Phi Tần – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
Hạ - Thương - Chu
sửaTrước thời nhà Hạ, chúa tể cai trị thiên hạ gọi là Thiên tử (天子), thuở sinh thời xưng là Hậu (后), khi mất thì triều thần mới tôn thụy là Đế (帝), vợ chính của Thiên tử gọi là Phi (妃). Từ triều nhà Thương, Thiên tử xưng Vương (王), vợ chính gọi là Hậu.
Lễ ký - Hôn nghi ghi lại chế độ nội cung nhà Chu: "Noi gương cổ nhân dưới Hậu, Thiên tử lập sáu cung, lấy ba Phu nhân, chín Tần, hai mươi bảy Thế phụ, tám mươi mốt Ngự thê."
- Hậu (后), giữ ngôi chủ quỹ nơi cung cấm, người bạn đời cùng đế vương thành đôi giai ngẫu.
- Phu nhân (夫人), 3 người, xứng trang nghi phạm về ý tiết thuần mỹ.
- Tần (嬪), 9 người, giáo hóa bốn mỹ đức là công, dung, ngôn, hạnh.
- Thế phụ (世婦), 27 người, coi việc lễ tiết.
- Ngự thê (御妻), trong Chu lễ chép là Nữ ngự (女御), 81 người, hầu thú thanh sắc, yến tẩm của quân vương.
Đây là những ghi chép bằng văn tự sớm nhất trong lịch sử phong kiến về chế độ nội cung.
Tần
sửaThời Tần kế thừa quy định từ thời Tần Huệ Văn Vương, dưới Vương hậu định ra:
- Phu nhân (夫人), không rõ đãi ngộ, vốn là danh vị của chính thất nước Tần trước đó.
- Mỹ nhân (美人), lộc 2000 thạch, tước như Thiếu thượng tạo (少上造).
- Lương nhân (良人), không rõ đãi ngộ.
- Bát tử (八子), lộc 1000 thạch, tước như Trung canh (中更).
- Thất tử (七子), không rõ đãi ngộ.
- Trường sử (長使), không rõ đãi ngộ.
- Thiếu sử (少使), không rõ đãi ngộ.
Sau khi thống nhất, Tần Thủy Hoàng đã thu nạp toàn bộ mỹ nhân từ các nước về hậu cung của mình và ban danh phận như trên. Do thiếu sử liệu, không có bất kỳ phi tần nào của Tần Thủy Hoàng được ghi chép trong chính sử, cũng như hai vị vua đời sau là Tần Nhị Thế và Tần Tử Anh.
Tây Hán
sửaĐầu đời Hán, ngoài Hoàng hậu đều xưng Phu nhân, sau thêm Mỹ nhân các loại. Đời Vũ Đế chế ra Tiệp dư, đời Nguyên Đế, chế ra Chiêu nghi, lúc này Hậu cung đã có gồm 19 chức danh, chia thành 14 bậc:[3]
- Chiêu nghi (昭儀), lộc sánh Thừa tướng (丞相), tước như Chư hầu Vương (諸侯王).
- Tiệp dư (婕妤), lộc sánh Thượng khanh (上卿), tước như Liệt hầu (列侯).
- Khinh nga (娙娥), lộc Trung nhị thiên thạch (中二千石), tước như Quan nội hầu (關內侯).
- Dung hoa (傛華), lộc Chân nhị thiên thạch (真二千石), tước như Đại thượng tạo (大上造).
- Mỹ nhân (美人), lộc 2000 thạch, tước như Thiếu thượng tạo (少上造).
- Bát tử (八子), lộc 1000 thạch, tước như Trung canh (中更).
- Sung y (充依), lộc 1000 thạch, tước như Tả canh (左更)
- Thất tử (七子), lộc 800 thạch, tước như Hữu thứ trưởng (右庶長).
- Lương nhân (良人), lộc 800 thạch, tước như Tả thứ trưởng (左庶長).
- Trưởng sử (長使), lộc 600 thạch, tước như Ngũ đại phu (五大夫).
- Thiếu sử (少使), lộc 400 thạch, tước như Công thừa (公乘).
- Ngũ quan (五官), lộc 300 thạch; Thuận thường (順常), lộc 200 thạch. Từ Vô quyên (無涓), Cộng hòa (共和), Ngu linh (娛靈), Bảo lâm (保林), Lương sử (良使), Dạ giả (夜者), mỗi tước 100 thạch. Lại có Thượng Gia nhân tử (上家人子) cùng Trung Gia nhân tử (中家人子), đều có lương thực chu cấp theo thứ bậc. Từ Ngũ quan trở xuống, khi chết đều đem táng bên ngoài Tư Mã môn.
Chế định triều Tây Hán phức tạp, lẫn vào đó có vẻ còn có Nữ quan, dù lúc này khái niệm Nữ quan vẫn chưa rõ ràng như về sau. Vợ chính của Hoàng thái tử gọi là Hoàng thái tử phi (皇太子妃), nàng hầu có các bậc:
- Lương đệ (良娣).
- Nhụ tử (孺子).
Tân
sửaSau khi cướp ngôi nhà Tây Hán, Vương Mãng tiến hành bãi bỏ vị hiệu trước đó, đặt lại về chế độ cổ đại nhà Chu.[4]
Đông Hán
sửaQuang Vũ Đế định lại thứ bậc nội cung, dưới Hoàng hậu đặt các bậc: Quý nhân (貴人), Mỹ nhân (美人), Cung nhân (宮人) và Thái nữ (采女), đều không có tước hàm, mỗi khi đến mùa mới đem thưởng vật phẩm.
Chế độ tuyển hậu cung nhà Hán có gọi là Bát nguyệt Toán nhân (八月筭人). Căn cứ Hậu Hán thư chú ghi lại:「"Vào tháng 8 âm lịch hằng năm, triều đình cử Dịch đình thừa cùng Tương công tới các miền quê quanh kinh đô Lạc Dương tuyển chọn người đẹp đang độ xuân thì, tuổi từ 13 tới 20, nét mày thanh tú, cử chỉ đoan trang, tướng mạo cát lợi. Đều sung vào hậu cung, thời gian ấy hầu hạ chu toàn, tất sẽ đưa lên Hoàng đế lâm hạnh. Do vậy quan viên sai đi tuyển chọn đều có tiêu chí cẩn thận, sách hạch rõ ràng những cô gái này phải vừa hiền vừa có trí"」. Từ đời Minh Đế, tuy ức chế ngoại thích, bỏ tình riêng mà không trọng dụng anh em của Hoàng hậu, nhưng từ Chương Đế bắt đầu, từ hậu cung đã không có đức. Hoàn Đế, Linh Đế hoang dâm, từ phi tần đến kẻ hầu người hạ tới hai vạn người.
Tào Ngụy
sửaTào Tháo khi còn là Ngụy vương, dưới Vương hậu định ra:
- Phu nhân (夫人).
- Chiêu nghi (昭儀).
- Tiệp dư (婕妤).
- Dung hoa (容華).
- Mỹ nhân (美人).
