên nhi thiên, nga yên nhi nhân, nga yên nhi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ; hắc môn triêu xuất nhi mộ hoàn, thiết quật tạm ly nhi hựu nhập. Ðăng đao sơn dã, tắc cử thể vô hoàn phu. Phan kiếm thọ dã, tắc phương thốn giai cát liệt. Nhiệt thiết bất trừ cơ, thôn chi tắc can trường tận lạn, dương đồng nan liệu khát, ẩm chi tắc cốt nhục đô mi. Lợi cứ giải chi, tắc đoạn nhi phục tục; xảo phong xuy chi, tắc tử dĩ hoàn sanh; mãnh hỏa thành trung, nhẫn thính khiếu hào chi thảm; tiên ngao bàn lý, đãn văn khổ thống chi thanh; băng đống thủy ngưng, tắc trạng tự thanh liên nhụy kết; huyết nhục ký liệt, tắc thân như hồng ngẫu hoa khai. Nhất dạ tử sanh, địa hạ mỗi kinh vạn biến; nhất triêu khổ thống, nhân gian dĩ quá bách niên. Tần phiền ngục tốt bì lao, thùy tín Diêm ông giáo giới! Thọ thời tri khổ, tuy hối hận dĩ hà truy; thoát dĩ hoàn vong, kỳ tác nghiệp dã như cố. Tiên lư xuất huyết, thùy tri ngô mẫu chi bi; khiên thỉ tựu đồ, yên thức nãi ông chi thống.

Tâm vô thường chủ, loại thương cổ nhi xứ xứ bôn trì, thân vô định hình, tự phòng ốc nhi tần tần thiên tỷ. Ðại thiên trần điểm, nan cùng vãng phản chi thân, tứ hải ba đào, thục kế biệt ly chi lệ. Nga nga tích cốt, quá bỉ sùng sơn. Mãng mãng hoành thi, đa ư đại địa. Hướng sử bất văn Phật ngữ, thử sự thùy kiến thùy văn! Vị đổ Phật kinh, thử lý yên tri yên giác! Kỳ hoặc y tiền tham luyến, nhưng cựu si mê; chỉ khủng vạn kiếp thiên sanh, nhất thác bách thác. Nhân thân nan đắc nhi dị thất, lương thời dị vãng nhi nan truy. Ðạo lộ minh minh, biệt ly trường cửu, tam đồ ác báo, hoàn tự thọ chi. Thống bất khả ngôn, thùy đương tương đại? Hưng ngôn cập thử, năng bất hàn tâm? Thị cố nghi ưng đoạn sanh tử lưu, xuất ái dục hải; tự tha kiêm tế, bỉ ngạn đồng đăng. Khoáng kiếp thù huân, tại thử nhất cử. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ lục nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là nhớ nghĩ khổ đâu sanh tử? Ta cùng chúng sanh từ bao kiếp trước sanh tử quấn quanh, chưa hề thoát khỏi. Khi ở cỏi trời, lúc sanh cỏi người. Nơi kia chốn nọ, vào ra muôn nơi, lên xuống nửa giây. Thoắc đâu lòng trời, thoắc đâu lòng người, thoắc đâu chui vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Cổng Đen sáng ra chiều vào, hang Sắt mới khép lại mở. leo lên núi dao thì không mảnh da nguyên vẹn, vị vào cây kiếm thì các ô thịt đều bị rách bươm, hoàn sắt nóng không trừ được đói, nuốc vào rồi gan ruộc nát tan, nước đồng sôi không giải được khát, uống vào rồi thịt xương nhờ ngấu. cưa bén xẻ thây, đức xong liền nối, gió nghiệp thổi mặt, chết rồi lại sanh. Trong thành rực lữa, thảm thê tiếng thét rú lên, trên bàn ngào nướng, tê tái tiếng gào vang vọng. Băng giá đông lại thì thân hình xanh như sen xanh kết nhụy, máu thịt rửa ra thì mình mảy đỏ tựa sen đỏ trổ hoa. Trong chốn địa ngục một đêm chết sống kể cả vạn lần, so với nhân gian một buổi thọ hình lâu bằng thế kỷ. Bao phen lính ngục ra tay nhọc mệt, nào ai chịu tin lời Diêm chúa răn khuyên. Lúc thọ báo mới kêu văng khổ, nhưng dù hối cũng chẳng kịp nào, khi thoát rồi lại vội quên ngay, vẫn nghiệp củ lại quay như trước. Đánh Lừa văng máu đâu hay chính mẹ mình đang khóc thảm, xua heo vào lò ngờ đâu cha mình sắp rã thay. Ăn thịt con mà không biết, Văn Vương còn như thế, ăn thịt cha mà chẳng hay, phàm phu cũng thế thôi. Năm xưa ân ái nay thành oan gia, hôm qua oán thù nay thành ruột thịt. Đời trước là mẹ mà nay là vợ, thuở xưa là cha, nay lại là chồng. Lấy trí túc mạng mà soi thì thật đáng hổ thẹn biết mấy, lấy mắt thiên nhãn mà nhìn thì đáng chán đáng cười biết bao! Trong bụng đầy phẫn, mười tháng rút chui, hết còn chịu nỗi, qua đường ngập máu, một phen chúi xuống, thương thật là thương! Nhỏ dại biết chi, mô tê chẳng rõ, lớn khôn dần hiểu, tham dục bèn sanh. Loáng thoán mới đó mà già đâu đã tới kiếm, thình lình xuất hiện gã vô thường lại hỏi thăm, gió lữa trong lúc giao tranh, thần thức tơi bời rối loạn, khí huyết bên trong vơi cạn máu, xương thịt bên ngoài teo khô. Không một kẻ chân long nào không bị châm, không một nơi khiếu huyệt nào không bị dao cắt, rùa già đem náu, lột được vỏ ra, tưởng e còn dể, thần thức sắp đi, phải lìa khỏi xác, khó gấp bội phần. Tâm là ông chủ vô thường, giống buồn khắp nơi bôn tẩu, thân là cái hình vô địch, khác nào phòng óc rầy đổi mai thây. Chí như mảy bụi ở cỏi ba ngàn, thân nọ quay quần qua lại vô tận vô cùng, nhấp nhô như sóng bốn biển, nước mắt li biệt trào tuôn, kể sao cho xiết! Cao quá núi cao chất ngất xương chồng, dày hơn đất dày, rậm rịt thây sấp. Giả sử không nghe lời Phật, việc ấy ai thấy ai nghe, không được xem kinh Phật, lý đó ai hay ai biết? vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê không bỏ, chỉ e ngàn đời muôn kiếp mới được làm người, một lần hai lở rây rưa trăm kiếp. Thân người khó được mà dể mất, vận may dể qua mà khó tìm. Đường đời mờ mịt, ly biệt dài lâu. Ác báo ba đường, rồi phải tự thọ. Khổ hết chổ nói, ai chịu thây đây? Nhân hứng mà nói dong dài, đến đây không thể không thấy lòng mình giá buốt. Cho nên phải dứt lòng sanh tử, vượt nẻo ái hà, mình người cùng thoát, bờ giác cùng lên. Công lao muôn kiếp, chính được bắt đầu từ buổi hôm nay. Đó là nhân duyên thứ sáu của sự phát tâm Bồ Đề.

