Phong Cách Nghệ Thuật Trong Văn Chính Luận Của Hồ Chí Minh Qua ...

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập6 bài văn mẫu Ngữ văn 12Bài trướcTải vềBài sauNâng cấp gói Pro để trải nghiệm website VnDoc.com KHÔNG quảng cáo, và tải file cực nhanh không chờ đợi. Mua ngay Từ 79.000đ Tìm hiểu thêm

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập

  • 1. Phong cách chính luận thể hiện qua tác phẩm Tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh
  • 2. Dàn ý phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập
  • 3. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 1
  • 4. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 2
  • 5. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 3
  • 6. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 4
  • 7. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 5
  • 8. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 6

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập sẽ giúp bạn hiểu thêm về nghệ thuật trong văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua bản "Tuyên ngôn độc lập". Hy vọng tài liệu hữu ích cho việc học tập và giảng dạy của các bạn.

  • Ôn thi đại học môn văn theo chuyên đề: Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  • Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích giá trị lịch sử của Tuyên ngôn độc lập. Nêu một vài cảm nhận của anh (chị) về phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập này.

1. Phong cách chính luận thể hiện qua tác phẩm Tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước ta. Đồng thời bản tuyên ngôn cũng thể hiện phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận.

a. Bối cảnh của Tuyên ngôn Độc lập:

– Viết khi Bác từ Việt Bắc về đến nhà ở 48 Hàng Ngang, Hà Nội ngày 26/8/145, sau khi quân ta tiếp quản Hà Nội ngày 19/8/1945.

– Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đứng trước hàng triệu đồng bào Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

b. Ý nghĩa:

– Bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, có chủ quyền.

– Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ quyền lợi của Pháp ở Việt Nam.

– Khẳng định quyết tâm bảo vệ Tổ quốc đến cùng của dân tộc ta

=> Tuyên ngôn Độc lập được viết bởi ngòi bút chính luận xuất sắc của Hồ Chí Minh, khẳng định phong cách văn chương và chính luận của Người.

c. Phong cách nghệ thuật trong bài văn:

– Người thể hiện lối viết ngắn gọn, cực kỳ dễ hiểu:

+ Bản Tuyên ngôn dài chưa đầy hai phần, 1010 chữ, 49 câu nhưng đầy đủ nội dung, từ cơ sở pháp lý khẳng định quyền độc lập dân tộc của Việt Nam. Nội dung cô đọng trong từng câu, toàn bộ lịch sử Việt Nam dưới ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp và phát xít Nhật được tóm gọn trong 622 từ.

+ Bác đã dùng 186 chữ để khẳng định quyền độc lập, tự do của Việt Nam, dựa trên những cơ sở pháp lý quốc tế, qua hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Pháp và Mỹ. 58 chữ này, Bác dùng để tháo gỡ những ràng buộc giữa Pháp và ta mà Pháp đã tạo ra gần một thế kỷ. 144 nhân vật Bác dùng để khẳng định ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam, tương lai của Tổ quốc Việt Nam.

=> Mỗi vấn đề anh trình bày rất ngắn gọn, dễ hiểu, đơn giản kèm theo những dẫn chứng không thể chối cãi.

– Ngôn ngữ người dùng rất giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nghe:

– Luận cứ trong Tuyên ngôn độc lập vô cùng chặt chẽ, thuyết phục người nghe:

+ Về quyền độc lập của dân tộc, Bác trích dẫn những câu trong hai bản Tuyên ngôn của hai nước văn minh Pháp và Mỹ để chứng minh cho quan điểm của mình.

+ Nói về sự tàn ác của kẻ thù, Bác Hồ đã chỉ ra từng mặt tội ác của chúng và nhấn mạnh hậu quả mà chúng để lại.

=> Với lập luận cực kỳ sắc bén của mình, Hồ Chí Minh đã kiên quyết tố cáo kẻ thù và Cách mạng Tháng Tám thành công chỉ với 9 chữ “Pháp chạy… thoái vị”, khai sinh ra một nước mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

+ Đanh thép, sắc sảo: là biểu hiện tính chiến đấu không khoan nhượng, thái độ dứt khoát thể hiện một bản lĩnh vững vàng, phi thường, sắc sảo ở trí tuệ, lối lập luận chặt chẽ, sắc bén

+ Kết thúc bản Tuyên ngôn, người sử dụng khẳng định tinh thần yêu nước và quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền của cả dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, Người còn thể hiện phong cách của mình ở sự đa dạng về phong cách khi viết Tuyên ngôn độc lập.

+ Bản tuyên ngôn được viết với cách lập luận chặt chẽ. Người đưa ra những lý lẽ đanh thép, những bằng chứng hùng hồn không ai chối cãi được. Ngòi bút chính luận vừa hùng hồn vừa trữ tình; cách dùng từ, đặt câu hết sức linh hoạt, Tuyên ngôn Độc lập vừa có giá trị lịch sử lớn lao, vừa xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn của thời đại

Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn là rất to lớn. Ngày nay cả nước đang thể hiện quyết tâm bảo vệ nền độc lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ biển đảo thân yêu như Bác hằng mong muốn.

2. Dàn ý phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác phẩm và tác giả Hồ Chí Minh

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh ra đời của Tuyên ngôn độc lập:

+ Được viết khi Bác Hồ từ Việt Bắc trở về ngôi nhà tại số 48 Hàng Ngang Hà Nội ngày 26/8/145, sau khi quân ta làm chủ Hà Nội ngày 19/8/1945.

+ Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đứng trước hàng triệu người Việt Nam tại quảng trường Ba Đình, đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

b. Ý nghĩa:

+ Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố với cả thế giới sự ra đời của nhà nước Việt Nam, độc lập, có chủ quyền.

+ Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ quyền lợi của Pháp tại Việt Nam.

+ Khẳng định lòng quyết tâm của dân tộc ta quyết bảo vệ Tổ quốc tới cùng

=> Tuyên ngôn độc lập được viết bằng ngòi bút chính luận cực kì xuất sắc của Hồ Chí Minh, khẳng định phong cách nghệ thuật văn chính luận của Người.

c. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Người:

- Người thể hiện lối viết văn ngắn gọn, cực kì dễ hiểu:

+ Bản Tuyên ngôn chỉ dài chưa đầy hai mặt giấy, với 1010 chữ, 49 câu nhưng đầy đủ nội dung, từ cơ sở pháp lý để khẳng định quyền độc lập dân tộc của Việt Nam.

+ Nội dung cô đọng trong từng câu chữ, toàn bộ lịch sử Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật hơn tám mươi năm được đúc kết trong 622 chữ.