Đông Hán mất nước, Văn Đế bức Hán Hiến Đế nhường ngôi. Chế độ nội cung phân chia thứ bậc có mang theo quy định từ thời còn là Ngụy vương, đến thời Minh Đế mới hoàn thiện, tổng 14 bậc:
- Phu nhân (夫人), vị dưới Hoàng hậu, không rõ đãi ngộ.
- Quý tần (貴嬪), vị dưới Phu nhân, không rõ đãi ngộ.
- Thục phi (淑妃), bậc sánh Tướng quốc (相國), lộc ngang tước Chư hầu Vương (诸侯王).
- Thục viên (淑媛), bậc sánh Ngự sử đại phu (御史大夫), lộc ngang Huyện công (縣公).
- Chiêu nghi (昭儀), lộc ngang Huyện hầu (縣侯).
- Chiêu hoa (昭華), lộc ngang Hương hầu (鄉侯).
- Tu dung (修容), lộc ngang Đình hầu (亭侯).
- Tu nghi (修儀), lộc ngang Quan nội hầu (關內侯).
- Tiệp dư (婕妤), đãi 2.000 thạch.
- Dung hoa (容華), đãi 2.000 thạch.
- Mỹ nhân (美人), đãi 2.000 thạch.
- Lương nhân (良人), đãi 1.000 thạch.
- Ta nhân (鹺人).
Ngoài những đẳng vị trên, nhà Ngụy thỉnh thoảng còn thấy nhắc đến Quý nhân, Tài nhân nhưng địa vị không rõ. Thời Đông Ngô, dưới Hoàng hậu có Phu nhân, Mỹ nhân; thời Thục Hán, ngoài Phu nhân còn có tước vị Quý nhân.
Tấn
sửaTấn Vũ Đế tham khảo chế độ Tào Ngụy, thiết lập hậu cung. Dưới Hoàng hậu có:
- Tam phu nhân (三夫人): Quý tần (貴嬪), Phu nhân (夫人), Quý nhân (貴人), vị ngang Tam công (三公).
- Cửu tần (九嬪): Thục phi (淑妃), Thục viên (淑媛), Thục nghi (淑儀), Tu hoa (修華), Tu dung (修容), Tu nghi (修儀), Tiệp dư (婕妤), Dung hoa (容華), Sung hoa (充華); vị ngang Cửu khanh (九卿).
Dưới Cửu tần còn thiết Mỹ nhân (美人), Tài nhân (才人), Trung tài nhân (中才人), vị dưới 1.000 thạch.
Ngũ Hồ thập lục quốc
sửaHậu Triệu
sửaTrong các nước dưới thời Thập lục quốc, Hậu Triệu là nước có ghi chép đầy đủ nhất, cụ thể:
- Chiêu nghi (昭儀), Phu nhân (夫人), vị ngang Thượng công (上公).
- Quý tần (貴嬪), Quý nhân (貴人), vị ngang Liệt hầu (貴人).
- Tam anh (三英), Cửu hoa (九華), vị ngang Liệt bá (九華).
- Thục viện (淑媛), Thục nghi (淑儀), vị ngang Liệt tử (列子).
- Dung hoa (容華), Mỹ nhân (美人), vị ngang Liệt nam (列男).
Hán Triệu
sửaDưới Hoàng hậu bao gồm:
- Tả Quý tần (漢有左) và Hữu Quý tần (趙有左).
- Quý nhân (貴人).
- Phu nhân (夫人).
Các nước khác
sửaNgoài Hậu Triệu và Hán Triệu, nội cung các nước khác tương đối đơn giản. Thành Hán có bậc Mỹ nhân (美人), Tiền Tần và Bắc Yên có bậc Chiêu nghi (昭儀) và Phu nhân (夫人), Tiền Lương và Tây Tần ghi nhận Tả Phu nhân (左夫人), Hậu Yên có Quý tần (貴嬪) và Thục nghi (淑儀), Hậu Lương có Thục viện (淑媛) và Mỹ nhân (美人). Các nước còn lại đều không rõ.
Nam Bắc triều
sửaBắc Ngụy
sửaĐao Vũ Đế thiết lập hậu cung rất đơn giản, dưới Hoàng hậu chỉ có Phu nhân, dù vậy giữa các phu nhân cũng thiết lập các thứ bậc trên dưới về đãi ngộ. Do tình trạng "Tử quý mẫu tử" (子贵母死), bắt buộc ban chết người sẽ sinh ra Trữ quân, nên hậu cung Bắc Ngụy lại có một danh hiệu đặc thù Bảo Thái hậu (保太后), dành để phong cho các bảo mẫu - người nuôi dạy các Hoàng đế tương lai khi mẹ ruột không còn.
Thái Vũ Đế lên ngôi, thiết lập hậu cung rõ ràng hơn:
- Tả Chiêu nghi (左昭儀) và Hữu Chiêu nghi (右昭儀).
- Quý nhân (貴人).
- Tiêu phòng (椒房).
- Trung thức (中式).
Hiếu Văn Đế xem trọng Hán hóa, cải cách hậu cung, vị thứ ngang với quan viên:
- Tả Chiêu nghi (左昭儀) và Hữu Chiêu nghi (右昭儀), vị ngang Đại tư mã (大司馬).
- Tam phu nhân (三夫人), vị ngang Tam công (三公).
- Tam tần (三嬪), vị ngang Tam khanh (三卿).
- Lục tần (六嬪), vị ngang Lục khanh (六卿).
- Thế phụ (世婦), vị ngang Trung đại phu (中大夫).
- Ngự nữ (御女), vị ngang Nguyên sĩ (元士).
Bắc Tề
sửaChế độ nội cung hoàn thiện dưới thời Vũ Thành Đế với hệ thống tước hiệu phức tạp bậc nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến. Thời kỳ này cũng là lần đầy tiên định hạng giai phẩm của quan viên cho phi tần, khác với các triều đại trước chỉ dừng ở mức so ngang vế với các bậc quan viên:
- Thục phi (淑妃), thứ bậc sánh cùng Tướng quốc.
- Tả Nga anh (左娥英), Hữu Nga anh (右娥英), thứ bậc sánh cùng Thừa tướng.
- Tả Chiêu nghi (左昭儀), Hữu Chiêu nghi (右昭儀), thứ bậc sánh cùng Đại phu.
- Phu nhân (夫人), 3 người: Hoằng đức (弘德), Chính đức (正德), Sùng đức (崇德), thứ bậc sánh cùng Tam công.
- Tần (嬪), 9 người:
- Quang du (光猷), Chiêu huấn (昭訓), Long huy (隆徽), thứ bậc sánh cùng Tam khanh.
- Tuyên huy (宣徽), Ngưng huy (凝暉), Tuyên minh (宣明), Thuận hoa (順華), Ngưng hoa (凝華), Quang huấn (光訓), thứ bậc sánh cùng Lục khanh.
