Phong Tục Cưới Hỏi Của Người HMông - Wiki Phununet

Người H’Mông có rất nhiều phong tục, tập quán đẹp. Trong đó đặc sắc nhất là những tục lệ về cưới xin.

Những tục lệ như “bắt vợ”, “ăn hỏi” hay “buộc chỉ cổ tay” là di sản lớn nhất về tinh thần do ông cha ta từ xưa truyền lại. Người H’Mông mang đi hàng trăm cánh rừng du canh du cư ngày xưa đến những bản làng trù phú định cư ngày nay.

Đám cưới của người H’Mông thường được tổ chức linh đình vào ngày lành tháng tốt, thường là vào mùa Xuân vì người ta rất kiêng làm đám cưới vào những tháng có sấm sét. Và người ta cho rằng mùa Xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở mà con người không nằm ngoài vòng quay đó.

Thế nhưng không phải câu chuyện tình yêu nào cũng có một cái kết có hậu mà không phải trải qua sóng gió. Trong thực tế có rất nhiều đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại không được một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý (chủ yếu là cha mẹ người con gái).

Khi cha mẹ đã không đồng ý mà đôi trái gái tự tìm đến sống với nhau thì không những bị coi là bất hiếu mà cuộc hôn nhân đó còn không được cộng đồng chấp nhận.

Thế nên tục “kéo vợ” có thể được coi là một giải pháp khá hiệu quả cho những đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại gặp phải trở ngại từ phía gia đình. Khi đó, đôi trái gái sẽ bàn cách tiến tới hôn nhân bằng tục “kéo dâu” bằng cách nhờ cậy những ông chú, bà thím, bà cô, ông cậu, anh em, bạn bè... làm nội ứng, thống nhất kế hoạch “kéo dâu”, hợp lý hoá cuộc hôn nhân.

Mọi chuyện được tính toán trong bí mật, gia đình nhà gái không hề hay biết, cô gái vẫn ngày ngày đi nương, lấy củi, địu nước như thường. Rồi một ngày như đã hẹn... chàng trai xuất hiện. Hai người đang tâm sự thì bạn bè của chàng trai xuất hiện và giúp chàng trai kéo cô gái về nhà mình.

Cô gái dù biết trước mọi chuyện vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu toáng lên. Không những thế cô gái phải giả vờ kêu cứu, khóc lóc để mọi người nhà mình biết đến cứu.

Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà không khóc lóc, kêu la thì đó là đồ con gái rẻ rúng và hư hỏng, bị gia đình và làng xóm coi khinh. Khi người nhà gái mang gậy gộc đến cứu cô gái thì các bạn của chàng trai sẽ xông ra đỡ đòn (theo luật lệ của người H’Mông là đã đi “kéo vợ” thì nhà trai không được phép đánh lại nhà gái) để chàng trai mang cô gái về nhà.

Người H'Mông thường tổ chức lễ cưới vào mùa xuân - mùa vạn vật sinh sôi, nảy nở

Sau khi gia đình chàng trai mang gà ra làm lễ quét phép, cô gái mới được đưa vào nhà. Người H’Mông quan niệm, con gái đã bị người ta dùng gà trống làm lễ nhập nhà rồi thì có bỏ về bố mẹ đẻ cũng không thể chấp nhận được vì cô ta đã trở thành người của nhà khác, khi chết cũng là ma nhà khác rồi.

Chính vì vậy, khi biết con gái mình đã bị người ta kéo về làm vợ thì dù có không đồng ý, có ấm ức thì đa phần nhà gái cũng đành đồng ý.

Tuy nhiên, nếu cứ theo thủ tục thông thường thì khi đi ăn hỏi hai bên có thể thỏa thuận về khoản lễ cưới, nhưng nếu nhà trai dùng tục “kéo vợ” thì nhà gái sẽ ít khi thông cảm và thường phạt bằng cách đòi lễ cao hơn bình thường.

Khi đã chấp nhận dùng tục “kéo vợ” thì nhà trai phải xác định ngay là sẽ bị nhà gái phạt. Và khi nhà gái đòi bao nhiêu thì phải trả bấy nhiêu để tránh sự chê cười của làng xóm. Chính vì những lệ này mà không phải gia đình nào cũng có thể dùng tục “kéo vợ” cho con trai.

Những gia đình muốn dùng tục “kéo vợ” thường phải là những gia đình, dòng họ tương đối khá giả thì mới có thể đáp ứng nhu cầu khi nhà gái phạt. Bởi có không ít gia đình phải mất vài ba năm mới có thể trả hết lệ phạt mà nhà gái đặt ra.

Tục “kéo vợ” còn có thể diễn ra bởi nhiều lý do như: người con trai thích người con gái nhưng người con gái lại từ chối; gia đình người con trai dùng quyền thế “cướp vợ” cho con trai... nhưng những trường hợp này chỉ xảy ra trước kia, dưới thời xã hội phong kiến.