+ Bác dùng 186 chữ để khẳng định quyền độc lập, tự do của Việt Nam, dựa trên những cơ sở pháp lý quốc tế, qua hai bản Tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ.

+ 58 chữ, Bác dùng để xóa gọn những ràng buộc của Pháp với ta mà Pháp đã tạo dựng ngót một thế kỷ.

+ 144 chữ Bác dùng để khẳng định sức mạnh ý chí, tinh thần của dân tộc Việt Nam, tương lai của Tổ quốc Việt Nam.

=> Mỗi vấn đề Người đều thể hiện hết sức ngắn gọn, hết sức dễ hiểu và giản dị, bằng những bằng chứng không thể chối cãi.

- Ngôn ngữ Người dùng vô cùng đơn giản, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nghe:

- Lập luận trong Tuyên ngôn độc lập vô cùng chặt chẽ, thuyết phục người nghe:

+ Về quyền độc lập của dân tộc, Bác dẫn ra những lời trích của hai bản Tuyên ngôn của hai đất nước văn minh là Pháp và Mỹ để chứng minh cho luận điểm của mình

+ Về tội ác của giặc, Bác đưa ra cụ thể tội ác tàn bạo của chúng trong từng khía cạnh và nhấn mạnh hậu quả mà chúng để lại.

=> Bằng ngòi bút lập luận cực kì sắc sảo của mình, Hồ chí Minh đã đanh thép buộc tội kẻ thù và sự thành công của Cách mạng tháng Tám chỉ với chín chữ "Pháp chạy ...thoái vị", khai sinh ra một đất nước mới: nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

+ Cuối bản Tuyên ngôn, Người dùng băn câu để khẳng định lòng yêu nước, sự quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam bảo vệ nền độc lập chủ quyền.

- Ngoài ra, Người còn thể hiện phong cách ở sự đa dạng về bút pháp khi viết Tuyên ngôn độc lập.

d. Kết luận chung:

- Ngòi bút chính luận của Hồ Chí Minh hết sức đặc sắc, có phong cách rất riêng

3. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề

3. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 1

19.8.1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23.8 tại Huế, trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 15.7, hơn 80 vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài 80 năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.

Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập. Dự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.

Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và hỏi: “Tôi nói đồng bao nghe rõ không?” Tức thì một tiếng “có” của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.

“Việt Nam độc lập muôn năm”. Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chí Minh vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Có thể nói: bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.

Nếu như Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", Bình ngô đại cáo khẳng định một chân lý lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", thì Tuyên ngôn Độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn" nổi tiếng thế giới.

Câu thứ nhất trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776:

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc".

Câu thứ hai rút từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra" "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và tự do", và đi tới khẳng định: "đó là những lẽ phải không ai chối cãi được." Qua đó, ta thấy lý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam và độc lập dân tộc. Và "Độc lập – Tự do – Hạnh phúc" là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

4. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 2

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước ta. Đồng thời bản tuyên ngôn cũng thể hiện phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận.

Đây không chỉ là văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử trọng đại mà còn là áng văn chính luận tiêu biểu, mẫu mực. Hồ Chí Minh đã quan niệm, văn chương phải có sức chiến đấu, phục vụ cho cách mạng. Khi cầm bút, Người bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để từ đó quyết định nội dung và hình thức tác phẩm.

Ở bản “Tuyên ngôn độc lập”, đối tượng mà bản tuyên ngôn này hướng đến là đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang lăm le xâm lược nước ta lần nữa. Bằng những lí lẽ, lập luận đanh thép, Hồ Chí Minh đã nêu ra những tội ác của thực dân Pháp và khẳng định rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Lối lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn, bằng chứng thuyết phục, Hồ Chí Minh đã tố cáo, vạch trần tội ác của thực dân Pháp gây ra cho nước ta. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ba chế độ khác nhau ở ba miền để ngăn cản việc thống nhất đất nước và ngăn cản tình đoàn kết của nhân dân ta. Chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, đặt ra nhiều thứ thuế vô lí, trong 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng “tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu”, chúng còn gây ra tội diệt chủng khi khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói trong nạn đói 1945. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp liệt kê để tố cáo những tội ác của thực dân Pháp. Tất cả những dẫn chứng trên đã làm cho bản tuyên ngôn trở nên đanh thép, hùng hồn hơn. Đó cũng là những bằng chứng không thể chối cãi được về những tội ác mà thực dân Pháp gây ra cho đất nước ta.

Bên cạnh đó, phong cách trong văn chính luận của Người còn được thể hiện ở lối viết ngắn gọn, hàm súc, cách dùng từ chính xác, hình ảnh xúc động như “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Từ “tắm” có giá trị biểu cảm rất cao. Biện pháp nhân hóa đã nhấn mạnh tội ác và sự đàn áp của chúng đối với nhân dân ta.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn sử dụng hàng loạt các động từ mạnh: “thẳng tay chém giết”, “xóa bỏ hết”, “thoát li hẳn”… cùng với các cấu trúc trùng điệp làm câu văn trở nên uyển chuyển, mềm mại nhưng hết sức đanh thép.

Như vậy, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc.

5. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 3

Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, Người không chỉ là một nhà chính trị quân sự xuất sắc mà còn là thi sĩ, nhà văn với những tác phẩm để lại dấu ấn cực kì đậm nét. Sự nghiệp sáng tác của Người khá đồ sộ, không chỉ các tác phẩm truyện, kí mà còn là thơ văn và các bài chính luận rất đặc sắc. Các tác phẩm của Người đều ghi lại một phong cách rất riêng, rất Hồ Chí Minh. Với thơ ca, Người chau chuốt trong từng lời thơ, vừa đẹp lại vừa giản dị, với truyện, Người viết một cách hài hước, nhưng đầy sự châm biếm, mỉa mai, còn với các áng văn chính luận, Người lại có một phong cách rất khác biệt ngắn gọn, súc tích nhưng đầy thuyết phục. Và điều đó được thể hiện thật rõ qua tác phẩm Tuyên ngôn độc lập mà Người đã đọc vào ngày 2/9/1945.

Trong lịch sử của dân tộc ta, có tới ba áng văn thơ được công nhân là những bản Tuyên ngôn độc lập của đất nước, đó là Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Thế nhưng, nếu như hai tác phẩm trên được viết bằng thể loại thơ thì Hồ Chí Minh lại viết tác phẩm của mình bằng lối văn chính luận.

Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được viết ngay sau khi Người từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Người đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ấy trước toàn thể người dân Việt Nam tại quảng trường Ba Đình lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

Tuyên ngôn độc lập là lời tuyên bố của nhân dân Việt Nam với thế giới sự ra đời của một nhà nước non trẻ nhưng có độc lập, có chủ quyền, dân tộc Việt Nam đã được tự do sau tám mươi năm Pháp thuộc. Nó còn là lời tố cáo đanh thép tội ác của kẻ thù xâm lược với đất nước và nhân dân Việt Nam và khẳng định sự đoàn kết, lòng yêu nước và tình thần quyết chiến của dân tộc ta với bất cứ kẻ thù xâm lược nào!

Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập bằng ngòi bút chính luận cực kì xuất sắc của mình, khẳng định phong cách nghệ thuật văn chính luận rất riêng của Người. Đó là lối viết ngắn gọn, súc tích nhưng đơn giản và dễ hiểu, được thể hiện bằng ngôn ngữ mộc mạc, giọng điệu mạnh mẽ, đanh thép. Đồng thời, Người cũng đưa ra những lập luận cực kì sắc bén, cực kì chặt chẽ và thuyết phục đối với người nghe. Và hơn thế, phong cách viết của Người còn được xen kẽ với đa dạng các loại bút pháp thể hiện.

Hồ Chí Minh luôn tâm niệm rằng, ngòi bút của mình là viết cho nhân dân, cho quần chúng, "viết cho đại đa số nhân dân đọc", "viết để phục vụ nhân dân", vậy nên mỗi tác phẩm của Người đều được chọn lựa kĩ càng câu chữ cũng như lối viết sao cho ngắn gọn nhất. Như bản Tuyên ngôn độc lập, một áng văn mà khai sinh ra một đất nước cũng chỉ dài có 1010 chữ và chỉ gồm 49 câu chữ ngắn ngủi, ấy vậy mà nó đã hàm chứa những nội dung cực kì sâu sắc. Không chỉ là sự đúc kết một cách cô đọng nhất nội dung của cuộc Cách mạng tháng Tám mà còn là một lời tuyên bố mà người dân Việt Nam ta đã mong đợi gần ngót một thế kỷ nay.

Nội dung của Tuyên ngôn độc lập được cô đọng trong từng câu từng chữ, không hề có một chữ thừa nào trong văn bản này. Trước tiên, khi lấy cơ sở để khẳng định quyền độc lập của đất nước ta, Bác đưa ra cơ sở pháp lý quốc tế đó là hai bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Pháp. Chỉ với 186 chữ, Người đã dùng hai bản Tuyên ngôn kia làm tiền đề khẳng định quyền được độc lập, được tự do, được hạnh phúc của người dân Việt Nam.

Không chỉ thế, Người còn tiếp tục đưa ra những lời lẽ để tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã làm với nước ta trong suốt hơn tám mươi năm qua. Những tội ác ấy được thể hiện ở tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Ở mỗi phần ấy, Người chỉ dùng một câu nêu luận điểm rồi diễn giải bằng bốn hoặc năm câu nhưng đã tóm gọn được hết những ý chính tội ác của thực dân Pháp. Người còn đặt rõ ràng từng phần để người nghe hiểu rõ hơn về những điểm chính ấy. Từng tội ác của bè lũ thực dân xâm lược đều hiện lên một cách rõ ràng, cực kì đanh thép, ngắn gọn nhưng rõ ràng.

Và cũng chỉ bằng 58 chữ, Người đã dùng để xóa bỏ hoàn toàn những ràng buộc, những hiệp định mà thực dân Pháp đã áp lên nước ta ngót một thế kỉ "Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục, súc tích và vô cùng rõ ràng, Việt Nam đã chính thức thoát khỏi ách đô hộ mà thực dân Pháp đã cất công xây dựng lên đất nước ta bao lâu nay

Không chỉ vô cùng ngắn gọn, Hồ Chí Minh còn sử dụng trong bản Tuyên ngôn ngôn ngữ vô cùng dễ hiểu, bởi Người nói "viết để phục vụ quần chúng nhân dân". Đặt vào hoàn cảnh khi ấy, đất nước ta vừa mới đi qua chiến tranh, với hơn hai triệu đồng bào chết đói, còn nghèo đói, lạc hậu, vậy nên không phải ai cũng có điều kiện được học hành, chính vì thế, Người đã diễn giải bằng ngôn ngữ mộc mạc nhất, dễ hiểu nhất và đọc đến tận tai, để cho tất cả mọi người dân Việt Nam đều có thể hiểu được ý nghĩa của bản Tuyên ngôn này. Còn đối với kẻ thù, mỗi câu mỗi chữ mà Người viết là một mũi tên, một loại vũ khí mạnh mẽ và sắc bén đánh lên bè lũ cướp nước và bán nước.

Mỗi từ ngữ đều được Hồ Chí Minh chọn lựa cực kì kĩ lưỡng để nó mang một tầng ý nghĩa lớn, ví như từ "tắm". Đây là một trong những từ ngữ đắt giá nhất tác phẩm, "chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong bể máu"! Một từ thôi nhưng đã nêu bật lên được sự tàn ác của kẻ thù xâm lược đối với nhân dân ta, sự đàn áp dã man của chúng lên những cuộc nổi dậy. Vậy nên mới nói, mỗi lời, mỗi câu , mỗi chữ trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đều khiến người ta phải khâm phục và tự hào.

Không chỉ là sự ngắn gọn, súc tích với ngôn từ ý nghĩa, dễ hiểu, văn chính luận của Hồ Chí Minh nói chung và tác phẩm Tuyên ngôn độc lập nói riêng còn khiến người ta phải trầm trồ khi có những lập luận sắc bén, thuyết phục, đặc biệt ở đoạn nêu lên tội ác của thực dân Pháp.

Bác vạch trần bộ mặt của thực dân Pháp với những tội ác dã man chúng gây nên cho dân tộc Việt Nam qua những khía cạnh khác nhau từ chính trị, kinh tế đến xã hội. Bác đưa ra những luận điểm rõ ràng rồi diễn giải chúng bằng những dẫn chứng thuyết phục.

Bác ví trên phương diện chính trị, thực dân Pháp đã "tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào". Để chứng minh cho luận điểm này, Người đưa ra những bằng chứng như sự thi hành luật pháp dã man ở ba miền, "chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học", "chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu", ...

Còn về phương diện kinh tế, Người cũng đưa ra một luận điểm đó là "chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thống, nước ta xơ xác, tiêu điều". Sau đó, bằng phương pháp liệt kê, Người đưa ra một loạt những chứng cứ xác thực để chứng minh cho luận điểm của mình như "chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu", "chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý", ...