- Thế phụ (世婦), 27 người: Quảng huấn (廣訓), Tu huấn (修訓), Tĩnh huấn (靜訓), Kính huấn (敬訓), Kính uyển (敬婉), Kính tín (敬信), Chiêu ninh (昭寧), Chiêu hoa (昭華), Uyển hoa (婉華), Phương hoa (芳華), Phương du (芳猷), Chính hoa (正華), Quang chính (光正), Mậu quang (茂光), Minh phạm (明範), Minh tín (明信), Minh thục (明淑), Hoằng du (弘猷), Hoằng huy (弘徽), Lệnh tắc (令則), Huy tắc (暉則), Huy phạm (暉範), Trinh phạm (貞範), Diễm nghi (艷儀), Diệu nghi (曜儀), Diệu đức (曜德), Hòa đức (和德), hàm Tòng tam phẩm.
- Ngự nữ (御女), 81 người: Mậu đức (茂德), Kính mậu (敬茂), Mậu phạm (茂範), Diệu phạm (妙範), Tu phạm (修範), Anh phạm (英範), Huy chương (暉章), Quỳnh chương (瓊章), Dao chương (瑤章), Lương viên (良媛), Lương tín (良信), Chính tín (正信), Nhu hoa (柔華), Tư nhu (思柔), Lệnh nghi (令儀), Tú nghi (秀儀), Thận nghi (慎儀), Diệu nghi (妙儀), Uyển nghi (婉儀), Tu tĩnh (修靜), Mậu nghi (茂儀), Nhuận nghi (潤儀), Lệ nghi (麗儀), Hoằng nghi (弘儀), Túc nghi (肅儀), Mục nghi (穆儀), Mục khuê (穆閨), Mục hoa (穆華), Minh ý (明懿), Sùng minh (崇明), Minh huấn (明訓), Minh diễm (明艷), Kính thuận (敬順), Sùng kính (崇敬), Tu kính (修敬), Kính ninh (敬寧), Chiêu thuận (昭順), Chiêu dung (昭容), Chiêu thận (昭慎), Mục quang (穆光), Diệu quang (曜光), Quang phạm (光範), Nội phạm (內範), Diễm quang (艷光), Viên quang (媛光), Bành viên (彭媛), Túc dung (肅容), Tĩnh túc (靜肅), Túc khuê (肅閨), Hoài thuận (懷順), Hoài đức (懷德), Trinh ý (貞懿), Trinh ngưng (貞凝), Trinh mục (貞穆), Trinh viên (貞媛), Trinh thận (貞慎), Hoằng thận (弘慎), Huy thục (徽淑), Huy nga (徽娥), Hoằng diễm (弘艷), Diễm hoa (艷華), Uyển đức (婉德), Minh uyển (明婉), Diễm uyển (艷婉), Phương uyển (芳婉), Ngưng uyển (凝婉), Tu viên (修媛), Tu lễ (修禮), Anh thục (英淑), Thục ý (淑懿), Thục y (淑猗), Thừa nhàn (承閒), Tu nhàn (修閒), Nhàn hoa (閒華), Lệ tắc (麗則), Nhu tắc (柔則), Lương tắc (良則), Diệu tắc (妙則), Huấn thành (訓成), Ninh huấn (寧訓), hàm Chính tứ phẩm.
- Tài nhân (才人), Thái nữ (采女), không hạn định.
Bắc Chu
sửaPhẩm cấp các phi tần trong nội đình:
- Phu nhân (夫人): gồm Quý phi (貴妃); Trưởng Quý phi (長貴妃), Đức phi (德妃).
- Dặc (㚤), 3 người, vị ngang Tam cô (三孤).
- Tần (嬪), 6 người, trong số đó có gọi Chiêu Hóa tần (昭化嬪), vị ngang Lục khanh (六卿).
- Ngự viên (御媛), vị ngang Đại phu (大夫). Trong đó có phân biệt Thượng viên (上媛), Trung viên (中媛) và Hạ viên (下媛).
- Ngự uyển (御婉), vị ngang Sĩ (士). Trong đó có phân biệt Thượng uyển (上婉), Trung uyển (中婉) và Hạ uyển (下婉).
Tuyên Đế nhượng vị cho Tĩnh Đế, phá bỏ quy tắc chính thứ, cùng lúc lập Hoàng hậu gồm 5 người là:
- Chính phi Dương Lệ Hoa, phong hiệu Thiên Nguyên Đại Hoàng hậu (天元大皇后).
- Tĩnh Đế sinh mẫu Chu Mãn Nguyệt, phong hiệu Thiên Đại Hoàng hậu (天大皇后).
- Đức phi Trần Nguyệt Nghi, phong hiệu Thiên Trung Đại Hoàng hậu (天中大皇后).
- Trưởng Quý phi Uất Trì Sí Phồn, phong hiệu Thiên Tả Đại Hoàng hậu (天左大皇后).
- Quý phi Nguyên Lạc Thượng, phong hiệu Thiên Hữu Đại Hoàng hậu (天右大皇后).
Lưu Tống
sửaBan đầu, hậu cung Lưu Tống mô phỏng theo nhà Tấn, dưới Hoàng hậu được thiết lập:
- Tam phu nhân (三夫人): Quý tần (貴嬪), Phu nhân (夫人), Quý nhân (貴人), vị ngang Tam công (三公).
- Cửu tần (九嬪): Thục phi (淑妃), Thục viên (淑媛), Thục nghi (淑儀), Tu hoa (修華), Tu dung (修容), Tu nghi (修儀), Tiệp dư (婕妤), Dung hoa (容華), Sung hoa (充華); vị ngang Cửu khanh (九卿).
- Tán hiệu (散號): Mỹ nhân (美人).
Năm Hiến Kiến thứ 3 (456), Hiếu Vũ Đế cải tổ tại hậu cung quy chế, đến Minh Đế hoàn thiện:
- Tam phu nhân (三夫人): Quý phi (貴妃), Quý tần (貴嬪), Quý cơ (貴姬).
- Cửu tần (九嬪): Thục viên (淑媛), Thục nghi (淑儀), Thục dung (淑容), Chiêu hoa (昭華), Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Tu hoa (修華), Tu nghi (修儀), Tu dung (修容).
- Ngũ chức (五職): Tiệp dư (婕妤), Dung hoa (容華), Sung hoa (充華), Thừa huy (承徽), Liệt vinh (列榮).
- Tán hiệu (散號): Mỹ nhân (美人), Trung tài nhân (中才人), Tài nhân (才人), Lương nhân (良人), Sung y (充衣).
Nam Tề
sửaNăm Kiến Nguyên nguyên niên (479), Cao Đế thiết lập hậu cung vị phân, bao gồm:
- Tam phu nhân (三夫人): Quý tần (貴嬪), Phu nhân (夫人), Quý nhân (貴人).
- Cửu tần (九嬪): Tu hoa (修華), Tu nghi (修儀), Tu dung (修容), Thục phi (淑妃), Thục viên (淑媛), Thục nghi (淑儀), Tiệp dư (婕妤), Dung hoa (容華), Sung hoa (充華).
- Tán vị (散位): Mỹ nhân (美人), Trung tài nhân (中才人), Tài nhân (才人).