Còn ngày nay, cũng như nhiều dân tộc khác, người H’Mông luôn trọng chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và quan niệm cái đẹp lứa đôi là khỏe mạnh, đạo đức và chăm chỉ.

Hôn nhân là kết quả của tình yêu tự nguyện, các cuộc “kéo vợ” giờ đây chỉ là sự khẳng định cho tình yêu mãnh liệt, khát vọng về một gia đình hạnh phúc của trai gái người H’Mông mà thôi. Chính vì vậy, hiểu tục “kéo vợ” của người H’Mông như ngày này chúng ta vẫn hiểu, là khi người con trai thích một người con gái, liền rủ bạn bè bắt cóc người đó về làm vợ là rất sai lầm, nghiêng về khía cạnh bạo lực mà không thấy hết được tính nhân văn sâu sắc trong đó.

Chính vì vậy, có thể nói, người H’Mông có rất nhiều tục lệ với những ràng buộc khắt khe song bên trong đó đều chứa đựng các yếu tố nhân văn rất tình người, được xử lý linh hoạt trên cơ sở đoàn kết thương yêu. Đó chính là nhân lõi để giữ gìn sự gắn bó của cộng đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa độc đáo của người H’Mông.

Phong tục cưới người H’Mông

Người H’Mông có rất nhiều phong tục, tập quán đẹp. Trong đó đặc sắc nhất là những tục lệ về cưới xin.

alt

Nụ cười người con gái H’Mông (Nguồn ảnh: vnphoto.net)

Những tục lệ như “bắt vợ”, “ăn hỏi” hay “buộc chỉ cổ tay” là di sản lớn nhất về tinh thần do ông cha ta từ xưa truyền lại. Người H’Mông mang đi hàng trăm cánh rừng du canh du cư ngày xưa đến những bản làng trù phú định cư ngày nay. Đám cưới của người H’Mông thường được tổ chức linh đình vào ngày lành tháng tốt, thường là vào mùa Xuân vì người ta rất kiêng làm đám cưới vào những tháng có sấm sét. Và người ta cho rằng mùa Xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở mà con người không nằm ngoài vòng quay đó. Thế nhưng không phải câu chuyện tình yêu nào cũng có một cái kết có hậu mà không phải trải qua sóng gió. Trong thực tế có rất nhiều đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại không được một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý (chủ yếu là cha mẹ người con gái). Khi cha mẹ đã không đồng ý mà đôi trái gái tự tìm đến sống với nhau thì không những bị coi là bất hiếu mà cuộc hôn nhân đó còn không được cộng đồng chấp nhận. Thế nên tục “kéo vợ” có thể được coi là một giải pháp khá hiệu quả cho những đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại gặp phải trở ngại từ phía gia đình. Khi đó, đôi trái gái sẽ bàn cách tiến tới hôn nhân bằng tục “kéo dâu” bằng cách nhờ cậy những ông chú, bà thím, bà cô, ông cậu, anh em, bạn bè... làm nội ứng, thống nhất kế hoạch “kéo dâu”, hợp lý hoá cuộc hôn nhân. Mọi chuyện được tính toán trong bí mật, gia đình nhà gái không hề hay biết, cô gái vẫn ngày ngày đi nương, lấy củi, địu nước như thường. Rồi một ngày như đã hẹn... chàng trai xuất hiện. Hai người đang tâm sự thì bạn bè của chàng trai xuất hiện và giúp chàng trai kéo cô gái về nhà mình. Cô gái dù biết trước mọi chuyện vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu toáng lên. Không những thế cô gái phải giả vờ kêu cứu, khóc lóc để mọi người nhà mình biết đến cứu. Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà không khóc lóc, kêu la thì đó là đồ con gái rẻ rúng và hư hỏng, bị gia đình và làng xóm coi khinh. Khi người nhà gái mang gậy gộc đến cứu cô gái thì các bạn của chàng trai sẽ xông ra đỡ đòn (theo luật lệ của người H’Mông là đã đi “kéo vợ” thì nhà trai không được phép đánh lại nhà gái) để chàng trai mang cô gái về nhà. Sau khi gia đình chàng trai mang gà ra làm lễ quét phép, cô gái mới được đưa vào nhà. Người H’Mông quan niệm, con gái đã bị người ta dùng gà trống làm lễ nhập nhà rồi thì có bỏ về bố mẹ đẻ cũng không thể chấp nhận được vì cô ta đã trở thành người của nhà khác, khi chết cũng là ma nhà khác rồi. Chính vì vậy, khi biết con gái mình đã bị người ta kéo về làm vợ thì dù có không đồng ý, có ấm ức thì đa phần nhà gái cũng đành đồng ý. Tuy nhiên, nếu cứ theo thủ tục thông thường thì khi đi ăn hỏi hai bên có thể thỏa thuận về khoản lễ cưới, nhưng nếu nhà trai dùng tục “kéo vợ” thì nhà gái sẽ ít khi thông cảm và thường phạt bằng cách đòi lễ cao hơn bình thường. Khi đã chấp nhận dùng tục “kéo vợ” thì nhà trai phải xác định ngay là sẽ bị nhà gái phạt. Và khi nhà gái đòi bao nhiêu thì phải trả bấy nhiêu để tránh sự chê cười của làng xóm. Chính vì những lệ này mà không phải gia đình nào cũng có thể dùng tục “kéo vợ” cho con trai. Những gia đình muốn dùng tục “kéo vợ” thường phải là những gia đình, dòng họ tương đối khá giả thì mới có thể đáp ứng nhu cầu khi nhà gái phạt. Bởi có không ít gia đình phải mất vài ba năm mới có thể trả hết lệ phạt mà nhà gái đặt ra. Tục “kéo vợ” còn có thể diễn ra bởi nhiều lý do như: người con trai thích người con gái nhưng người con gái lại từ chối; gia đình người con trai dùng quyền thế “cướp vợ” cho con trai... nhưng những trường hợp này chỉ xảy ra trước kia, dưới thời xã hội phong kiến. Còn ngày nay, cũng như nhiều dân tộc khác, người H’Mông luôn trọng chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và quan niệm cái đẹp lứa đôi là khỏe mạnh, đạo đức và chăm chỉ. Hôn nhân là kết quả của tình yêu tự nguyện, các cuộc “kéo vợ” giờ đây chỉ là sự khẳng định cho tình yêu mãnh liệt, khát vọng về một gia đình hạnh phúc của trai gái người H’Mông mà thôi. Chính vì vậy, hiểu tục “kéo vợ” của người H’Mông như ngày này chúng ta vẫn hiểu, là khi người con trai thích một người con gái, liền rủ bạn bè bắt cóc người đó về làm vợ là rất sai lầm, nghiêng về khía cạnh bạo lực mà không thấy hết được tính nhân văn sâu sắc trong đó. Chính vì vậy, có thể nói, người H’Mông có rất nhiều tục lệ với những ràng buộc khắt khe song bên trong đó đều chứa đựng các yếu tố nhân văn rất tình người, được xử lý linh hoạt trên cơ sở đoàn kết thương yêu. Đó chính là nhân lõi để giữ gìn sự gắn bó của cộng đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa độc đáo của người H’Mông.

