“Phi Trí Bất Hưng” :: Suy Ngẫm & Tự Vấn

“Phi trí bất hưng”, điều ấy gắn liền với “phi nông bất ổn”, “phi công bấtphú”, “phi thương bất hoạt” là sựkhẳng định của Lê Quý Đôn khi bàn về quy luật thịnh suy của một quốc gia. Thậtra, đây là một sự đúc kết của nhiều bậc thức giả trên thế giới mà Lê Quý Đôn, bộóc uyên bác thuộc làu kinh sử, thông suốt cổ kim đã đặc biệt lưu ý nhằm đưa ralời khuyến cáo với hậu thế. Xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước, triều đạinào biết quý trọng trí thức, quy tụ và phát huy được sức mạnh trí tuệ trong tầnglớp tinh hoa của dân tộc, triều đại ấy hưng thịnh. Ngược lại là suy vong. Chuyệnấy rõ mồn một.

Chẳng phải chỉ Lê QuýĐôn, trước đó ba thế kỷ, trong văn bia tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất (1442) dựngtại “Văn Miếu” do Thân Nhân Trung biên soạn đã đưa ra một thông điệp thật thâmthúy : “...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnhmà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đếvương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻsĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”. Thôngđiệp ấy được xem như một lời răn dạy nghiêm cẩn của ông cha ta trong sự nghiệpdựng nước và giữ nước!

Vậy thì, hiện nay “nguyên khí” ấy “thịnh” hay “suy”? Câu hỏiấy không dễ trả lời! Nhưng dù dễ hay khó trả lời thì sự thịnh suy của một triềuđại tùy thuộc vào việc biết “vun trồngnguyên khí quốc gia” vẫn là quy luật muôn đời. Chỉ có điều, vận dụng quy luậtấy như thế nào thì tùy thuộc vào tầm nhìn và phẩm chất của những người gánh váctrọng trách cũng như việc xử lý mối quan hệ lợi ích trong các quyết sách.

Thì đó, việc công bố giáo dục là quốc sách hàng đầu đã đượcđưa ra rất sớm, song chất lượng thấp kém của hệ thống giáo dục nước ta so vớikhu vực và thế giới đang là một thực tế nhức nhối mà ai cũng thấy, và chính đâylà lý do rất cơ bản về sự chậm phát triển của đất nước. Một nỗi đau không chỉriêng ai về kết quả tuyển sinh ĐH và CĐ vừa công bố với hàng ngàn điểm 0 môn lịchsử, ấy vậy mà lịch sử là một nhân tố mà thiếu nó thì ý thức dân tộc không thể đứngvững được. Hoặc một ví dụ khác : với lợi thế của khí hậu nhiệt đới gió mùa vốnnổi tiếng là hoa quả thu hoạch được quanh năm, song hiện nay trên thị trường củata tràn lan hoa quả nhập khẩu từ nhiều nước. Vậy là nông sản với thương hiệu ViệtNamđã thua ngay trên sân nhà chứ chưa nói đến trên thị trường thế giới. Nguyênnhân có nhiều, song về cơ bản, cần tìm về trong khuyến cáo của Lê Quý Đôn.

Phi nông bất ổn”, quả đúng vậy, nhưng đời sống, cung cách làm ăn vànăng suất, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp của ta hiện nay ra sao lại tùythuộc vào mối quan hệ giữa nhà nông với nhà khoa học, phải chăng đây là minh chứngcho nguyên lý “phi trí bất hưng”? Vấnđề hàm lượng chất xám quá thấp trong quá trình canh tác, nuôi trồng để cho ranhững sản phẩm nông nghiệp là một thực trạng đáng lo ngại. Cứ nhìn hàng tấn vảithiều vùng Lục Ngạn Bắc Giang phải đổ đi khi quá trình giao thương bị trục trặcbởi nhiều lý do cũng đủ thấy rõ điều này. Mà xuất khẩu sản phẩm thô với giá trịgia tăng thấp đâu chỉ ở nông nghiệp, sản phẩm công nghiệp, dịch vụ cũng nằmtrong tình trạng ấy. Và nhìn chung trong nền kinh tế, nguồn lực huy động được trong nước và từ bên ngoài mấy năm qua rất cao,song hiệu quả kinh tế lại thấp kém với chỉ số ICOR (tỷ lệ nghịch với hiệu quả đầutư) tăng nhanh, lên mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là cao nhất trong khuvực. Vậy là, “trí” mà cụ Lê Quý Đônnói đến có liên hệ khăng khít với cả nông,công, thương! Một khi mà nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng tụt hậu thì khó mànói đến sự phát triển bền vững.