Năm Kiến Nguyên thứ 3, Nội cung của Hoàng thái tử thiết lập thêm 3 nội chức:
- Lương đệ (良娣), vị ngang Khai quốc Hầu (開國侯).
- Bảo lâm (保林), vị ngang Ngũ đẳng Hầu (五等候).
- Tài nhân (才人), vị ngang Phò mã Đô úy (駙馬都尉).
Năm Vĩnh Minh nguyên niên, Vũ Đế nghe theo Lễ tư tấu thỉnh, thiết lập vị trí Quý phi (貴妃), cũng đem Thục phi từ Cửu tần ra thành độc lập, tăng thêm đãi ngộ của cả hai tước vị này, ngang với Tam tư (三司). Năm thứ 7, triều đình thêm Chiêu dung (昭容) vào Cửu tần, bổ khuyết vị trí cũ của Thục phi.
Lương - Trần
sửaVũ Đế khai triều, thiết lập hậu cung vị giai có tương đồng với Lưu Tống:
- Tam phu nhân (三夫人): Quý phi (貴妃), Quý tần (貴嬪), Quý cơ (貴姬).
- Cửu tần (九嬪): Thục viên (淑媛), Thục nghi (淑儀), Thục dung (淑容), Chiêu hoa (昭華), Chiêu dung (昭容), Chiêu nghi (昭儀), Tu hoa (修華), Tu nghi (修儀), Tu dung (修容).
- Ngũ chức (五職): Tiệp dư (婕妤), Dung hoa (容華), Sung hoa (充華), Thừa huy (承徽), Liệt vinh (列榮).
- Tán vị (散位): Mỹ nhân (美人), Tài nhân (才人), Lương nhân (良人).
Đông Cung của Thái tử, thiết lập Lương đệ (良娣) và Bảo lâm (保林).
Khi triều Trần lập quốc, Vũ Đế không thiết lập hậu cung tỉ mỉ. Đến Văn Đế, bắt đầu định vị hiệu đều tương tự triều Lương.
Tùy - Đường
sửaTùy
sửaTùy thư ghi lại, Văn Đế mở nghiệp, phi tần khi ấy chỉ vài người đều thuộc dòng dõi trâm anh, con em các bậc huân thuần cung tiến, nhà vua cũng ít dịp được gần gũi do bà nguyên phối có tính ghen tuông:
- Tần (嬪), 3 người, giáo hóa bốn mỹ đức là công, dung, ngôn, hạnh, hàm Chính tam phẩm.
- Thế phụ (世婦), 9 người, coi việc lễ tiết, hàm Chính ngũ phẩm.
- Ngự nữ (御女), 38 người, coi việc dệt gấm, thêu hoa, hàm Chính thất phẩm.
Bên cạnh đó, Văn Đế lại theo điển lệ từ đời Hán, Tấn mà đặt chức nữ quan gọi là Lục thượng (六尚), cùng Lục ti (六司), chuyên giáo hóa điển phạm trong hậu cung.
Xem thêm: Nữ quanNhân Thọ năm thứ 2 (602), Văn Hiến Hoàng hậu qua đời, nhà vua sa vào mỹ sắc, từ cung cấm chọn ra những bậc tài sắc ban phong các chức phi tần:
- Quý nhân (貴人), 3 người.
- Tần (嬪), 9 người.
- Thế phụ (世婦), 27 người.
- Ngự nữ (御女), 81 người.
Dạng Đế hoang dâm, mệnh thiên hạ phải cung tiến người đẹp để thỏa thú vui vầy, trở thành khuôn thước cho tam cung lục viện của các bậc đế vương sau này:
- Quý phi (貴妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), hợp gọi là Phu nhân (夫人), hàm Chính nhất phẩm.
- Thuận nghi (順儀), Thuận dung (順容), Thuận hoa (順華), Tu nghi (修儀), Tu dung (修容), Tu hoa (修華), Sung nghi (充儀), Sung dung (充容), Sung hoa (充華), hợp gọi là Cửu tần (九嬪), hàm Chính nhị phẩm.
- Tiệp dư (婕妤), 10 người, hàm Chính tam phẩm.
- Mỹ nhân (美人), Tài nhân (才人), hợp gọi là Thế phụ (世婦), 15 người, hàm Chính tứ phẩm.
- Bảo lâm (寶林), 24 người, hàm Chính ngũ phẩm.
- Ngự nữ (御女), 24 người, hàm Chính lục phẩm.
- Thái nữ (采女), 37 người, hàm Chính thất phẩm.
- Thừa y (承衣), Đao nhân (刀人), không hạn định.
Đường
sửaSách Đường thư ghi lại, Cao Tổ mở nghiệp, nội cung noi theo Chu lễ và nhà Tùy khi trước, phân chia thứ bậc:
- Quý phi (貴妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), Hiền phi (賢妃), hợp gọi là Phu nhân (夫人), hàm Chính nhất phẩm.
- Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Chiêu viên (昭媛), Tu nghi (修儀) Tu dung (修容), Tu viên (修媛), Sung nghi (充儀), Sung dung (充容), Sung viên (充媛), hợp gọi là Cửu tần (九嬪), hàm Chính nhị phẩm.
- Thế phụ (世婦), 27 người:
- Tiệp dư (婕妤), 9 người, hàm Chính tam phẩm.
- Mỹ nhân (美人), 9 người, hàm Chính tứ phẩm.
- Tài nhân (才人), 9 người, hàm Chính ngũ phẩm.
- Ngự thê (御妻), 81 người:
- Bảo lâm (寶林), 27 người, hàm Chính lục phẩm.
- Ngự nữ (御女), 27 người, hàm Chính thất phẩm.
- Thái nữ (采女), 27 người, hàm Chính bát phẩm.
Cao Tổ truy tặng bà thứ thất quá cố Mạc Lệ Phương làm Quý tần (貴嬪), không rõ phẩm trật. Ngoài ra còn đặt Nữ quan, có đặt ra chức Thượng cung (尚宮) hàm Chính ngũ phẩm, đứng đầu hệ thống Lục cục Nhị thập tứ ty, gọi là Cung quan (宮官), phân biệt với Hậu phi được gọi là Nội quan (內官).[5][6]
Vĩnh Huy năm thứ 6 (655), Cao Tông có ý định lập Tài nhân của Thái Tông là Võ Mỵ làm Thần phi (宸妃) nhưng không thành. Long Sóc năm thứ 2 (662), Cao Tông quyết định thiết định lại thứ bậc nội cung:
- Tán đức (贊德), 2 người.
- Tuyên nghi (宣儀), 4 người.
- Thừa khuê (承閨), 5 người.
- Thừa chỉ (承旨), 5 người.
- Vệ tiên (衛仙), 6 người.
- Cung phụng (供奉), 8 người.
- Thị trất (侍櫛), 20 người.
Nhưng quy cách này nhanh chóng sau đó bị bãi bỏ, quay lại như chế độ thời Đường Cao Tổ.