Dịch thơ Khổ tử sanh tựa thành Vì ta với chúng sanh Trải số kiếp trôi qua Tử sanh chưa thoát ra Hết người lại làm trời Lên xuống đã nhiều nơi Địa ngục lại súc sanh Ngạ Quỷ tiếp tựa thành Ngục tối mới được ra Cửa sắt lại bắt vào Núi đao thân chết đời Rừng kiếm đầu rung rơi Sắc nóng không cưu đói Nuốt vào ruột nát tan Đồng sôi dầu giải khát Phải uống xương cốt tàn Cửa mở thân tàn hại Nát ra rồi liền lại Gió độc chết thảm thay Chết rồi sống lại ngay Bốn bề lửa cháy cao Thống thiết tiếng thét gào Chảo dầu rang cháy thây Tiếng khổ thấm xiết bao Khi lạnh gió động lại Toàn thân thành tê dại Máu thịt tự tan rã Tợ Sen hồng trổ hoa Địa ngục qua một đêm Sống chết cả vạn lần Một ngày khổ trong ấy Bằng vạn kiếp nơi đây Không nghe lời Diêm Vương Khiến ngục tối thảm thương Khổ đau khi đã đến Hối hận vẫn vô phương Tha tội lại quên ngay Việc ác lại nhúng tay Khiến con lừa lột da Nào biết khổ mẹ ta Đem con heo mổ lòng Nào biết khổ cha ông Làm cha ăn thịt von Văn Vương còn phải vậy Nhằm thịt mẹ nào hay Phàm phu làm sao thấy Đời trước tình nghĩa sau Ngày nay oán them sầu Hôm kia hận mù mịt Hôm nay thành mù mịt Cha con xoay ngược vòng Chồng vợ chỉ đổi thân Nếu có mắt trí tuệ Thấy lẽ sống càng thương Mười tháng trong bào thai Khổ ngẹt thật sầu ai Nhỏ ngây ngô tự nhiên Lớn tham dục triền miên Thoán chóc già bệnh rồi Sự chết đã đến nơi Gió nghiệp thiên thức tán Huyết khô thân bấn loạn Cứ mỗi lỗ chân long Xoáy nhứt như kim đâm Rùa đem lột mai khó Thoát nghiệp lại khó hơn Tâm không hề thường trú Tợ lữ khách vân du Thân đâu phải cố định Thường thây dạng dổi hình Bụi trần khắp thế giới Sánh số thân luân hồi Nước biển tràn đại dương Sánh lệ bằng đâu thương Xương khô chất thành núi Lớn hơn đảnh núi cao Thây ma chẳng vùi sau Rải khắp mặt địa cầu Lời Phật chưa hiểu thấu Việc ấy biết làm sao Kinh văn không quán triệt Điều này làm sao biết Mùi danh lợi tham luyến Nghe qua thân hoan cười E rằng muôn triệu kiếp Khó được sanh thân này Một phen bị lỡ lầm Phải máy kiếp sãy chân Tuy nay được thân người Si dại mất như chơi Thời gian qua tự tại Đi không hề trở lại Lộ trình còn mờ mịt Viễn ly cứ mãi hoài Ác báo ở tam đồ Rồi rat a phải thọ Nỗi khổ thắm thết bao Ai giúp ta được nào Tỏ bày nỗi đục tranh Ai nghe khỏi quặng lòng Hảy vượt biển ái dục Chắm dức dòng tử sanh Tự cứu và cứu người Bỉ ngạn uyết tới nơi Sự việc lớn ngày mai Ta quyết tâm hiện tại Nay lý do thứ sáu Của phát bồ đề tâm

7. Tôn trọng kỷ linh Nguyên văn: 云何尊重己靈謂我現前一心。直下與釋迦如來無二無別。云何世尊無量劫來。早成正覺而我等昏迷顛倒。尚做凡夫。又佛世尊則具有無量神通智慧。功德莊嚴。而我等則但有無量業繫煩惱生死纏縛。心性是一。迷悟天淵。靜言思之。豈不可恥。譬如無價寶珠。沒在淤泥。視同瓦礫。不加愛重。是故宜應以無量善法。對治煩惱。修德有功。則性德方顯。如珠被濯。懸在高幢。洞達光明。映蔽一切。可謂不孤佛化。不負己靈。是為發菩提心第七因緣也。

Âm Hán: Vân hà tôn trọng kỷ linh? Vị ngã hiện tiền nhất tâm, trực hạ dữ Thích ca Như Lai vô nhị vô biệt. Vân hà Thế Tôn vô lượng kiếp lai, tảo thành Chánh giác, nhi ngã đẳng, hôn mê điên đảo, thượng tố phàm phu? Hựu Phật Thế Tôn, tắc cụ hữu vô lượng thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm; nhi ngã đẳng, tắc đãn hữu vô lượng nghiệp hệ, phiền não, sanh tử triền phược? Tâm tánh thị nhất, mê ngộ thiên uyên. Tĩnh ngôn tư chi, khởi bất khả sỉ! Thí như vô giá bảo châu, một tại ứ nê, thị đồng ngõa lịch, bất gia ái trọng, thị cố nghi ưng dĩ vô lượng thiện pháp, đối trị phiền não. Tu đức hữu công, tắc tánh đức phương hiển; như châu bị trạc, huyền tại cao tràng, đỗng đạt quang minh, ánh tế nhất thiết. Khả vị bất cô Phật hóa, bất phụ kỷ linh. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thất nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là tôn trọng tánh linh của mình? Tâm của chúng ta trong hiện tiền, so với Đức Thế Tôn Thích Ca, không hai không khác. Thế thì vì sao Thế Tôn đã thành chánh giác từ vô lượng kiếp, còn chúng ta thì điên đảo hôn mê, vẫn làm phàm phu? Lại nữa, Thế tôn thì đủ vô lượng thần thông trí tuệ, công đức trang nghêm, còn chúng ta thì chỉ có vô lượng phiền não, nghiệp chướng, sanh tử buột chặt, tâm tánh chỉ một mà mê ngộ trời vực cách xa. Cứ im lạng mà suy, há chảng đáng xấu hổ sao? Ví như ngọc báu vô giá, rơi xuống bụi nhỏ, xem đồng ngói gạch, chẳng được quí yêu. Cho nên phải dùng vô lượng thiện pháp, mà đổi trị vô lượng phiền não. Có gia công tu đức thì tánh đức mới sáng ra. Như ngọc báu được lau chùi, treo lên phướng cao, ánh sáng rực chiếu, che lấp tất cả. Thế mới gọi là không phụ sự gáo hóa của Phật, chẳng phụ tánh linh của mình. Đó là nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm Bồ Đề.