Có thể nói, mỗi lập luận của Người đều vô cùng sắc sảo, những bằng chứng và lý lẽ thấu tình đạt lý. Người đã minh chứng cho sự tàn ác của thực dân Pháp - một đất nước tự nhận là đưa văn minh đến thuộc địa của mình, tự nhận mình là "nước Mẹ" mà lại đối xử dã man với "đứa con" của mình. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn khẳng định sự phản bội của "nước Mẹ" với đứa con Việt Nam khi Người đưa ra bằng chứng hai lần Pháp đã dâng Việt Nam cho Phát xít Nhật "trái lại, trong vòng năm năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho NHật" khiến cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích và khiến chúng ta phải chịu một tổn thất vô cùng nặng nề "hai triệu đồng bào ta bị chết đói'.

Có thế nói bằng ngòi bút chính luận xuất sắc của mình, Hồ Chí Minh đã dùng những lập luận sắc sảo, lý lẽ đanh thép mà buộc tội kẻ thù xâm lược, khiến chúng không còn một lời nào có thể biện hộ nữa. Không chỉ thế, Người còn đi tới một kết luận, một lời khẳng định chỉ với chín chữ ngắn ngủi nhưng chứa đựng toàn bộ kết tinh sự chiến đấu của dân tộc ta trong cuộc Cách mạng tháng Tám vừa qua "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị" - bức tranh về toàn bộ kẻ thù được dựng lên và hình ảnh một đất nước mới được ra đời.

Những lập luận của Người còn thể hiện ở những dòng cuối trong bản Tuyên ngôn ấy, chỉ với năm câu, Người khẳng định một cách mạnh mẽ, đanh thép rằng "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đó là ý chí, là niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Có thể nói, chỉ với 49 câu, với những lập luận sắc sảo, ngôn từ chặt chẽ, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với cả thế giới sự khai sinh của một Nhà nước non trẻ nhưng có đầy đủ quyền độc lập và tự do. Người sử dụng những cơ sở pháp lý quốc tế để chứng minh cho sự tự do ấy.

Ngoài ra, phong cách nghệ thuật văn chính luận Hồ Chí Minh còn được chú ý bởi bút pháp cực kì đa dạng. Người sử dụng bút pháp cổ điển pha lẫn với hiện đại để chứng minh cho những luận điểm nêu ra trong bản tuyên ngôn. Ví như câu đầu tiên "Hỡi đồng bào cả nước", đó như một lời hiệu triệu mang âm hưởng của Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Văn chính luận của Hồ Chí Minh - bản Tuyên ngôn độc lập, đã để lại trong lòng chúng ta những dấu ấn về phong cách vô cùng đậm nét. Đó là dấu ấn về một văn bản ngắn gọn, nhưng vô cùng đầy đủ nội dung, ngôn ngữ giản dị nhưng vô cùng đanh thép khi tố cáo tội ác của kẻ thù, dấu ấn về cách lập luận cực kì sắc sảo với những lý lẽ không thể chối cãi và về bút pháp được kết hợp vô cùng đa dạng.

Bác Hồ - Người không chỉ mang đến cho dân tộc ta con đường đi tươi sáng, mà con ghi lại dấu ấn trong lòng người yêu văn thơ một phong cách nghệ thuật khác biệt, cái chất riêng của Người. Có thể nói, Người chính là tấm gương để mỗi thế hệ chúng ta noi theo khi viết bất kì một văn bản nào đó, viết cho nhân dân, viết để phục vụ nhân dân, dễ hiểu, dễ nghe, ngắn gọn nhưng cũng thật đầy đủ.

6. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 4

"Tuyên ngôn Độc lập" đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: "Viết nhằm mục đích gì? Viết cho ai? Viết về vấn đề gì? Viết thế nào?". Đối tượng của "Tuyên ngôn Độc lập" không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn để nói với thế giới, đặc biệt là để nói với bọn đế quốc, thực dân đang âm mưu tái chiến Việt Nam. Mọi lí lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về những đối tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân ta.

Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" là những bằng chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội, một mũi tên mà bắn trúng hai đích: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học". Đó là chính sách đàn áp khủng bố và ngu dân của thực dân Pháp.

Lối viết ngắn gọn, hàm súc, đầy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu bật một cục diện chính trị: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác, gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là lí lẽ và cách lập luận. Thế nhưng, có lúc xuất hiện những hình ảnh cực kì xúc động: "Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu". Cách dùng từ ngữ, nhất là động từ, trạng ngữ vừa chính xác vừa đanh thép: "thẳng tay chém giết...", "thoát li hẳn...", "xóa bỏ hết...", "xóa bỏ tất cả...". Văn phong của Bác rất nhuần nhị, uyển chuyển trong cách sử dụng điệp từ điệp ngữ, cấu trúc cân xứng, trùng điệp, tăng cấp... tạo nên những câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, đầy ấn tượng:

"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp 80 năm nay, tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!"

Hồ Chí Minh đã viết "Tuyên ngôn Độc lập" vào hạ tuần tháng Tám năm 1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, ngay sau ngày Người từ chiến khu Việt Bắc về tới thủ đô (26-8-1945). Hồ Chí Minh đã có lần nói, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chỉ có lúc soạn thảo "Tuyên ngôn Độc lập" là "những giờ phút sảng khoái nhất" của Người.

Bản "Tuyên ngôn Độc lập" đã kế thừa và phát triển bài thơ "thần" của Lý Thường Kiệt, "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Đó là bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh, nói lên khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam anh hùng. Với giá trị lịch sử to lớn, với lập luận chặt chẽ, sắc bén đanh thép, hùng hồn, bản "Tuyên ngôn Độc lập" là một nét chói lọi góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam. Trong cuốn hồi kí "Những năm tháng không thể nào quên", Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết:

"Bản án chế độ thực dân Pháp" đã có từ 30 năm trước đây. Nhưng hôm nay mới chính là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt Nam công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỉ nguyên mới bắt đầu: Kỉ nguyên Độc lập, Tự do, Hạnh phúc... Cả dân tộc đã hồi sinh. Vô vàn khó khăn còn phía trước mắt. Nhưng đối với bọn đế quốc, muốn phục hồi lại thiên đàng đã mất, mọi việc cũng không còn dễ dàng như xưa".

"Tuyên ngôn Độc lập" là thành quả chiến đấu trong suốt 80 năm của nhân dân ta, là sự kết tinh bằng máu của hàng triệu con người Việt Nam:

"Tự do đã nở hoa hồng,

Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam".

Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ thiên tài của đất nước Việt Nam, cả cuộc đời của Người đều lo cho dân cho nước, và có nhiều những tác phẩm của Người đã để lại cho dân tộc những giá trị sâu sắc và điều đó đã được đúc kết và thấu hiểu qua phong cách nghệ thuật độc đáo.

Nghệ thuật trong cách sáng tác của Hồ Chí Minh vô cùng phong phú, cả cuộc đời của Người luôn luôn xác định được lối viết đúng, khi viết ông luôn xác định viết cái gì, viết như thế nào, viết phải chân thực, phải mang những giá trị cao quý, người cầm bút chính là những người chiến sĩ ngoài mặt trận. Văn chương là thể loại phong phú và có giá trị to lớn đối với mỗi con người, chúng ta cần phải học hỏi những kinh nghiệm sống và giá trị tốt đẹp từ phong cách của Hồ Chí Minh. Qua các tác phẩm chính của Người chúng ta thấy được một con người luôn sống và viết, cuộc đời của Người phải trải qua rất nhiều những cực khổ và trải nghiệm đó đã mang lại cho Người nhiều điều ý nghĩa và giá trị nhất. Những tác phẩm của Hồ Chí Minh mang đậm giá trị hiện thực và nó phản ánh được những năm tháng cực khổ khi bị thực dân, đế quốc xâm lược.

Trong thơ của Hồ Chí Minh cũng độc đáo và vô cùng hấp dẫn, sự nghiệp sáng tác của ông vô cùng đa dạng và hấp dẫn người đọc, mỗi thể loại đều mang những dấu ấn riêng và vô cùng độc đáo nó đã tạo nên một phong cách riêng biệt và độc đáo trong phong cách của người, mỗi bài đều rất súc tích và vô cùng chặt chẽ, ngôn ngữ mà ông sử dụng cũng rất đanh thép và hào hùng, nó mang nhiều giá trị to lớn ngay cả về mặt hình thức và nội dung, những tác phẩm của ông đã có giá trị tới muôn vàn người trong xã hội. Hồ Chí Minh có tập thơ Nhật kí trong tù cũng vô cùng đa dạng và phong phú, mỗi tác phẩm viết lên đều mang những cung bậc riêng và vô cùng độc đáo, nó giàu cảm xúc và biểu tượng cho một con người giàu chất suy tư và trải nghiệm trong cuộc sống, mỗi một tác phẩm để lại những dấu ấn riêng và vô cùng độc đáo, mỗi bài là những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ và vô cùng to lớn, khi tác giả đã dùng chính tài năng và nghệ thuật của mình để viết lên. Không chỉ trong lĩnh vực thơ Hồ Chí Minh còn nổi bật trong cả thể loại văn chính luận nó giàu giá trị và đậm đà, mỗi hình ảnh đều có giá trị chung hướng tới nhân loại. Cuộc đời của Người chỉ dành cho dân cho nước, một người biết ống và phục vụ vì lợi ích của dân tộc, đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu.

Trong các thể loại mà Hồ Chí Minh viết có văn chính luận đậm đà hình ảnh và ngôn ngữ vô cùng mạnh mẽ, nó đanh thép và thấu tình đạt lý, thu hút sự chú ý của đọc giả, ngoài những tác phẩm mang tính chính luận sâu sắc thì cũng có những bài mang những giọng điệu châm biếm chua cay nhưng vô cùng thâm túy, nó đã để lại những cảm xúc riêng và vô cùng mạnh mẽ đối với con người, mỗi người chúng ta nên học hỏi và phát triển điều đó theo những bản năng vốn có và phát triển những giá trị tốt đẹp học hỏi từ vị lãnh tụ thiên tài, trong các tập truyện của Người cũng có rất nhiều bài có giá trị và để lại nhiều ảnh hưởng về sau, thế hệ tiếp nối đã và đang học hỏi được những phong cách độc đáo và giàu giá trị nhất cho mỗi con người, chúng ta nên tiếp thu và phát triển được điều đó, với một tâm hồn trong sáng và giàu cảm xúc mỗi tác phẩm của người cũng để lại những cảm xúc riêng, đối với thơ ca đây là thể loại có thể nói là vô cùng phát triển của con người, nó mang đậm những giá trị và cả vẻ đẹp tinh tế của ngôn từ.

Các tác phẩm của Hồ Chí Minh đều có những đặc điểm chung đó là hướng tới nhân dân, hướng tới cách mạng, những tác phẩm đã phản ánh sâu sắc được thời cuộc lúc bấy giờ, và những cảm xúc mang đậm nhiều cảm xúc đối với con người, mỗi lời thơ đều vô cùng giản dị không hề được trau chuốt mà những lời thơ viết ra nó giản dị đến vô ngần, và mang nhiều giá trị cổ điển. Ngôn ngữ mộc mạc với lời thơ không chau chuốt đó là những phong cách nổi bật của Hồ Chí Minh, với những lời thơ mang đậm chất tình, và cả những nỗi nhớ mong mang nhiều cung bậc to lớn đã để lại nhiều giá trị tốt đẹp nhất cho con người, mỗi chúng ta đều có thể nhìn thấy điều đó qua cung bậc riêng và giàu giá trị nhất định. Sự tài hoa của người còn được thể hiện qua việc kết hợp các yêu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, chúng ta có thể nhìn điều đó qua tác phẩm Chiều tối của Hồ Chí Minh.

Mỗi tác phẩm đều mang đậm phong cách riêng và vô cùng độc đáo của Hồ Chí Minh nó không chỉ đem lại nhiều giá trị nhất cho nhân loại mà còn để cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú và giàu cảm xúc nhất, với ngôn ngữ giản dị, trong sáng và cũng vô cùng đanh thép nên để lại nhiều dấu ấn trong nền văn học Việt Nam, mỗi tác phẩm là những sáng tác riêng và vô cùng độc đáo dành cho mỗi con người, không chỉ cho dân tộc hôm nay, mà nó còn ở lại với người đọc đương thời trong những thời gian xa hơn, và các tác phẩm đó sẽ mãi sống với nhân loại và cuộc sống của mỗi người là mang đậm giá trị hạnh phúc và tự hào về một đất nước có truyền thống phong phú và những con người tài năng.

Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân loại những giá trị cao quý và những tác phẩm có giá trị. Với phong cách độc đáo và riêng biệt Hồ Chí Minh đã để lại tên tuổi của mình trong nền văn học Việt Nam. Các thể loại mà ông đóng góp đã mang tiếng vang lớn, thể loại chính luận như những bài luật đường mà giá trị của nó vừa mang tính triết lý sâu sắc và thấu tình đạt lý, mỗi bài đều để lại những giá trị riêng và mang đậm ý nghĩa sáng tạo sâu sắc. Người luôn luôn hòa mình vào các tác phẩm của mình để từ đó những sáng tác của Người đều rung lên những cung điệu riêng nhưng đều mang đậm chất triết lý và giàu chất suy tưởng, mỗi lời thơ và văn của Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân loại nhiều giá trị, nó không chỉ mang những ngôn ngữ dễ hiểu dễ nghe mà còn đậm chất dân tộc. Hồ Chí Minh đã vận dụng tốt những điều mà ông học tập được của nhân loại cho chính bản thân mình.

Những tinh hoa của Hồ Chí Minh đã được đúc kết mạnh mẽ trong các tác phẩm của Người, nó không chỉ được sử dụng rộng rãi mà còn trở thành một phong cách riêng độc đáo và vô cùng ý nghĩa đối với mỗi con người, hình ảnh thơ mang đậm cảm xúc, với những tính chất cổ điển được lồng ghép vào trong thơ làm cho nó mang đậm những giá trị cổ xưa và những hình ảnh mang những tính thống nhất chung giữa người đọc và người viết. Nội dung của các tác phẩm cũng vô cùng phong phú và đậm đà, mỗi tác phẩm để lại những cung bậc riêng và giàu giá trị nhất định, nội dung đã hàm chứa trong đó rất nhiều cảm xúc và những phong cách riêng của Hồ Chí Minh, những tác phẩm đậm giá trị và nhiều những cảm xúc khó diễn tả khi phong cách của người đã dư âm của những tinh hoa và hạnh phúc của nhân loại.

Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh rất đậm nét trong các tác phẩm đó là những điều vô cùng đáng quý và để lại những giá trị vô cùng to lớn và sâu sắc cho kho tàng dân ca Việt Nam, những động lực đó sẽ làm nên những giá trị cốt lõi cho cuộc sống này, những tinh hoa đó sẽ được nhân loại công nhận và học hỏi, nền văn học Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ và có nhiều ưu thế sẽ sánh vai với cường quốc năm châu trong nhân loại.

7. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 5

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo thiên tài mà còn là một nhà thơ, nhà văn kiệt xuất. Những áng văn chính luận của Người không chỉ đanh thép, sắc sảo mà còn tác động mạnh mẽ đến tâm thức của người đọc, tất cả đều nhờ vào nghệ thuật lập luận tài tình, sắc bén. Có thể coi Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận không chỉ của riêng Bác mà là của cả văn học dân tộc.

Tháng 8 năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, mở ra một con đường mới cho dân tộc Việt Nam. Nhận định sáng suốt tình hình trong và ngoài nước, tại phố Hàng Ngang Hồ Chí Minh đã soạn thảo Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường Ba Đình lịch sử Người đã đọc bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn không chỉ có giá trị lịch sử to lớn mà còn có giá trị nghệ thuật sâu sắc, đặc biệt là cách thức Bác lập luận để đi đến kết luận cuối cùng khai sinh ra nước Việt Nam.

Nghệ thuật lập luận sắc bén trong bản Tuyên ngôn độc lập trước hết được thể hiện trong bố cục, cách sắp xếp các ý của bài văn. Phần đầu tiên Bác nêu lên cơ sở pháp lí, làm nền tảng cho bản tuyên ngôn; Phần thứ hai nêu lên cơ sở thực tiễn, làm dẫn chứng giúp cho bản tuyên ngôn giàu sức thuyết phục; Sau khi hội tụ đầy đủ hai yếu tố lí luận và thực tiễn Người đưa ra lời tuyên bố dõng dạc, đanh thép, tràn đầy tinh thần tự hào, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày từ cách bố cục của bài văn ta đã thấy một tư duy mạch lạc, một lập luận sắc bén trong nghệ thuật lập luận của Người.

Trước hết, về cơ sở pháp lý, mở đầu bản tuyên ngôn của nước Việt Nam, Bác đã trích dẫn lời trong hai bản Tuyên ngôn của Mỹ và của Pháp: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Từ đó, Bác khẳng định quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân; khẳng định đó là những quyền hiển nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Và một bước nâng cao hơn nữa, từ quyền tự do và bình đẳng của con người, Bác đã suy rộng ra “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, Bác đã nâng quyền con người, quyền cá nhân thành quyền dân tộc. Cách lập luận của Bác vô cùng thuyết phục, Bác đi từ một tiên đề có giá trị như một chân lý không ai chối cãi được. Tiên đề được đưa ra ở đây chính là quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi con người. Bởi vậy, nếu Pháp và Mĩ xâm phạm quyền tự do và độc lập của dân tộc ta thì có nghĩa đã phản bác lại chính cha ông tổ tiên của mình. Với chiến thuật “gậy ông đập lưng ông” mạnh mẽ, dứt khoát, Người đã khiến kẻ thù không thể chối cãi, không thể chống đỡ được. Đồng thời khi đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, Bác đã đưa dân tộc ta đàng hoàng bước lên vũ đài chính trị thế giới, sánh vai với các cường quốc.

Không chỉ dừng lại ở cơ sở lý luận, để làm bài văn chính luận thêm phần đanh thép, thuyết phục, Người đã đưa ra cơ sở thực tiễn phong phú, chân thực. Pháp nhân danh “khai hóa”, mang đến văn minh cho dân tộc Việt nhưng đã bị Bác đã vạch trần tội ác trên hai phương diện. Tội ác gây ra trên mọi mặt đời sống: Về chính trị: chúng tước đoạt tự do dân chủ, thi hành luật pháp dã man, chia để trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta…; Về kinh tế: bóc lột tước đoạt của nhân dân ta, độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng … Hành động của chúng trái hẳn với những lời nói hoa mỹ chúng tung ra, chúng chỉ mang đến đau thương, mất mát cho nhân dân Việt Nam, khiến hơn hai triệu đồng bào chết đói. Không chỉ vậy, Pháp nhân danh “bảo hộ”, Bác nêu rõ: chúng không những không bảo hộ được mà “trong vòng 5 năm đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Hành động đó còn chứng minh Pháp là những kẻ phản bội phe Đồng minh, quỳ gối trước phe phát xít Nhật.

Đồng thời Bác cũng nêu lên quá trình đấu tranh kiên gan, bền bỉ của dân tộc ta. Sau quá trình đấu tranh bền bỉ ấy, dân tộc Việt Nam đã giành được những kết quả vô cùng to lớn, được tác giả thể hiện trong đoạn văn ngắn gọn “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Câu văn ngắn gọn đã khẳng định chiến thắng của dân tộc trước thế lực thù địch vô cùng mạnh, nguy hiểm. Và lời tuyên bố “Thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Tuyên bố khối đoàn kết toàn dân “trên dưới một lòng” kiên quyết chống lại âm mưu của thực dân Pháp.