Huyền Tông những năm Khai Nguyên, định lại thứ bậc nội cung. Châm chước đời Vũ Đức đến nay định Tứ phi, trong khi Hậu và Phi ứng Tứ tinh (四星), đã có Chính hậu không nên có Tứ phi, do vậy cải định vị hiệu cùng thứ bậc:
- Huệ phi (惠妃), Lệ phi (麗妃), Hoa phi (華妃), tọa luận Phụ lễ, hàm Chính nhất phẩm.
- Thục nghi (淑儀), Đức nghi (德儀), Hiền nghi (賢儀), Thuận nghi (順儀), Uyển nghi (婉儀), Phương nghi (芳儀), giáo hóa Tứ đức, hàm Chính nhị phẩm.
Phi tần thời Đường - Mỹ nhân (美人), 4 người, coi việc lễ tiết, hàm Chính tam phẩm.
- Tài nhân (才人), 7 người, đảm yến tẩm của Quân vương, hàm Chính tứ phẩm.
Vừa lên ngôi, Huyền Tông tặng Dương Lương viên làm Quý tần, không rõ phẩm trật. Thiên Bảo năm thứ 4 (745), Huyền Tông mê đắm người con dâu là trang khuynh quốc Dương Thái Chân, bất chấp đạo luân thường lập bà làm Quý phi. Túc Tông nối ngôi khôi phục chế độ nội cung thuở lập quốc. Thời kỳ cuối, triều Đường bắt đều thiết lập lệ gia tôn cho Nội cung tiền triều. Phi tần sinh hoàng nam tôn Thái phi (太妃), sinh hoàng nữ tôn Thái nghi (太儀).
Tại Đông Cung, chính thất của Hoàng thái tử gọi là Hoàng thái tử phi (皇太子妃), ngoài ra còn có Nội quan nàng hầu, có các bậc:
- Các thị thiếp:
- Lương đệ (良娣), 2 người, trật Chính tam phẩm.
- Lương viên (良媛), 6 người, trật Chính tứ phẩm.
- Thừa huy (承徽), 10 người, trật Chính ngũ phẩm.
- Chiêu huấn (昭訓), 16 người, trật Chính thất phẩm.
- Phụng nghi (奉儀), 24 người, trật Chính cửu phẩm.
- Các nữ quan, có 3 chức Ty trật đều Tòng lục phẩm và 9 chức Chưởng trật đều Tòng bát phẩm:
- Ty khuê (司閨), 2 người, dẫn đạo Thái tử phi và lên danh sách thị thiếp. Quản lĩnh các chức:
- Chưởng chính (掌正), 3 người, quản văn thư ra vào, cửa nẻo và kiêm việc trách phạt kẻ dưới, Nữ sử phụ việc 3 người.
- Chưởng thư (掌書), 3 người, quản tuyên truyền, giáo dục kẻ dưới và bảo quản sách bút, Nữ sử phụ việc 3 người.
- Chưởng diên (掌筵), 3 người, phụ trách bảo quản mành trướng chăn đệm, quét tước và bày biện.
- Ty tắc (司則), 2 người, phụ trách lễ nghi tham kiến. Quản lĩnh các chức:
- Chưởng nghiêm (掌嚴), 3 người, quản y phục, khăn lược, thủ sức, nghi vệ, Nữ sử phụ việc 3 người.
- Chưởng phùng (掌縫), 3 người, quản cắt may, đan dệt, Nữ sử phụ việc 3 người.
- Chưởng tàng (掌藏), 3 người, quản tài vật, châu báu và lụa là.
- Ty soạn (司饌), 2 người, phụ trách nếm thử trước khi tiến thiện, Nữ sử phụ việc 4 người. Quản lĩnh các chức:
- Chưởng thực (掌食), 3 người, quản nấu nướng, rượu chè, củi than, đèn đóm, đĩa đựng, Nữ sử phụ việc 4 người.
- Chưởng y (掌醫), 3 người, quản Y dược và âm nhạc, Nữ sử phụ việc 2 người.
- Chưởng viên (掌園), 3 người, quản hạt giống rau quả, Nữ sử phụ việc 2 người.
- Ty khuê (司閨), 2 người, dẫn đạo Thái tử phi và lên danh sách thị thiếp. Quản lĩnh các chức:
Các tông thất được phong Vương, thê thiếp đều gia ân cáo mệnh theo tước chồng, các bà Chiêu Thành, Trang Hiến thuở tiềm để đều phong là Nhụ nhân (孺人).
Ngũ đại Thập lục quốc
sửaThời kỳ hỗn loạn và ngắn ngủi, sách sử của các triều đại cũng do người đời sau soạn mà viết. Chế độ hậu cung của từng triều, từng quốc gia không hoàn chỉnh và đầy đủ như các thời kỳ trước.
Hậu Đường
sửaTrước mắt, Hậu Đường Trang Tông thiết trí hậu cung,[7] có:
- Chiêu dung (昭容), Chiêu nghi (昭儀), Chiêu viên (昭媛).
- Xuất sử (出使), Ngự chính (御正), Thị chân (侍真), Ý tài (懿才).
- Hàm nhất (咸一), Dao phương (瑤芳), Ý đức (懿德), Tuyên nhất (宣一).
Hậu Đường Minh Tông cải lại chế độ, bãi bỏ danh vị cũ, cụ thể:
- Hiền phi (贤妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃).
- Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Chiêu viện (昭媛).
- Tiệp dư (婕妤).
- Mỹ nhân (美人).
- Thuận ngự (顺御).
Nội mệnh phụ và Ngoại mệnh phụ khi ấy cùng được sách phong các tước vị Quốc phu nhân (国夫人) và Quận phu nhân (郡夫人).
Hậu Chu
sửaHậu Chu Thái Tổ thiết lập hậu cung đơn giản, dưới Hậu có Quý phi (贵妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), bên dưới là Quốc phu nhân (国夫人) và Quận phu nhân (郡夫人).
Tiền Thục
sửaTiền Thục tồn tại không lâu nhưng cũng có nội cung riêng biệt, cụ thể:
- Nguyên phi (元妃), Quý phi (贵妃), Thục phi (淑妃), Hiền phi (賢妃), Thuận phi (順妃).
- Chiêu nghi (昭儀), Tu nghi (修儀).
- Tiệp dư (婕妤).
Hậu Thục
sửaQuảng Chính năm thứ 3 (941), Chúa đất Hậu Thục là Mạnh Sưởng nhân yến hội tiết Thượng nguyên định lệ thứ bậc cung tần:
- Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Chiêu hoa (昭華).
- Bảo phương (保芳), Bảo hương (保香), Bảo y (保衣).
- An thần (安宸), An tất (安蹕), An tình (安情).
- Tu dung (修容), Tu viên (修媛), Tu quyên (修娟).
Không lâu sau, Mạnh Sưởng lại đặt tước Huệ phi (慧妃) lên trên tất cả để sách phong cho sủng phi là Hoa Nhị phu nhân.
Nam Đường
sửaHậu cung gồm các vị hiệu: Phu nhân (夫人), Chiêu dung (昭容), Bảo nghi (保儀).