Dịch thơ Trong tánh linh của ta Mình với đức Thích Ca Tánh linh vốn không khác Ngài đã thành chánh giác Mình cứ mãi ái ngu Quanh quẩn với phàm phu Ngài giác ngộ trí tuệ Mình oán nghiệp chất chồng Ngài phước huệ trang nghiêm Mình sanh tử triền miên Tâm tánh tuy đồng nhất Mê ngộ xa trời vực Lắng động cả tâm tư Hổ thẹn nét hiền lương Đem viên ngọc vô giá Bỏ bàn thiệt đáng thương Vận thiện tâm trổi lên Lọc phiền nảo vô biên Công phu tịnh cỏi lòng Tánh đức sẻ sáng trong Để rồi như ngọc kia Hết bụi sáng hồng ra Được như thế quả là Không phụ đức Thích Ca Và tôn trọng tánh mình Đây lý do thứ bảy Bồ đề tâm tròn đầy

8. Sám hối nghiệp chướng Nguyên văn: 云何懺悔業障。經言犯一吉羅。如四天王壽五百歲。墮泥犂中。吉羅小罪尚獲此報。何況重罪。其報難言。今我等日用之中。一舉一動。恒違戒律。一飱一水。頻犯尸羅。一日所犯。亦應無量。何況終身歷劫。所起之罪。更不可言矣。且以五戒言之。十人九犯。少露多藏。五戒名為優婆塞戒。尚不具足。何況沙彌比丘菩薩等戒。又不必言矣。問其名。則曰我比丘也。問其實。則尚不足為優婆塞也。豈不可愧哉。當知佛戒不受則已。受則不可毀犯。不犯則已。犯則終必墮落。若非自愍愍他。自傷傷他。身口併切。聲淚俱下。普與眾生。求哀懺悔。則千生萬劫。惡報難逃。是為發菩提心第八因緣也。

Âm Hán: Vân hà sám hối nghiệp chướng? Kinh ngôn: “Phạm nhất kiết la, như Tứ thiên vương thọ ngũ bách tuế đọa nê lê trung”. Kiết la tiểu tội, thượng hoạch thử báo, hà huống trọng tội, kỳ báo nan ngôn. Kim ngã đẳng nhật dụng chi trung, nhất cử nhất động, hằng vi giới luật, nhất xan nhất thủy, tần phạm thi la. Nhất nhật sở phạm diệc ưng vô lượng, hà huống chung thân lịch kiếp? Sở khởi chi tội, cánh bất khả ngôn hỹ! Thả dĩ ngũ giới ngôn chi, thập nhân cửu phạm, thiểu lộ đa tàng. Ngũ giới danh vi Ưu bà tắc giới, thượng bất cụ túc, hà huống Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát đẳng giới, hựu bất tất ngôn hỹ! Vấn kỳ danh, tắc viết: “Ngã Tỷ kheo dã!” Vấn kỳ thật, tắc thượng bất túc vi Ưu bà tắc dã. Khởi bất khả quý tai! Ðương tri Phật giới bất thọ tắc dĩ, thọ tắc bất khả hủy phạm. Bất phạm tắc dĩ, phạm tắc chung tất đọa lạc. Nhược phi tự mẫn mẫn tha, tự thương thương tha, thân khẩu tịnh thiết, thanh lệ câu hạ, phổ dữ chúng sanh cầu ai sám hối, tắc thiên sanh vạn kiếp ác báo nan đào. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ bát nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là sám hối nghiệp chướng? Kinh dạy: Phạm Đột kiết la, bị đọa địa ngục lâu bằng năm trăm tuổi thọ của cỏi trời tứ thiên vương, Kiết la tội nhỏ còn như thế, huống nữa tooij nặng, báo lớn đến đâu? Chúng ta ngày nay trong nếp sống, nhất cử nhất động đều trái luật Phật, khi ăn lúc uống phạm giới bao phen. Kể cả các vi phạm trong một ngày cũng đã vô lượng, huống nữa trọ đời nhiều kiếp, tội lỗi gây ra khó mà nói hết. Chỉ lấy riêng ngủ giới, cứ mười người giữ thì đã hết chín người phạm. Phát lồ thì ít, ém nhẹm thì nhiều, ngũ giới là giới tại gia, mà còn không giữ nổi, huống nữa các giới Sa Di, Tỳ Kheo, Bồ Tát, thôi khỏi bàn chi! Hỏi đến danh nghĩa thì ta đây là Tỳ Kheo, hỏi về thực chất thì chưa xứng để làm một tại gia đệ tử. Hà chẳng đáng hổ thẹn sao? Nên biết rằng giới Phật đã không thọ thì thôi, đã thọ thì không được hủy phạm, không phạm thì thôi, đã phạm thì khó tránh đọa sa. Nếu không vì xót mình, thương người, mà miệng van lơn, thân quỳ lạy, khóc lóc thảm thiết, cùng với chúng sanh, cầu xin sám hối, thì dù ngàn đời muôn kiếp ác báo khó bề tránh khỏi. Đó là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm bồ đề.

Dịch thơ Sám nghiệp chướng hiện nay Chư kinh Phật dạy rằng Chỉ phạm tội kiết la Cũng trải qua địa ngục Năm trăm năm đâu thương Sánh tuổi tứ thiên vương Tội nhỏ sánh thấp cao Nghiệp lớn khổ biết bao Mỗi ngày trong chúng ta Cữ động đều gây tội Ăn uống trong hằng ngày Đều phạm vào thi la Một ngày đã chừng ấy Suốt kiếp tội biết mấy Ngũ giới chín phần phạm Phạm giáu kín chín phân Tại gia còn khó theo Huống Sa Di Tỷ Kheo Nếu nhìn sâu thấy khắp Bất đắc ngôn phải lắm Với đời xưng Tỳ Kheo Ngũ giới không mang theo Các giới có giới nào Không hổ thẹn được sao? Giới Phật thì không thọ Thọ rồi gắng thanh đạm Tuyệt không hề vi phạm Vi phạm khổ lắm thay Trừ khi tự thương mình Thương kẻ khác thiết tha Tận đáy lòng rướm lệ Cần sám hối thiết tha Không vậy thì ác báo Vạn kiếp vẩn hiện ra Dảu cho cố tâm tránh Cũng khó trốn thoát qua Đây lý do thứ tám Bồ đề tâm tự sám

9. Cầu sanh tịnh độ Nguyên văn: 云何求生淨土。謂在此土修行。其進道也難。彼土往生。其成佛也。易。易故一生可致。難故累劫未成。是以往聖前賢。人人趣向。千經萬論。處處指歸。末世修行。無越於此。然經稱少善不生。多福乃致。言多福。則莫若執持名號。言多善。則莫若發廣大心。是以暫持聖號。勝於布施百年。一發大心。超過修行歷劫。葢念佛本期作佛。大心不發。則雖念奚為。發心原為修行。淨土不生。則雖發易退。是則下菩提種。畊以念佛之犁。道果自然增長。乘大願船。入於淨土之海。西方決定往生。是為發菩提心第九因緣也。