Thế mà theo thống kê của Bô LĐ-TB-XH, năm 2010,trong số 20,1 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có chứngchỉ đã được đào tạo trong và ngoài nước. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉđạt 3,79 điểm, xếp thứ 11 trên 12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB trongkhi Hàn Quốc là 6,91, Ấn Độ là 5,76, Malaysia là 4,91, Thái Lan là 4,94.[mặc dầu vậy, hiện nay hình như chưa có sản phẩm nông nghiệp nào của ta cạnhtranh được với Thái Lan ]. Có đến 44% các doanh nghiệp FDI phải tổ chức đào tạolại cho người lao động được tuyển dụng, vì thế, hàng năm các doanh nghiệp FDIphải tiêu tốn khoảng 8% tổng chi phí kinh doanh .

Cội nguồn của nguồnnhân lực lực thấp lại cần phải truy tìm sâu vào việc trọng dụng trí thức với sựthấu triệt nguyên lý “phi trí bất hưng”.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tự phê bình về chuyện này : “Nước nhà cần kiến thiết. Kiến thiết phải có nhân tài. Trong số 20 triệuđồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến,thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đótôi xin thừa nhận”. * Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ ChíMinh là người cảm nhận thấu đáo nhất khuyến cáo của Lê Quý Đôn!

Nhưng rồi sao? Theo thốngkê mới đây của Bộ GD-ĐT thì có tới 63% số cử nhân, kỹ sư sau khi tốt nghiệp ratrường bị thất nghiệp. Một chuyện thật mà cứ như đùa, sinh viên ra trường khôngcó việc làm đã mang tấm bằngĐại học của mình ra hiệu cầm đồ để lấy 1,5 triệu đồng! ** Dù sao thì câuchuyện “cười ra nước mắt” này cũng chỉ là một nét chấm phá trên toàn cảnh bứctranh. Sẽ thấu đáo hơn về điều này khi hiểu rằng, sinh viên với bản lĩnh, trithức và nhân cách của mình chính là lực lượng hùng hậu bổ sung vào đội ngũ tríthức của đất nước.

Phải lưu ý điều này vìcác cụ ta xưa từng cho rằng “Đại học làcái học để làm người lớn” [đại học giả đại nhân chi học giả]. Chả thế mà,ngay sau khi nhận giải Field thì người đầu tiên mà Giáo sư Ngô Bảo Châu gọi từ ẤnĐộ để báo tin chính là người thầy “đã có ảnhhưởng tới cách tiếp cận cuộc sống và hình thành nhân cách” của mình!

Trong bối cảnh của thờiđại mới, thời đại của nên văn minh trí tuệ , thì “cách tiếp cận cuộc sống” gắn làm một với sự “hình thành nhân cách” lại càng cực kỳ quan trọng. Nó được kế thừavà nâng lên một cung bậc mới phẩm cách của kẻ sĩ xưa kia. Chỉ xin dẫn ra đôinét trong chuyện không hiếm những “kẻ sĩ”treo ấn từ quan bởi nhiều lý do. Trong đó, cách ứng xử “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” ( được dùng thì ra làm việc,không được dùng thì lui về) thể hiện một nhân sinh quan, một thái độ sống. Quantrọng nhất của chuyện “xuất” và “xử” của kẻ sĩ gắn liền với thời cuộc “thiên hạ hữu đạo tắc hiện, thiên hạ vô đạo tắcẩn”, có đạo thì hiện, vô đạo thì ẩn. Vì sao? Vì “gặp lúc nước hữu đạo mà nghèo và hèn là đáng thẹn, gặp lúc nước vô đạomà giàu sang là đáng thẹn”. Bởi lẽ, theo Khổng tử thì “đạo không xa người”. Sách Trung dung chép : “đạo không thể giây phút nào lìa được, lìa được thì không phải là đạo”!Còn theo Mạnh tử, “đạo” có mối liên hệhữu cơ với “tâm” và “đức”. Tâm không tạo ra đức,nhưng vì để gặp được đạo thì phải có tâm, còn muốn hành đạo thì phải có đức. Chỉ trong hành động, thì tâm và đức mới có sự gắn kết với nhau.