Nam Hán
sửa- Quý phi (贵妃), Lệ phi (麗妃) - cũng gọi Lệ cơ (麗姬).
- Chiêu nghi (昭儀).
- Mỹ nhân (美人).
- Tài nhân (才人).
- Thượng nghi (尚儀).
Tống - Liêu - Kim
sửaTống
sửaChế độ nội cung nhà Tống ban đầu phân chia thứ bậc theo cách gọi của nhà Đường, được hoàn thiện dưới thời Chân Tông:
- Quý phi (貴妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), Hiền phi (賢妃), hàm Chính nhất phẩm.
- Thái nghi (太儀), Quý nghi (貴儀), Thục nghi (淑儀), Thục dung (淑容), Thuận nghi (順儀), Thuận dung (順容), Uyển nghi (婉儀), Uyển dung (婉容), Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Chiêu viên (昭媛), Tu nghi (修儀), Tu dung (修容), Tu viên (修媛), Sung nghi (充儀), Sung dung (充容), Sung viên (充媛), thuộc hàm Chính nhị phẩm.
- Tiệp dư (婕妤), hàm Chính tam phẩm.
- Mỹ nhân (美人), hàm Chính tứ phẩm.
- Tài nhân (才人), Quý nhân (貴人), hàm Chính ngũ phẩm.
Về vị trí Chính nhị phẩm, ban đầu chỉ có từ Chiêu nghi đến Sung viên, tước Thái nghi đều dùng cho sinh mẫu của Công chúa,[8] đây là án theo phép nhà Đường, còn gọi Cửu tần (九嬪). Năm Đại Trung Tường Phù thứ 6 (1013) đời Tống Chân Tông, thiết trí từ Thục nghi đến Uyển dung, hàm Tòng nhất phẩm, ở trên Chiêu nghi.[9] Sau lại đến năm Càn Hưng nguyên niên (1022), tăng thêm Quý nghi, ở trên Thục nghi.[10] Tống sử chép tất cả thành Chính nhị phẩm.[11]
Minh Đạo nguyên niên (1032), sách tặng thân sinh của Nhân Tông là Lý thị làm Thần phi (宸妃), không rõ phẩm trật. Sang năm Năm Minh Đạo thứ 2 (1033), giáng Quách Hoàng hậu làm Tịnh phi (净妃), cũng không rõ phẩm trật.
Vào đời nhà Tống, các cung nữ sủng hạnh rất nhiều, đều vô hạng Ngự thị (御侍), các vị Ngự thị này còn có thể gia phong thêm vị hiệu của Mệnh phụ như Quốc phu nhân (國夫人), Quận quân (郡君) và Huyện quân (縣君), dưới nữa thì lại có danh xưng Tử hà bí (紫霞帔) và Hồng hà bí (紅霞帔). Đời Tống xưng hô từ Tài nhân trở lên là Phòng viện (房院),[12] dưới nữa như từ Quận quân đến Hà bí thì đều gọi là Hợp (閤). Tuy các Ngự thị rất nhiều, song khi xét để lên phẩm trật được quy định ở trên cũng đều rất thận trọng. Theo đó thì vào triều đại nhà Tống, hoàng thất có quy định ngầm là không được lạm phong tước hiệu thuộc hàng Ngũ phẩm cho hậu phi, đời Tống Nhân Tông chỉ muốn phong nhiều hơn vài người một chút đã bị can gián là "Quá sủng ái", có thể thấy được vấn đề phong tước cho hậu phi tương đối nghiêm trọng.[13]
Liêu
sửaDo vấn đề về tư liệu, hậu cung nhà Liêu cho đến nay vẫn khá khiếm khuyết tư liệu. Bộ Liêu sử, mục "Hậu phi truyện" ghi lại chỉ có hậu phi mang họ Tiêu, trừ Hoàng hậu Tiêu thị của Mục Tông không rõ xuất thân, cùng Hoàng hậu Chân thị của Thế Tông, toàn bộ còn lại đều là người họ Tiêu thuộc gia tộc Khiết Đan. Trong gia tộc họ Tiêu, cũng phân ra hai nhánh chính, là họ Tiêu của Thuật Luật thị (述律氏) cùng họ Tiêu của Bạt Lý thị (拔里氏), hai gia tộc lớn có ảnh hưởng đến chính trị nước Liêu.
Trong Liêu sử cũng cho biết, phi tần hậu cung triều Liêu có bộ phận từ Vương quốc Bột Hải và người Hán, phi hiệu cũng ghi lại có năm loại: Nguyên phi (元妃), Quý phi (貴妃), Đức phi (德妃), Huệ phi (惠妃), Văn phi (文妃). Còn bên dưới Phi, chỉ biết triều Thánh Tông có Lục nghi (六儀), gồm: Lệ nghi (麗儀), Thục nghi (淑儀), Chiêu nghi (昭儀), Thuận nghi (順儀), Phương nghi (芳儀), Hòa nghi (和儀). Ngoài ra, dưới triều Liêu Thiên Tộ Đế có ghi nhận Chiêu dung (昭容).
Kim
sửaChế độ nội cung nhà Kim ban đầu phân chia thứ bậc theo cách gọi của nhà Đường. Thời kỳ quốc sơ, các Phi không có vị hiệu, đến Kim Hi Tông mới đặt Quý phi (貴妃), Hiền phi (賢妃) và Đức phi (德妃).[14]
Hải Lăng Vương dâm loạn, đặt 12 mỹ hiệu cho các phi tử nơi cung cấm là Nguyên phi (元妃), Xu phi (姝妃), Huệ phi (惠妃), Quý phi (貴妃), Hiền phi (賢妃), Thần phi (宸妃), Lệ phi (麗妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), Chiêu phi (昭妃), Ôn phi (溫妃), Nhu phi (柔妃).
Cuối cùng, quy chế hậu cung thời Kim được hoàn thiện vào niên hiệu Trinh Hựu dưới thời Tuyên Tông.[15] Những giai bậc gồm:
- Nguyên phi (元妃), Quý phi (貴妃), Thục phi (淑妃), Đức phi (德妃), Hiền phi (賢妃); hàm Chính nhất phẩm.
- Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Chiêu viên (昭媛), Tu nghi (修儀) Tu dung (修容), Tu viên (修媛), Sung nghi (充儀), Sung dung (充容), Sung viên (充媛); hợp gọi Cửu tần (九嬪), hàm Chính nhị phẩm.
- Thế phụ (世婦), 27 người:
- Tiệp dư (婕妤); 9 người, hàm Chính tam phẩm.
- Mỹ nhân (美人); 9 người, hàm Chính tứ phẩm.
- Tài nhân (才人); 9 người, hàm Chính ngũ phẩm.
- Ngự thê (御妻), 81 người:
- Bảo lâm (寶林); 27 người, hàm Chính lục phẩm.
- Ngự nữ (御女); 27 người, hàm Chính thất phẩm.
- Thải nữ (采女); 27 người, hàm Chính bát phẩm.