Âm Hán: Vân hà cầu sanh Tịnh độ? Vị tại thử độ tu hành, kỳ tấn đạo dã nan. Bỉ độ vãng sanh, kỳ thành Phật dã dị. Dị, cố nhất sanh khả trí; nan, cố lụy kiếp vị thành. Thị dĩ vãng thánh tiền hiền, nhân nhân xu hướng, thiên kinh vạn luận, xứ xứ chỉ quy. Mạt thế tu hành, vô việt ư thử. Nhiên kinh xưng: “Thiểu thiện bất sanh, đa phước nãi trí”. Ngôn đa phước, tắc mạc nhược chấp trì danh hiệu; ngôn đa thiện, tắc mạc nhược phát quảng đại tâm. Thị dĩ tạm trì thánh hiệu, thắng ư bố thí bách niên. Nhất phát đại tâm, siêu quá tu hành lịch kiếp. Cái niệm Phật bổn kỳ tác Phật, đại tâm bất phát, tắc tuy niệm hề vi; phát tâm nguyên vị tu hành, Tịnh độ bất sanh, tắc tuy phát dị thối. Thị tắc hạ Bồ đề chủng, canh dĩ niệm Phật chi lê, đạo quả tự nhiên tăng trưởng; thừa đại nguyện thuyền, nhập ư Tịnh độ chi hải, Tây phương quyết định vãng sanh. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ cửu nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là cầu sanh tịnh độ? Tu ở cỏi này sự tiến đạo quá khó, nhưng vãng sanh cỏi kia, việc thành Phật cũng dễ thôi. Dể cho nên một đời có thể đạt được, khó cho nên muôn kiếp chưa chắc tựu thành. Vì vậy mà thánh hiền đời trước, ai ai cũng thú hướng về đây, ngàn kinh muôn luận, đâu đâu cũng giảng bày nghĩa này. Việc tu hành trong đời mạc pháp, không pháp nào hơn được pháp ấy. song kinh còn chua thêm: Điều lành nhỏ khó khiến sanh lên, phước đức dày mới đưa đến điều đó. Mà nói phước đức dày, thì không chi bằng chấp trì danh hiệu, nói điều lành nhiều thì phát tâm rộng lớn chiếm ưu trên. Cho nên chấp trì danh hiệu trong chóc lác, hơn hản công đức bố thí cả trăm năm, phát được tâm bồ đề rộng lớn, vượt trội công đức tu hành trong nhiều kiếp. bởi vậy niệm Phật là mong được làm Phật, nếu tâm lớn không phát thì niệm cũng chẳng ích chi. Phát tâm lớn là nhằm mục đích tu, nếu tịnh độ không sanh thì tuy có phát nhiều nhưng cũng dễ thối, thế thì giống bồ đề, phải cày bằng cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng trưỡng, cỏi thiền đại nguyện, vào được biển lớn tịnh độ, Tây Phương quyết định vãng sanh. Đó là nhân duyên thứ chín của sự phát tâm bồ đề.

Dịch thơ Ta bà dù có tu Đạo quã khó tụ thành Về bên kia tịnh độ Đạo niệm mãi phát sanh Để cho nên một kiếp Đạo có thể phát sanh Ta bà lụy kiếp tu Đạo tâm khó tựu thành Vì vậy thánh ngày xưa Chư hiền trong thuở trước Ai ai cũng xu hướng Về tịnh độ Tây Phương Kinh luận cả vạn đời Đâu đâu cũng gợi ý Mạt pháp tu tịnh độ Tâm đạo sáng khắp nơi Tuy nhiều kinh dạy rằng Thiện nhỏ không thể sanh Nhân tố về tịnh độ Duy chỉ có trì danh Pháp thiện vượt có tầm Không gì bằng phát tâm Trì danh hiệu chăm chăm Hơn bố thí ngàn năm Một phen phát bồ đề Rộng hơn ta một kiếp Niệm Phật đề làm Phật Thiếu Bồ Đề sai mất Phát tâm vốn tu hành Nếu chưa về Tịnh độ Rồi e bị thoái hóa Đạo quả khó viên thành Pải gieo giống bồ đề Bằng cây cày niệm Phật Trí quả sẻ sum suê Tăng trưởng khắp bốn bề Nơi tuyền tuệ bát nhã Nhập tịnh tâm bát nhã Thì tịnh độ tây phương Soi thấu khắp mọi đường Đây lý do thứ chín Phát tâm đại bồ đề

10. Linh chánh pháp cửu trụ Nguyên văn: 云何令正法久住。謂我世尊無量劫來。為我等故。修菩提道。難行能行。難忍能忍。因圓果滿。遂致成佛。既成佛已。化緣周訖。入於涅槃。正法像法。皆已滅盡。僅存末法。有教無人。邪正不分。是非莫辨。競爭人我。盡逐利名。舉目滔滔。天下皆是。不知佛是何人。法是何義。僧是何名。衰殘至此。殆不忍言。每一思及。不覺淚下。我為佛子。不能報恩。內無益於己。外無益於人。生無益於時。死無益於後。天雖高不能覆我。地雖厚不能載我。極重罪人。非我而誰。由是痛不可忍。計無所出。頓忘鄙陋。忽發大心。雖不能挽回末運於此時。決當圖護持正法於來世是故偕諸善友。同到道場。述為懺摩。建茲法會。發四十八之大願。願願度生。期百千劫之深心。心心作佛。從於今日。盡未來際。畢此一形。誓歸安養。既登九品回八娑婆。俾得佛日重輝。法門再闡。僧海澄清於此界。人民被化於東方。劫運為之更延。正法得以久住。此則區區真實苦心。是為發菩提心第十因緣也。

Âm Hán: Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo. Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn, nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật. Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn. Chánh pháp tượng pháp, giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp, hữu giáo vô nhân. Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện, cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh, cử mục thao thao, thiên hạ giai thị. Bất tri Phật thị hà nhân? Pháp thị hà nghĩa? Tăng thị hà danh? Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ. Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân, nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân, sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã; địa tuy hậu, bất năng tải ngã. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy? Do thị thống bất khả nhẫn, kế vô sở xuất; đốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm. Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời, quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế. Thị cố giai chư thiện hữu, đồng đáo đạo tràng; thuật vi sám ma, kiến tư pháp hội. Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh; kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật. Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng, ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà. Tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển, tăng hải trừng thanh ư thử giới, nhân dân bị hóa ư Ðông phương, kiếp vận vi chi cánh diên, chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ. Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên dã.