Mà gắn kết được, vìtrong học thuyết về chữ tâm của Mạnh tử, bốn viên đá tảng xây nên lâu đài đạo đứclà nhân, nghĩa, lễ, trí mà ông gọi là“tứ đoan”: “lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng hổ thẹn là đầu mối của nghĩa,lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí”. Con đườngtừ đạo đến đức không bằng phẳng dễ dàng. Thông thường, để cho con người “hữu đạo” thì phải biết cách “giáo hóa”. Phải biết cách dạy cho ngườita hiểu. Vì thế, Khổng, Mạnh đều khuyên người ta coi trọng “giáo” hơn “chính”, đặt công việc “giáohóa” trên và trước công việc “chínhtrị”. Người đảm nhiệm công việc khó khăn đó, không ai khác, là “kẻ sĩ”. Đề cao kẻ sĩ là vì lý do đó.

Đương nhiên, còn rấtnhiều vấn đề của chuyện đề cao đó với nhiều dụng ý, nhiều động cơ khác nhau,thông qua lăng kính lợi và danh của nhiều đối tượng khai thác vaitrò của “kẻ sĩ”, song ý nghĩa chung nhất là nhằm nói lên bất cứ xã hội nào cũng phải cần đến kẻ sĩ. Ngạo ngược như Lưu Bangnhà Hán, đái vào mũ nhà Nho để biểu thị sự coi thường kẻ sĩ, thô bạo tuyên bố :“Bố mày ngồi trên lưng ngựa mà lấy đượcthiên hạ, đâu phải cần gì đến nhà Nho”. Thế nhưng rồi, để xác lập vẻ uynghiêm của ngôi thiên tử và trật tự ổn định của thể chế, Hán Cao Tổ cuối cùng rồiphải tôn Nho, chiêu mộ kẻ sĩ.

Vắn tắt nhắc lại đôi điều nói trên không phải là học đòi theo thói nhàNho : quay đầu về xưa, xem xưa hơn nay. Mà là để chỉ nói lên một điều, coi trọng người có học là một phươngchâm ứng xử xuyên suốt lịch sử, không chỉ riêng của dân tộc ta.

Phạm Văn Đồng từng nhắc lại luận điểm của Nguyễn Trãi “Nước ta là một nước văn hiến” để khẳng địnhlại cái chân lý bất biến : Điều đó cónghĩa là trọng học vấn, trọng nhân tài, vì đó là những của quý không gì thay thế được của một nước, một dân tộc. Cónó thì sẽ có tất cả, thiếu nó, thì cái còn lại còn gì là đáng giá”.*** Đây là một sự nhắc nhở : trọng trí thức là hằng sốxuyên lịch sử. Mọi biến số khác đều lấy cái “bất biến” đó làm cái trục quy chiếu để đoán định về mọi giá trị củacuộc sống con người. Nắm chắc cái “bất biến”đóđể ứng xử với bao nhiêu “vạn biến”khó lường của cuộc sống. Mở rộng cái hằng số xuyên lịch sử ấy, có người đã nêulên một ý rất hay : “Ai đánh thức khôngcho xã hội ngủ, người ấy là trí thức, bất kỳ họ là ai” [Cao Huy Thuần]****.

Nhắc lại những điều trên chỉ nhằm nối kết với cuộc sống hôm nay, để hiểurằng, sự hưng vong của một triều đại, một chính thể tùy thuộc vào việc có chiêutập, quy tụ được anh tài, hun đúc và gìn giữ “nguyên khí quốc gia”, nói cách khác đó là sự thăng hoa của “trí tuệ dân tộc” là điều mà bất cứ thểchế nào cũng phải thực hiện. Nói “trí tuệcủa dân tộc”, trước hết là phải nói đến bộphận tinh hoa của đất nước, những người biết hấp thu vào mình trí tuệ củathời đại, đồng thời cũng góp phần của dân tộc mình vào trí tuệ của thời đại..

Nói đến tinh hoa là nói đến những phẩm chất cơ bản, làm nên bản lĩnh,phẩm giá và danh dự của dân tộc, góp phần vào sức mạnh của dân tộc. Để cho bộphận tinh hoa ấy bừng nở, phát huy được tài năng, đáp ứng ngày càng cao nhữngđòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng và phát triển đất nước, phải biết thật sự tôntrọng trí thức và dám nghe những phản biện tâm huyết của họ về thời cuộc.

______________

* Hồ Chí Minh toàn tập.Tập4, NXBCTQG,1995, tr.166

** VietnamNet 27-10-2008.

*** Phạm Văn Đồng. “Văn Hóa và Đổi Mới”.

**** Dẫn lại theo Tô Văn trường

Từ khóa » Phi Nông Bất ổn