Sau, Tuyên Tông lại cải đổi tiếp, quy định lại cấp bậc như:
- Quý phi (貴妃), Chân phi (真妃), Thục phi (淑妃), Lệ phi (麗妃), Nhu phi (柔妃).
- Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Chiêu viên (昭媛), Tu nghi (修儀) Tu dung (修容), Tu viên (修媛), Sung nghi (充儀), Sung dung (充容), Sung viên (充媛).
- Tiệp dư (婕妤).
- Lệ nhân (麗人), Tài nhân (才人).
- Thuận nghi (順儀), Thục hoa (淑華), Thục nghi (淑儀).
Nguyên
sửaHậu cung nhà Nguyên có sự tinh giản rất lớn nếu so với các triều khác. Ngoài Hoàng hậu thì chỉ còn Phi tần; mỗi bậc không quy định số lượng và giới hạn, do đó có vô số Phi tần cũng như vô số Hoàng hậu.
Hậu cung triều Nguyên lấy Oát Nhĩ Đóa [斡耳朵; Orda], còn gọi Cung trướng (宮帳) để phân chia địa vị Hậu phi. Một tòa Cung trướng có tới mấy vị Hoàng hậu và Phi tần; và họ lấy "Đệ nhất Cung trướng" làm vị trí độc tôn, những Hoàng hậu và Phi tần ở trong Đệ nhất Cung trướng cũng sẽ là bậc có địa vị cao nhất. Dưới triều đại Huệ Tông, hậu cung thiết trí thêm tước vị Tài nhân (才人), Phi và Tần chia ra làm hai bạc, do đó về cơ bản hậu cung thời kỳ cuối của triều Nguyên có 4 bậc, là: Hoàng hậu, Phi, Tần và Tài nhân.
Cũng trong thời kỳ cuối triều Nguyên, Hoàng hậu cật lực được duy trì chỉ có một người tại vị. Nhưng cơ bản từ thời quốc sơ đã thiết lập luật bất thành văn, rành chỉ có Trung cung Hoàng hậu mới có sắc bảo còn các Hoàng hậu khác thì không, ví dụ như Sát Tất Hoàng hậu. Cá biệt có trường hợp Nguyên Huệ Tông, do sa vào hưởng lạc nên lập một lúc ba vị Hoàng hậu.
Minh
sửaThái Tổ năm Hồng Vũ thứ 5 (1372) ban chỉ dụ định thứ bậc nội cung. Bậc phi lấy Quý phi kế dưới Hoàng hậu có danh phận cao nhất, lại đặt Hiền phi (賢妃), Thục phi (淑妃), Trang phi (莊妃), Kính phi (敬妃), Huệ phi (惠妃), Thuận phi (順妃), Khang phi (康妃), Ninh phi (寧妃) lấy các mỹ từ "Hiền", "Thục", "Trang", "Kính"... làm tên hiệu mà phân biệt ngôi thứ. Dưới hàng phi là các cung tần Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Tiệp dư (婕妤), Quý nhân (貴人), Mỹ nhân (美人).
Cảnh Thái năm thứ 6 (1456), Đại Tông lập bà phi họ Đường làm Hoàng quý phi, Anh Tông phục vị lại phế đi. Hiến Tông năm Thành Hóa thứ 2 (1466) ngự ban cho Vạn Quý phi huy hiệu "Hoàng", gọi là Hoàng quý phi (皇貴妃), từ đó lấy Hoàng quý phi là danh phận phi tần cao nhất.
Thời Minh, địa vị Hoàng hậu suy thoái, cũng do ảnh hưởng bởi việc ngăn ngừa và đề phòng ngay từ đầu mà chưa từng thấy việc Hoàng hậu hoặc Hoàng thái hậu nhiếp chính hoặc ngoại thích chuyên quyền. Bên cạnh đó, phi tần cũng có nhiều người được sủng hạnh, dựa vào uy thế mà có thể lấn át Hoàng hậu. Có những phi tần đứng đầu hậu cung sau khi Hoàng hậu qua đời, tắc gọi ["Nhiếp lục cung sự"; 攝六宫事]. Bên cạnh đó, số lượng tùy từng tước đều do Hoàng đế tự quy định, hoàn toàn không có giới hạn bao nhiêu Hoàng quý phi hay là Phi, vì lý do đó hậu cung triều Minh bị xem là cực kỳ hỗn loạn về danh phận.
Gia Tĩnh năm thứ 10 (1531), Thế Tông dựa theo Chu lễ đặt thêm Cửu tần, gồm: Đức tần (德嬪), Hiền tần (賢嬪), Trang tần (莊嬪), Lệ tần (麗嬪), Huệ tần (惠嬪), An tần (安嬪), Hòa tần (和嬪), Hy tần (僖嬪), Khang tần (康嬪), danh phận dưới phi. Lúc này, mô hình của hậu cung triều Minh dưới Hoàng hậu sẽ là:
- Hoàng quý phi (皇貴妃);
- Quý phi (貴妃);
- Phi (妃);
- Tần (嬪); căn cứ Năm Gia Tĩnh thứ 10, định ra Cửu tần: Đức tần (德嬪), Hiền tần (賢嬪), Trang tần (莊嬪), Lệ tần (麗嬪), Huệ tần (惠嬪), An tần (安嬪), Hòa tần (和嬪), Hy tần (僖嬪), Khang tần (康嬪);
- Chiêu nghi (昭儀);
- Chiêu dung (昭容);
- Tiệp dư (婕妤);
- Quý nhân (貴人);
- Mỹ nhân (美人);
Dẫu Cửu tần triều Gia Tĩnh là có tên như vậy, song về sau có rất nhiều tước Tần đều nằm có phong hiệu khác, như Ninh tần (寧嬪), Vinh tần (榮嬪), Kính tần (敬嬪)..., xem ra phong hiệu này cũng không cố định tương tự Phi ở trên.
Ngoài ra, tương tự như chế độ nhà Đường rồi nhà Tống, trong cung đình nhà Minh cũng có rất nhiều Thứ phi trong hậu cung, những người từng được Hoàng đế sủng hạnh qua nhưng chưa bao giờ được xem là phi tần chính thức. Họ sẽ có hai loại đãi ngộ chính, một là đem trở thành phi thiếp chính thức và đạt được đãi ngộ nhất định, như Hồ Thị ngự (胡侍御) của Thần Tông, còn không thì chỉ được xem là Cung nhân bình thường, không danh không phận mà vẫn phải làm việc của Cung nữ, như Đới Ngân Nương (戴銀娘) của Hiến Tông cùng Vương Mãng Đường (王滿堂) của Vũ Tông.
Vợ chính của Hoàng thái tử gọi là Hoàng thái tử phi (皇太子妃), nàng hầu có các bậc Tài nhân (才人), Tuyển thị (選侍) và Thục nữ (淑女).