Dịch nghĩa: Thế nào là làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài? Thế tôn chúng ta từ vô lượng kiếp, vì tất cả chúng ta, mà tu đạo bồ đề. Ngài làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn. Cho nên khiến nhân tròn quả đủ, ngài mới thành Phật. Sau khi thành Phật giáo hóa hoàn tất, ngài vào Niết Bàn, nay thì chánh pháp, tượng pháp đã qua. Chúng ta đang ở trong đời mạt pháp, Phật pháp còn đó mà không người tu hành. Tà chánh lộn xộn, phải trái khó phân. Ganh đua tranh nhân ngã, toàn phường lợi danh. Ngước mắt nhìn quanh, mọi người đều vậy chẳng ai thoát khỏi. Mịt mù không biết Phật là ông nào? Pháp nghĩa ra sao? Tăng là cái gì? Suy tàn dến thế nói ra bất nhẫn. nhưng mỗi khi nghĩ đến bất giác lệ tuôn. Ta là con Phật mà không thể đề đáp công ơn Phật? Trong không ích cho mình, ngoài chẳng ích cho người. sống không ích cho đương thời, chết chẳng ích cho hậu thế. Trời tuy cao không che nổi ta, đất tuy dày không che nổi ta. Cái đứa cực ác, không ta thì ai? Do đó lòng đau không thể chịu nỗi, mà toan tính thì cũng chẳng đề xuất được kể gì. Bỗng nhiên vụt quên rằng mình quê mùa, vụt phát tâm rộng lớn. tuy chưa thể vãng hối mạt vận ngay trong lúc này, nhưng quyết định phải hộ trì được chánh pháp mai sau. Cho nên cùng các thiện hữu dắt nhau đến đạo tràng soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này. Phát bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng nhằm hóa độ chúng sanh, cầu trăm ngàn kiếp thân tâm, tầm nào cũng hướng tiêu đích làm Phật. Kể từ hôm nay cho đến tận cùng đời vị lai, phải thanh toán cho xong cái hình hài này, và thề quyết phải vãng sanh về an dưỡng. Sau khi lên xong chín phẩm lại lui về ta bà, mặt trời Phật pháp sẻ được sáng lại, cửa vào chánh pháp phải được mở toan, biển lòng tăng giới lặng trong ở cỏi này, nhân dân đông độ được kiếp hóa ngay tại chổ. Vận hội nhờ đó mà kéo dài ra thêm, chánh pháp nhờ đó mà tồn tại lâu dài. Đây là tâm nguyện chân thành, từng được thiết tha ấp ủ. Đó là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm bồ đề.

Dịch thơ Nghĩ phật pháp tương lai Khiến tồn tại lâu dài Đấng Thế Tôn của ta Đức từ phụ Thích Ca Từ xưa vô lượng kiếp Phát tâm đại bồ đề Việc khó làm làm được Điều khó nhẫn nhẫn qua Nhân tròn quả chân thật Rồi ra ngài thành Phật Quả thật ngài tròn đầy Giáo hóa khắp đó đây Cơ hóa độ chu toàn Ngài an nhiên Niết Bàn Chánh tượng pháp qua rồi Vậy mạt pháp đến nơi Giáo pháp tuy vẫn còn Thếu con người thích tu Tà chánh mãi mờ lu Thị phi cùng phức tạp Nhân quả mãi cạnh tranh Đeo đẳng chút lợi danh Mở mắt ra là thấy Thiên hạ đều như vậy Ai biết Phật ra sao Chánh pháp đáng thắp cao Tăng xuất gia yếm thế Suy tàn đến như vậy Nghĩ ngơi khó nên lời Bất giác lệ tuôn rơi Thân làm con như lai Không báo đáp ơn ngài Trong vô ích cho mình Ngoài chẳng lợi cho ai Sống vô ích cho đời Chết vô vị tương lai Trời cao chẳng giúp ta Đất dày không dung ta Không bảo vệ đạo pháp Tội ấy thuộc về ta Do vậy lòng ta đau Lại nhìn trước ngó sau Chưa gặp phương chước hay Quên ta phường ngô ngay Phát tâm ta dõng mãnh Hộ pháp thời mạt vận Chưa cứu liền được đau Nhưng vãng rồi mai sau Vậy nên nhóm thiện hữu Kiến thiết đại đạo tràng Đồng tâm lập pháp hội Soạn phương thức sám hối Theo Di Đà ta phát Bốn mươi tám đại nguyện Nguyện nguyện độ chúng sanh Nguyện đạo tâm viên thành Nguyện đời đời chân thật Tâm tâm điều thành Phật Tưg tâm ta thao tác Hết đời sanh cực lạc Lên chín phẩm đài sen Trở lại độ ta bà Mong mặt trời Phật pháp Mỗi ngày rạng tỏa ra Cửa pháp môn phương tiện Tái diễn lại vinh thăng Lớp lớp hàng chơn Tăng Thăng hoa đạo cỏi này Người đời được giáo hóa Đạo pháp mãi tăng hoa Vận hội mãi kéo dài Khắp vô tận tương lai Đó là niềm ưu tư Tôi gởi đến mọi người Đây lý do thứ mười Phát tâm đại bồ đề

Lưu Thông Phần (Phần Lưu Thông) Nguyên văn: 如是十緣備識。八法周知。則趣向有門。開發有地。相與得此人身。居於華夏。六根無恙。四大輕安。具有信心。幸無魔障。況今我等又得出家。又受具戒。又遇道場。又聞佛法。又瞻舍利。又修懺法。又值善友。又具勝緣。不於今日發此大心。更待何日。唯願大眾。愍我愚誠。憐我苦志。同立此願。同發是心。未發者今發。已發者增長。已增長者今令相續。勿畏難而退怯。勿視易而輕浮。勿欲速而不久長。勿懈怠而無勇猛。勿委靡而不振起。勿因循而更期待。勿因愚鈍而一向無心。勿以根淺而自鄙無分。譬諸種樹。種久則根淺而日深。又如磨刀。磨久則刀鈍而成利。豈可因淺勿種。任其自枯。因鈍弗磨。置之無用。又若以修行為苦。則不知懈怠尤苦。修行則勤勞暫時。安樂永劫。懈怠則偷安一世。受苦多生。況乎以淨土為舟航。則何愁退轉。又得無生為忍力。則何慮艱難。當知地獄罪人。尚發菩提於往劫。豈可人倫佛子。不立大願於今生。無始昏迷。往者既不可諫。而今覺悟。將來猶尚可追。然迷而未悟。固可哀憐。苟知而不行。尤為痛惜。若懼地獄之苦。則精進自生。若念無常之速。則懈怠不起。又須以佛法為鞭策。善友為提攜。造次弗離。終身依賴。則無退失之虞矣。勿言一念輕微。勿謂虗願無益。心真則事實。願廣則行深。虗空非大。心王為大。金剛非堅。願力最堅。大眾誠能不棄我語。則菩提眷屬。從而聯姻。蓮社宗盟。自今締好。所願同生淨土。同見彌陀。同化眾生。同成正覺。則安知未來三十二相。百福莊巖。不從今日發心立願而始也。願與大眾共勉之。幸甚幸甚。