Từ những cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế hết sức đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, Hồ Chí Minh đã đi đến tuyên bố độc lập: Tuyên bố Việt Nam đã thành một nước tự do, độc lập và khẳng định ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Hai nội dung trên chính là hai điều kiện để lời tuyên ngôn độc lập của một dân tộc thực sự có sức thuyết phục.

Tính chính luận xuất sắc còn được thể hiện trong nghệ thuật liệt kê, so sánh để làm bật lên tội ác ghê gớm của Pháp đối với nhân dân ta. Đặc biệt Bác còn tạo nên hình ảnh vừa giàu tính biểu cảm, vừa chính xác, rõ ràng bởi vậy thể loại này ít xuất hiện hình ảnh bay bổng. Nhưng khi chung được sử dụng với liều lượng hợp lý sẽ phát huy hiệu quả, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Bác sử dụng linh hoạt hình ảnh giàu giá trị biểu cảm như: chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu đã làm bật lên tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách sử dụng câu văn dài, chia làm nhiều vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên giọng tố cáo sôi nổi, đanh thép.

Giọng điệu linh hoạt, khi tố cáo đanh thép, khi khẳng định quyết liệt, đặc biệt là ở đoạn văn cuối bài. Câu văn: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” tách ra một đoạn riêng, như một lời khẳng định ngắn gọn, trắc nịch. Cuối tác phẩm Hồ Chí Minh đã thể hiện bằng giọng điệu hào sảng và sắc thái trang trọng, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc đồng thời thể hiện quyết tâm cao độ bảo vệ nền tự do, độc lập ấy.

Bằng những lập luận sắc bén, dẫn chứng chân thực giàu sức thuyết phục, cùng với đó là giọng điệu, ngôn ngữ biến đổi linh hoạt, Hồ Chí Minh đã mang đến bản tuyên ngôn bừng bừng khí thế dân tộc. Bản tuyên ngôn đã mở ra một trang sử mới, vẻ vang, khi dân ta được làm chủ được nắm quyền. Đồng thời bản tuyên ngôn cũng cho thấy nghệ thuật lập luận bậc thầy của Người.

8. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 6

Trong những trang sử thi hào hùng của dân tộc ta có những mốc son chói lọi được đánh dấu bằng những bản tuyên ngôn lịch sử. Thời nhà Trần với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, nhà Lê với “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi và một lần nữa, lịch sử được gọi tên trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Ba bản tuyên ngôn này được coi là những áng thiên cổ hùng văn của dân tộc. Và vượt lên trên điều đó, chúng ta thấy được sức mạnh và tính thuyết phục mãnh liệt hơn cả của nghệ thuật lập luận làm cho Tuyên ngôn độc lập trở thành một bài văn chính luận mẫu mực.

Nói đến văn chính luận là chúng ta nói đến một thể cổ văn thường được sử dụng trong những hoàn cảnh lịch sử trang trọng như ở bài chiếu, biểu, hịch, cáo, tuyên ngôn. Đây là thể văn có tổ chức chặt chẽ, kết cấu khúc triết và giá trị cơ bản của nó là tính thuyết phục. Tất cả những điều đó thể hiện ở cách lập luận rõ ràng, chặt chẽ, ở các lí lẽ sắc bén và những bằng chứng xác thực không thể chối cãi. Tất cả những phẩm chất này được thể hiện trọn vẹn trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.

Không chỉ là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử lớn lao, Tuyên ngôn độc lập còn đạt đến tính mẫu mực của văn bản chính luận bởi những quan điểm mà Người đưa ra có sức thuyết phục rất mạnh mẽ, thậm chí còn buộc người đọc, người nghe phải chấp nhận mà không thể chối cãi được. Ở văn bản này, Bác đã sử dụng ba luận điểm chính: Cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn, cơ sở thực tiễn với bản chất phi nghĩa của thực dân Pháp và sự trưởng thành của cách mạng Việt Nam và phần tuyên ngôn: chủ quyền tất yếu của dân tộc Việt Nam. Ở mỗi luận điểm, Người lại sử dụng những lý lẽ rất sắc bén, đanh thép, những dẫn chứng cụ thể, cho nên những quan điểm của Người dễ được chấp nhận. Chúng ta xét văn bản này cả trên kết cấu của một bài văn chính luận và kết cấu của một văn bản văn học thì Tuyên ngôn độc lập đều đạt đến sự hoàn chỉnh và mẫu mực.

Xét trong một bài văn chính luận, cơ sở thực tiễn là luận điểm quan trọng nhất, đưa ra nguyên tắc, nguyên lý chung buộc người đọc, người nghe thừa nhận hoặc làm theo luận điểm mà người viết muốn nói ra. Nó cũng là tiền đề để tạo nên tính thuyết phục của một bài văn chính luận. Khi viết văn bản này, Bác hướng tới dân tộc, con người Việt Nam và nhân dân thế giới. Nhưng thế giới ở đây không phải là một khái niệm chung chung, trừu tượng mà chính là người Pháp và người Mỹ, vì các thế lực này đang có mưu đồ trở lại xâm lược Việt Nam. Đặc biệt sau chiến tranh thế giới thứ hai, chiến trường Đông Dương thuộc quyền giải giáp vũ khí của cả Anh, Pháp, Mĩ. Tuy nhiên, lúc này mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ với Liên Xô chắc chắn sẽ đi đến sự thỏa hiệp để thực dân Pháp có điều kiện thuận lợi nhất vào Đông Dương. Đồng thời Pháp lại tuyên bố với thế giới rằng chúng có công khai hóa Đông Dương nên việc trở lại Đông Dương là tất yếu lịch sử. Trước hoàn cảnh khó khăn này đã đặt ra thử thách cho Hồ Chí Minh khi viết Tuyên ngôn độc lập. Bản tuyên ngôn không những phải tuyên bố được độc lập cho dân tộc mà còn phải bác bỏ được luận điệu sai trái của Pháp, tranh thủ sự đồng tình của nhân loại tiến bộ. Tất cả các yêu cầu trên đều được giải quyết trong phần cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn.