Thanh
sửa Xem thêm thông tin: Hậu cung nhà ThanhLúc đầu triều, nhà Thanh chưa định chế độ nội cung. Theo lệ cũ từ thời Hậu Kim, phi tần vẫn dùng cách gọi tiếng Mãn mà xưng hiệu Phúc tấn và Cách cách, riêng các chính thê được đặc biệt gọi là Đại phúc tấn (大福晉). Hoàng Thái Cực năm Sùng Đức nguyên niên (1636), lập Đại phúc tấn Triết Triết làm Thanh Ninh cung Hoàng hậu (清寧宮皇后), đồng thời tấn phong bốn vị Trắc phúc tấn làm Phi, lần lượt là: Hải Lan Châu làm Quan Thư cung Thần phi (關雎宮宸妃), Na Mộc Chung làm Lân Chỉ cung Quý phi (麟趾宮貴妃), Ba Đặc Mã Tảo làm Diễn Khánh cung Thục phi (衍慶宮淑妃) và Bố Mộc Bố Thái làm Vĩnh Phúc cung Trang phi (永福宮莊妃). Sau khi sủng phi Hải Lan Châu qua đời, lại xuất hiện tước vị Nguyên phi (元妃).
Từ triều Thuận Trị đến giữa Khang Hy, cung đình triều Thanh dùng "đãi ngộ" dựa theo cấp, hơn là định vị hiệu. Theo đó, ngoại trừ Hoàng hậu là luôn cố định chính danh, thì các cấp đãi ngộ của phi tần có:
- Hoàng quý phi (皇貴妃)
- Phi (妃), không định số.
- Tần (嬪), không định số.
- Phúc tấn (福晉), cấp đãi ngộ cơ bản.
- Tiểu Phúc tấn (小福晉), bên trong lại có thêm 2 cấp.
- Cách cách (格格), cấp đãi ngộ thấp nhất.
Thời kỳ này chỉ dùng "đãi ngộ" để quyết định cao thấp, do đó hầu như rất ít người có vị hiệu chính thức. Hiếu Khang Chương Hoàng hậu, sinh mẫu của Thánh Tổ được xác định có cấp đãi ngộ Phúc tấn khi còn là phi tần. Dưới hình thức này, nhiều hậu phi mãi khi qua đời mới có vị hiệu, dù thực tế khi còn sống thì họ đã có đãi ngộ cao, như Tuệ phi và Bình phi của Thánh Tổ.
Theo Thanh sử cảo và Quốc triều cung sử, sau đời Khang Hy thì chế độ nội cung mới được hoàn chỉnh:
- Hoàng quý phi (皇貴妃), 1 người.
- Quý phi (貴妃), 2 người.
- Phi (妃), 4 người.
- Tần (嬪), 6 người.
- Quý nhân (貴人), không hạn định.
- Thường tại (常在), không hạn định.
- Đáp ứng (答應), không hạn định.
Dưới hàng phi tần còn có Quan nữ tử (官女子), còn gọi Cung nữ tử, là các cung nữ được Hoàng đế lâm hạnh hoặc danh vị để gọi các phi tần bị giáng chức (như Mân Quý phi Từ Giai thị của Hàm Phong Đế). Ngoài ra, các Thị tỳ được lâm hạnh và sinh dục của các Hoàng tử cũng được gọi chung là Quan nữ tử, bên cạnh danh xưng thường thấy là Cách cách. Chiểu theo lệ định đương thời, trước đại hôn tuyển chọn 8 cung nữ có nhan sắc cùng phẩm hạnh dạy các bí thuật phòng the, gọi là Tư trướng (司帳), Tư tẩm (司寝), Tư nghi (司儀), Tư môn (司門).
Từ Hoàng quý phi đến Tần khi được sách phong đều có lễ nghi tiêu chuẩn, được hoàng thất xem là hậu phi chính thức cùng với quyền hạn ["Tá nội trị"], giúp Hoàng hậu trong việc xứ lý nội trị, dù thực tế họ không có quyền hành gì cụ thể mà chỉ là danh xưng hình thức. Còn từ bậc Quý nhân đến Đáp ứng không hạn định, quy định để tu tâm dưỡng tính, cần tu nội chức, riêng Quan nữ tử chỉ những cung nữ được sủng hạnh. Phi tần được tuyển chọn từ những Tú nữ (秀女) tham gia tuyển tú hoặc con gái các dòng dõi công thần, gọi là Bát Kỳ tuyển tú, hoặc từ cung nữ tấn phong đi lên.
Thái Bình Thiên Quốc
sửaSau khi Hồng Tú Toàn lập quốc, thê thiếp của ông gồm 88 người đều được gọi là Vương nương (王娘). Ông loại bỏ chế độ hậu phi sẵn có, thiết lập cho địa vị chính thê là Chinh Đông cung (正東宮), còn gọi Thiên thê (天妻), còn bình thê là Hựu Chinh Đông cung (又正東宮). Trên thực tế, ông tự xưng đã cưới người trên trời, tức Thiên thê, vì vậy người vợ "ở dưới trần" là Lại Liên Anh chỉ là bình thê mà thụ phong.
Sau này, Hồng Tú Toàn ví mình là Mặt Trời, nữ nhân của mình là Mặt Trăng nên đã đổi Đông cung (東宮) thành Nguyệt cung (月宮). Chế độ hậu cung cụ thể như sau:
- Chính Nguyệt cung (正月宮): địa vị cao nhất, chỉ dành cho "thiên thê".
- Hựu Chính Nguyệt cung (又正月宮): địa vị "bình thê", thuộc về Lại Liên Anh.
- Phó Nguyệt cung (副月宮).
- Hựu Phó Nguyệt cung (又副月宮).
Các nữ quan có các chức: Thống giáo (统教), Đề giáo (提教), Thông ngự (通御), Chính khán (正看), Phó khán (副看).
Từ khóa » Thứ Bậc Phi Tần Trong Cung Nhà đường
-
Khám Phá Cuộc Sống Của Phi Tần Trong 'hậu Cung' Nhà Đường
-
Top 9 Thứ Bậc Phi Tần Trong Cung Nhà đường 2022 - Blog Của Thư
-
Tìm Hiểu Hệ Thống Thứ Bậc Trong Hậu Cung Nhà Thanh Của Trung Hoa
-
SẮP XẾP THỨ BẬC TRONG HẬU CUNG QUA CÁC TRIỀU ĐẠI ...
-
ღTrinaJaneღ - Thứ Bậc Của Phi Tần "Mỹ Nhân Tóm Lược ... - Facebook
-
Các Cấp Bậc Phi Tần Trong Hậu Cung - .vn
-
Lịch Sử Phi (hậu Cung) - Tieng Wiki
-
Hậu Cung Nhà Đường Có Một Chế độ Thị Tẩm đặc Biệt Khiến Hoàng ...
-
Cuộc Sống Tẻ Nhạt Của Các Phi Tần Hậu Cung Nhà Thanh - Dân Việt
-
Tần (hậu Cung) - Wikiwand
-
Phi Tần Của Đường Thái Tông - Honda Anh Dũng
-
Phi Tần Nhà Nguyễn được Nhận Lương Bổng Thế Nào?
-
Kinh Ngạc Hậu Cung Vua Chúa Trung Hoa: 2 Vạn Phi Tần Phục Vụ Một ...