Âm Hán: Như thị thập duyên bị thức, bát pháp châu tri, tắc xu hướng hữu môn, khai phát hữu địa. Tương dữ đắc thử nhân thân, cư ư Hoa Hạ. Lục căn vô dạng, tứ đại khinh an, cụ hữu tín tâm, hạnh vô ma chướng. Huống kim ngã đẳng, hựu đắc xuất gia, hựu thọ cụ giới, hựu ngộ đạo tràng, hựu văn Phật pháp, hựu chiêm xá lợi, hựu tu sám pháp, hựu trị thiện hữu, hựu cụ thắng duyên. Bất ư kim nhật phát thử đại tâm, cánh đãi hà nhật? Duy nguyện đại chúng, mẫn ngã ngu thành; lân ngã khổ chí, đồng lập thử nguyện, đồng phát thị tâm. Vị phát giả kim phát, dĩ phát giả tăng trưởng, dĩ tăng trưởng giả kim linh tương tục. Vật úy nan nhi thối khiếp, vật thị dị nhi khinh phù, vật dục tốc nhi bất cửu trường, vật giải đãi nhi vô dũng mãnh, vật ủy mĩ nhi bất chấn khởi, vật nhân tuần nhi cánh kỳ đãi, vật nhân ngu độn nhi nhất hướng vô tâm, vật dĩ căn thiển nhi tự bỉ vô phận. Thí chư chủng thọ, chủng cửu tắc căn thiển nhi nhật thâm; hựu như ma đao, ma cửu tắc đao độn nhi thành lợi. Khởi khả nhân thiển vật chủng, nhậm kỳ tự khô; nhân độn phất ma, trí chi vô dụng? Hựu nhược dĩ tu hành vi khổ, tắc bất tri giải đãi vưu khổ. Tu hành tắc cần lao tạm thời, an lạc vĩnh kiếp; giải đãi tắc thâu an nhất thế, thọ khổ đa sanh. Huống hồ dĩ Tịnh độ vi chu hàng, tắc hà sầu thối chuyển? Hựu đắc vô sanh vi nhẫn lực, tắc hà lự gian nan? Đương tri địa ngục tội nhân, thượng phát Bồ đề ư vãng kiếp; khởi khả nhân luân Phật tử, bất lập đại nguyện ư kim sanh. Vô thủy hôn mê, vãng giả ký bất khả gián; nhi kim giác ngộ, tương lai do thượng khả truy. Nhiên mê nhi vị ngộ, cố khả ai lân; cẩu tri nhi bất hành, vưu vi thống tích. Nhược cụ địa ngục chi khổ, tắc tinh tấn tự sanh; nhược niệm vô thường chi tốc, tắc giải đãi bất khởi. Hựu tu dĩ Phật pháp vi tiên sách, thiện hữu vi đề huề. Tháo thứ phất ly, chung thân y lại, tắc vô thối thất chi ngu hỹ! Vật ngôn nhất niệm khinh vi, vật vị hư nguyện vô ích. Tâm chân tắc sự thật, nguyện quảng tắc hạnh thâm. Hư không phi đại, tâm vương vi đại; kim cương phi kiên, nguyện lực tối kiên. Đại chúng thành năng bất khí ngã ngữ, tắc Bồ đề quyến thuộc tùng thử liên nhân. Liên xã tông minh, tự kim đế hảo, sở nguyện đồng sanh Tịnh độ, đồng kiến Di Đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác. Tắc an tri vị lai tam thập nhị tướng, bách phước trang nghiêm! Bất tùng kim nhật phát tâm lập nguyện nhi thủy dã. Nguyện dữ đại chúng cộng miễn chi! Hạnh thậm hạnh thậm!

Dịch nghĩa: Như vậy là mười lời khuyên đã biết, tám hướng đã rõ, thú hướng có lối, khai phá có nơi, chúng ta đã được làm người, ở đất có văn hóa, sáu căn không thiếu, cơ thể khỏe mạnh, đầy đủ tính tâm, may mắn không gặp ma chướng, huống nữa được xuất gia, được gặp đạo tràng, được thọ Cụ Giới, được thờ Xá Lợi, được tu sám pháp, được gặp bạn lành, được đủ duyên may. Như thế mà nếu hôm nay không chiệu phát tâm rộng lớn thì đợi đến bao giờ. Cuối xin đại chúng sót đau cho tấm lòng lành ngu muội của tôi, tiết thương cho cái chí nguyện khổ sở của tôi, để cùng nhau cùng lập nguyện ấy, cùng phát tâm này. Ai chưa phát thì nay phát, ai phát rồi thì kích thích tăng trưởng, ai tăng trưởng rồi thì nay cứ tiếp tục. Đừng sợ khó mà sợ hãi lùi bước, đừng cho dể mà khinh thường, đừng ham mau mà không giữ được bền lâu, đừng lười nhác mà mất dõng mảnh, đừng rụt rè mà giảm khí thế đang lên, đừng vì chần chờ mà hẹn rày hẹn mai, đừng tự cho mình ngu mà buôn thã tất cả, đừng vì căn cơ thậm lụt mà tự ti rằng mình không được dự phòng. Ví như trồng cây, trồng lâu thì rễ ngày càng ăn sâu, lại ví như mài dao, mài hoài thì dao đùi vẫn phải bén. Há nên vì cạn mà không trồng, để mặt cho cây khô héo, hay vì đùi mà không mài, để mặt cho dao sét rỉ, thành vật vô dụng. Lại nữa, nếu bảo tu là khổ thì lười lại càng khổ, tu thì chỉ khỗ nhọc nhất thời mà an vui vĩnh viễn, lười thì tạm thông thã một đời mà chịu khổ muôn kiếp. Huốn nữa lấy pháp môn Tịnh Độ làm tàu thuyền thì lo gì thối chuyển, lại thêm có trí tuệ vô sanh làm sức đẩy thì ngại gì gian nan. Nên biết, tội nhân ở trong Địa Ngục mà còn phát tâm bồ đề từ kiếp trước, huốn nửa con Phật trong nhân luân, há lại không lập dại nguyện ngay trong kiếp này. Vì hôn mê từ trong kiếp trước, những gì qua rồi không thể cản ngăn, nhưng ngày nay đã tỉnh ngộ, những gì sắp đến còn có thể đón bắt, nhưng mê mà tỉnh dương nhiên là việc đáng thương, còn biết mà không làm thì mới thật là điều đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ Địa Ngục thì tinh tấn tự sanh, nếu nghĩ cái chết gần kề thì lười nhác không thấy. Lại nữa, phải lấy Phật pháp làm roi giục, lấy bạn lành làm tay dắt, vội mấy cũng không rời, trọn đời bám chắt vào. Như vậy thì không lo gì thối chuyển nữa. Chớ bảo rằng một niệm không đi đến đâu, đừng cho rằng niệm rỗng chẵng có ích gì, tâm chân thì sự việc thật, nguyện rộng thì công hạnh sâu xa, hư không đâu có lớn, cái tâm mới là lớn, kim cương đâu có rắn, sức nguyện mới thật rắn. Nếu đại chúng thật tâm, không dứt bỏ lời tôi thì quyến thuộc bồ đề từ đây kết hợp, liên minh sen vàng từ đây vươn cao. Nguyện rằng: Cùng sanh tịnh độ, Cùng thấy Di Đà, Cùng độ chúng sanh, Cùng thành chánh giác, Biết đâu ba mươi hai tướng tốt, và trăm phước trang nghiêm sau này, chẳng phải bắt đầu từ buổi phát tâm lập nguyện hôm nay. Nguyện cùng đại chúng cùng nhau gắng sức. Rất mong lắm thay! Rất mong lắm thay!