Ở phần này, Hồ Chí Minh đã rất cương quyết, khéo léo sắc sảo. Để thuyết phục người nghe, Người không những đưa ra quan điểm của cá nhân mình mà sử dụng những tiền đề lịch sử. Đó là bản Tuyên ngôn độc lập của Mĩ (1776) và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791). Vì quan điểm cá nhân đưa ra dù có đúng đắn, chính xác đều tạo ra hai hiệu ứng hoặc đồng tình hoặc phản đối, còn việc sử dụng những tiền đề lịch sử thì buộc mọi người phải thừa nhận, nghe theo. Lúc này, Pháp và Mỹ là hai kẻ thù đe dọa đến nền độc lập của nước nhà nhưng không vì thế mà Hồ Chí Minh chối bỏ tinh hoa lịch sử.

Người vẫn trân trọng những thành quả mà cha ông người Pháp, người Mỹ để lại. Điều đó thể hiện một tư tưởng lớn, Bác không đứng trên lập trường cá nhân mà đứng trên lập trường nhân loại.

Việc sử dụng tuyên ngôn của Pháp, Mĩ để tuyên bố cho nền độc lập của nước ta, Bác đã tranh thủ sự ủng hộ của thế giới đối với các cường quốc lớn, đồng thời cũng kín đáo thể hiện sự ngang hàng của nền độc lập các nước, sánh ngang với Cách mạng tháng Tám của chúng ta với Cách mạng Dân chủ Tư sản của Pháp (1789) và cuộc giải phóng thuộc địa của Mĩ (1776). Nó gợi chúng ta nhớ lại niềm tự hào mà Nguyễn Trãi nói trong Bình Ngô Đại Cáo khi so sánh sự ngang hàng của Đại Việt với phong kiến phương Bắc:

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Đó là sự thật lịch sử bởi vì Cách mạng tháng Tám của chúng ta đã đồng thời giải quyết những nhiệm vụ mà cách mạng của Pháp và Mỹ từng làm được. Cùng một lúc, chúng ta đánh đổ cả ba thế lực: thực dân, phát xít và phong kiến, cho nên bản tuyên ngôn của chúng ta vừa là bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.

Không những thế, bản tuyên ngôn còn thể hiện sự cương quyết của Hồ Chí Minh. Đối với Pháp, Mĩ chúng đang có dã tâm trở lại xâm lược nước ta, Người đã rất cương quyết khi nhắc nhở chúng khi Người mượn bản tuyên ngôn của cha ông người Pháp, Mĩ. Đó là nghệ thuật quân sự “gậy ông đập lưng ông”. Vì cha ông người Pháp, Mĩ đã từng tuyên bố về nhân quyền và dân quyền trong bản tuyên ngôn của họ, nếu như chúng có ý định trở lại xâm lược Việt Nam tức là chúng đã làm vấy bẩn lên tinh hoa mà cha ông để lại trong lịch sử.

Ở luận điểm một, Người đưa ra những tiền đề pháp lý của bản tuyên ngôn thì đến luận điểm thứ hai, Bác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể, xác thực. Khác với phần cơ sở pháp lý đưa ra những tiền đề lý luận thì cơ sở thực tiễn lại sử dụng những dẫn chứng, luận điểm, luận cứ để chứng minh cho giá trị thuyết phục của lập luận đã được đưa ra ở phần cơ sở pháp lý. Xét theo yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử, lúc này Pháp là kẻ thù số một và nguy hiểm nhất cho nên, trong phần cơ sở thực tế, chủ yếu Bác đối thoại với người Pháp, vạch trần bản chất xâm lược và luận điểm xảo trá của chúng. Người khẳng định Pháp không những không có công khai hóa mà chúng còn mang bản chất của kẻ xâm lược, phi nghĩa, tàn bạo khi ở Đông Dương. Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp nước ta. Chúng thống trị, xâm lược một cách toàn diện đất nước ta ở cả ba phương diện: chính trị, kinh tế và văn hóa. Từ những dẫn chứng cụ thể mà Bác đưa ra, ta đã thấy thực dân Pháp đã bộc lộ bản chất giả dối, mị dân của mình. Khai hóa chẳng qua chỉ là chiêu bài để chúng dễ bề xâm lược nước ta.

Với tất cả quan điểm của mình, Hồ Chí Minh đã khẳng định người Pháp không còn quyền bảo hộ ở Đông Dương. Cho nên những luận điểm mà chúng tuyên bố chỉ hòng mở đường để quay lại Đông Dương. Mặc dù, Pháp có những hành động vô cùng dã man nhưng chúng ta lại giữ thái độ khoan hồng khi giúp đỡ cho người Pháp, bảo vệ tính mạng và của cải cho họ. Trong cuộc chiến chống phát xít, ta đứng về phe đồng minh. Từ đó, Người đòi hỏi thế giới phải đồng tình, ủng hộ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đó không phải là cơ sở lý thuyết được ban tặng mà phải đánh đổi bằng sự hy sinh, xương máu. Vì những lý lẽ trên, việc tuyên bố tự do, độc lập là quyền và trách nhiệm thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ phần cơ sở thực tiễn được chứng minh bằng sự thật lịch sử cho nên kèm với mỗi dẫn chứng, mỗi sự kiện, Hồ Chí Minh thường dùng những cụm từ sự thật, hoặc sự thật là để tăng thêm sức thuyết phục cho lập luận của Người.

Luận điểm thứ ba là phần có ý nghĩa, giá trị lớn lao hơn hết, là phần tuyên ngôn của bản tuyên ngôn, là kết quả tất yếu của cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn mà Hồ Chí Minh đưa ra. Bác đã rất cẩn trọng, khôn khéo và cương quyết để đi đến khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh tuyên bố thoát ly quan hệ với nước Pháp, xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của Pháp trên đất Đông Dương, đồng thời mở ra một con đường mới cho dân tộc ta. Bác cũng tuyên bố với người Pháp dân tộc ta kiên quyết chống lại mọi âm mưu xâm lược của chúng. Bác rất khéo léo khi tin tưởng và đòi hỏi thế giới phải công nhận quyền tự do, độc lập của đất nước ta. Người tuyên bố và khẳng định quyết tâm, ý chí của cả dân tộc Việt Nam.

Từ những giá trị trên, chúng ta nhận thức sâu sắc ý nghĩa lớn lao của bản Tuyên ngôn độc lập trên phương diện lịch sử, văn hóa cũng như chính trị và hơn hết là sự khẳng định chủ quyền dân tộc. Từ cách lập luận vô cùng sắc sảo, thuyết phục, rõ ràng của Người, Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là một áng văn chính luận mẫu mực, vô tiền khoáng hậu.

---------------------------------

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập. Bài viết đã cho chúng ta thấy được dàn ý và các bài văn mẫu. Mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 12. Để giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, VnDoc.com mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12...

Từ khóa » đề Liên Hệ Tuyên Ngôn độc Lập Với Chiều Tối