Dịch thơ Mười lí do tỏ tường, Và tám điều đã rõ, Pháp tu có su hướng, Khai phát ắt có đường, Chúng ta được làm người, Sáu giác quan vẹn toàn, Sinh chổ có Phật pháp, Thân tâm lại nhẹ nhàng, Tính tâm thật chí thành, Ma chướng không phát sanh, Huống chi đến giờ này, Được xuất gia làm thầy, Gặp đạo tràng thọ giới, Nghe pháp bái Xá Lợi, Cùng bạn tu sám pháp, Duyên may nay sáng giới, Thiện duyên hội đủ rồi, Hãy phát đại nguyện thôi, Mong đại chúng thương tôi, Ngu muội nói nên lời, Xin soi tỏ ý này, Đồng lập nguyện nơi đây, Chưa phát hãy phát tâm, Phát rồi thêm trổi dậy, Đừng thấy khó mà lùi, Đừng thấy dể bỏ qua, Đừng ham mau mà hỏng, Đừng giãi đãi siêu lòng, Đừng chần chờ hẹn mãi, Đừng uể oải thiếu chân, Đừng có nghĩ qua loa, Việc ấy ta không phần, Như cổ thụ trồng lâu, Nhiều ngày rễ bám sâu, Như cây dao bị đùi, Mài lâu thành sắc bén, Chẳng lẻ không chịu trồng, Để mặt cây héo khô, Chẳng lẻ không chịu mài, Cây dao thành vô dụng, Nếu thấy tu là khổ, Biếng nhát lại khổ hơn, Siêng tu khổ tạm thời, An lạc hưởng đời đời, Nhát tu sống thong dong, Khổ quả sẽ long đong, Pháp Tịnh Độ làm thiền, Làm sao còn thối chuyển, Nhẫn lực đạt vô sanh, Còn ngại gì khó khăn, Kìa địa ngục tội nhân, Còn phát bồ đề tâm, Huống chi được làm người, Lại đệ tử Như Lai, Cái tính ngộ ngày nay, Cố đuổi ắt kịp ngay, Mê mà chưa chịu tỉnh, Cố nhiên thật đáng thương, Biết mà không tu niệm, Đáng tiết chịu oan ương, Sợ cái khổ Địa Ngục, Lòng tinh tấn phát sinh, Thật sự thấy vô thường, Cơn biến nhát tiêu luôn, Nhờ bằng hữu nhắt đường, Lấy Phật pháp làm gương, Thảng thốt chẳng rời nhau, Suốt đời mãi trước sau, Không bao giờ thoái chuyển, Làm gì có khổ đau, Nhất niệm đừng coi rẻ, Chí nguyện chớ sem thường, Tâm chơn thành sự thật, Nguyện rộng hạnh thông thương, Hư không dù có lớn, Tâm nguyện còn lớn hơn, Kim cương dù kiêng cố, Tâm nguyện kiêng cố hơn, Đại chúng đã nhớ lời, Quyến thuộc bồ đề tới, Bằng hữu sớm liên đài, Tịnh độ cùng sánh vai, Đồng diện kiến Di Đà, Cùng hội nhập ta bà, Đồng hóa đọ chúng sanh, Điều trở thành chánh giác, Như vậy biết tương lai, Hảo tướng ba mươi hai, Do tâm phát nguyện này, Tu hành tựu hôm nay, Nguyện đại chúng nổ lực Hưởng hạnh phúc cùng cực. (Tâm Nguyên dịch văn, thơ HT Giới Hương)

Phụ Lục: Ðại sư Tỉnh Am Nguyên văn: 蓮社十一祖 清梵天 省庵法師 師,諱實賢,字思齊,號省庵。常熟時氏子,世儒業。幼出家,嚴習毗尼。尋入講筵,明性相之學。參“念佛者是誰”話,四閱月,忽然開悟曰:“我夢覺矣!”自是機鋒迅利,才辯縱橫,晝覽藏經,晚持佛號。燃指於阿育王山,佛前發四十八大願,感舍利放光。作《勸發菩提心文》,激勵四衆,誦諸多爲涕下。於雍正十二年四月十四日,面西寂然,送者麇至。忽開目曰:“吾去即來,生死事大,各自淨心,念佛可矣!”合掌連稱佛名而逝。 贊曰: 悲心廣大 菩提心文 四十八願 願力宏深 行解真實 瑞應超倫 蓮宗一脈 賴以常存 或說偈曰: 見賢思齊精進修 業儒讀書勝大坵 從佛專研毗尼法 參禪徹悟誰自由 大哉菩提激勵發 至矣誓願天地悠 舍利放光照千古 尊者恩澤萬劫留 Âm Hán Việt: Liên Xã thập nhất Tổ Thanh Phạm Thiên Tỉnh Am Pháp sư Sư, húy Thật Hiền, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am. Thường Thục Thời thị tử, thế Nho nghiệp. Ấu xuất gia, nghiêm tập Tỳ ni. Tầm nhập giảng diên, minh tánh tướng chi học. Tham “niệm Phật giả thị thùy” thoại, tứ duyệt nguyệt, hốt nhiên khai ngộ viết: “Ngã mộng giác hỹ!” Tự thị cơ phong tấn lợi, tài biện tung hoành, trú lãm tạng kinh, vãn trì Phật hiệu. Nhiên chỉ ư A Dục Vương sơn, Phật tiền phát tứ thập bát đại nguyện, cảm xá lợi phóng quang. Tác “Khuyến phát Bồ đề tâm văn”, khích lệ tứ chúng, tụng giả đa vi thế hạ. Ư Ung Chánh thập nhị niên tứ nguyệt thập tứ nhật, diện tây tịch nhiên, tống giả quần chí. Hốt khai mục viết: “Ngô khứ tức lai, sanh tử sự đại, các tự tịnh tâm, niệm Phật khả hỹ!” Hợp chưởng liên xưng Phật danh nhi thệ. Tán viết: Bi tâm quảng đại Bồ đề tâm văn Tứ thập bát nguyện Nguyện lực hoằng thâm Hành giải chân thật Thụy ứng siêu luân Liên tông nhất mạch Lại dĩ thường tồn Hoặc thuyết kệ viết: Kiến hiền tư tề tinh tiến tu Nghiệp Nho độc thư thắng đại khưu Tùng Phật chuyên nghiên tỳ ni pháp Tham thiền triệt ngộ thùy tự do Ðại tai Bồ đề khích lệ phát Chí hỹ thệ nguyện thiên địa du Xá lợi phóng quang chiếu thiên cổ Tôn giả ân trạch vạn kiếp lưu

Dịch: Thật Hiền Ðại sư tự Tư Tề, hiệu Tĩnh Am, người đời Thanh, con nhà họ Thời ở Thường Thục. Xuất gia từ thuở bé, sau khi xuất gia, nghiêm trì giới luật, giảng kinh thuyết pháp, nghiên cứu pháp môn tánh tướng. Bốn tháng tham cứu câu “Niệm Phật Là Ai”, hoát nhiên khai ngộ, và nói: “Tôi đã tỉnh giấc mơ!” Từ đó cơ phong lanh lẹ sắc bén, biện tài tung hoành, ngày duyệt Tam tạng kinh, đêm chuyên trì Phật hiệu. Ngài đốt ngón tay ở tháp A Dục Vương, rồi trước Phật phát bốn mươi tám điều đại nguyện, lúc ấy cảm ứng xá lợi phóng hào quang rực rỡ. Ngài làm bài văn “Khuyên phát tâm Bồ đề”, khích lệ tứ chúng, nhiều người đọc bài văn này đều rơi lệ. Ngày mười bốn tháng tư, niên hiệu Ung Chánh thứ mười hai, Ðại sư hướng về Tây ngồi viên tịch. Hàng đạo tục các nơi nghe tin hội về đưa tiễn rất đông. Ðại sư bỗng mở mắt nói: “Tôi đi không bao lâu sẽ trở lại, sanh tử là việc lớn, mỗi người nên tự thanh tịnh tâm, niệm Phật thì có thể giải quyết được việc sanh tử!” Dặn dò xong, chắp tay niệm danh hiệu Phật rồi thị tịch. Bài tán rằng: Tâm từ rộng lớn, Làm bài văn “Khuyến phát Tâm Bồ đề ” Bốn tám nguyện lớn, Nguyện lực rộng sâu Hành nguyện chân thật, Ðiềm lành cảm ứng vô biên Liên tông mạng mạch, Nhờ Ngài trường tồn. Hoặc nói kệ rằng: Kiến hiền tư tề tinh tấn tu hành Nghiệp Nho đọc sách như núi đồi Học Phật tu hành nghiêm trì giới luật Tham thiền triệt ngộ ai tự do Lớn thay khuyên phát tâm Bồ đề Cao thay lời thệ nguyện như trời đất Xá lợi phóng quang chiếu soi thiên cổ Tôn giả ân đức lưu ngàn đời.

* Tiểu sử ngài Thật Hiền Húy là Thật Hiền, hiệu là Tỉnh An, Ngài còn có hiệu là Tư Tề (思齊), Nài sinh vào ngày Phật Đản năm Khang Hy thứ 24 (1868- 1734) đời nhà Thanh, thọ 49 năm và 25 hạ lạp. Là đệ tử của tổ Dung tuyển lúc 7 tuổi. Từ 7-10 tuổi ngài thông minh thi có thể gọi là thần đồng. 15 tuổi mới xuất gia với hòa thượng Dung Tuyển tại am Thanh Lương. 24 tuổi Ngài thọ tam đàn cụ túc (1710). 25 tuổi Ngài y chỉ cầu pháp với pháp sư Cừ Thành học kinh Pháp Hoa. Ngài Cừ Thành là một vị pháp sư nổi tiếng đương thời có rất nhiều đồ chúng theo học. 26 tuổi ngài đến y chỉ cầu pháp với Ngài Thiệu Đàm để học Duy Thức Tươngd Tông, tại đây ngài đã nhập thất 3 năm và được Ngài Thiệu Đàm ấn chứng truyền Y, Bát làm tổ thứ tư của dòng Thiên Thai Chánh Tông. 29 tuổi Ngài đến chùa Sùng Phước với HT Linh Thựu, suốt 3 tháng nghiên cứu học công án thiền “AI NIỆM PHẬT” đến tháng thứ 4 tỏ ngộ nên tổ truyền y bát cho ngài và nhường chức trụ trì cho ngài nhưng ngài không dám nhận, nhưng dưới sự nài ép ngài phải ra đi. Nhập thất ở chùa Châu Tinh, ngày ngài học kinh điển đêm xuống niệm Phật suốt ba năm. Được Tăng, Ni ở đây ưa chuộn và thưa thỉnh nên ngài đã giảng kinh Pháp Hoa, va đại chúng thỉnh ngài ở lại đó. 34 tuổi ngài về chùa Long Hưng (Hàn Châu) với pháp sư Thiệu Đàm, lúc này tổ không khỏe, nên sau khi nói chuyện một thời nhỏ đã thỉnh ngài ở lại giảng dạy đồ chúng, ngài đã chấp nhận ở lại đây thây thế tổ Thiệu Đàm. Sau một năm ngài xin ra đi đến chùa A Dục Vương để chime bái Xá Lợi Phật. Khi ngài đến thì nơi tháp phát ra ánh sáng mà ngài chưa từng thấy bao giờ, và ngài đã phát nguyện ở lại đó thuyết kinh Di Đà, Di Giáo. Ngày 15/2/ 1719 ngài phát nguyện đốt ngón tay cúng dường chư Phật ngay tại tháp và sau 5 năm ngài đã đốt 5 ngón tay. Nếp sinh hoạt này kéo dài 10 năm và thành lập hội Niết Bàn. Năm năm cuối đời ngài đã ở chùa Tiền Lâm (Hàn Châu), Chùa Phạm Thiên (núi Phụng Sơn) nhập thất không ra khỏi cửa. Do thấy đồ chúng không có tinh thần rốt ráo nên ngài đã viết “Phát Bồ Đề Tâm Văn”. Sau khi mất ngài được suy tôn làm tổ thứ chín của Liên Tôn. Ngày Phật thành đạo 1733 Ngài nói với đồ chúng “Ngày tháng tư năm sau ta ra đi” và ngài phát nguyện niệm một ngày 10 vạn danh hiệu Phật trong một năm. Ngày 12/4 năm sau ngài thấy Tam Thế Tây Phương đến rước ngài liền làm kệ: 身在花中佛現前 thân tại hoa trung phật hiện tiền 佛光-照-金連 phật quang – chiếu – kim liên 心從諸佛-生去 tâm tùng chư phật – sanh khứ 無去無來事-然 vô khứ vô lai sự – nhiên Ngài thị tịch vào ngày 14/4 năm Giáp Dần (1734) bình thản như không có gì. Trước khi đi ngài con khuyên đại chúng “Sinh tử là việc lớn, ai náy hãy tỉnh tâm niệm Phật”. Tháp ngài được xây trên đồi Phất Thủy. Đến đời Càn Long thứ 7 thì dời về phía hửu chùa A Dục, còn tháp củ thì thờ Y, Bát của ngài. Tác phẩm của ngài còn lưu lại: – Tịnh độ thi 80 bài. – Chú Tây Phương phát nguyện – Đông Hải lược giải – Tục vãng sanh truyện – Xá Lợi sám – Niết Bàn sám

Chia sẻ:

  • Facebook
  • X
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Phát Bồ đề Tâm Văn