Tục Cướp Vợ Của Người H'Mông

Tháng giêng, khi những rừng mơ nở trắng, báo hiệu mùa cưới lung linh sắc màu thổ cẩm rộn lên khắp các bản làng Tây Bắc và Ðông Bắc cũng rộn lên. Người Mông có tục kéo con gái về làm vợ ( Cuớp vợ ) Khi người con trai quen biết một người con gái và muốn cô gái đó làm vợ họ sẽ đi kéo cô gái về nhà. Để kéo được cô gái về nhà, người con trai phải chiêu đãi, mời rượu một số người bạn cùng lứa tuổi để họ đi kéo giúp. Chàng trai và bạn bè của anh có thể tìm cô gái ở chợ, ở đêm chơi trăng hay lúc đi làm nương. Khi đã kéo được cô gái về nhà, chàng trai lại phải mời rượu bạn để cảm ơn. Chàng trai sẽ phải nhờ chị gái của mình (hoặc em gái) để trông không cho cô gái trốn khỏi nhà mình. Chị gái của chàng trai sẽ có mặt bên cô gái được kéo về suốt cả ba ngày đêm.

Phong tục chính là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội của con người, được mọi người công nhận và làm theo. Có những phong tục mang tính cổ hủ, song có phong tục tô đẹp bản sắc văn hóa người dân Việt Nam

Tục cướp vợ được coi là chế độ lược hôn. Tục này rất phổ biến ở các vùng Tây - Ðông Bắc. ở vùng Tây Bắc giáp biên giới nước Lào, tục cướp vợ có sắc thái biểu cảm thật trữ tình. Vào một đêm trăng thanh, chàng trai miền núi vác chiếc thang tựa cửa nhà người yêu, rồi thổi một điệu kèn môi tình tứ bằng chiếc lá. Âm điệu du dương khiến lòng cô gái thổn thức, xốn xang. Nàng bắt đầu hé cửa sổ thì chàng lập tức ghé thang lên, trèo vào và cõng nàng chạy vào rừng. Họ ở bên nhau 3 ngày, rồi trở về nhà bố mẹ vợ, xin phép cưới.

Ở vùng tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tục cướp vợ mang tính mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Chàng trai đi chợ, bắt gặp một cô gái xinh đẹp. Chàng liền quay về, rủ một số bạn trai thân tình, mượn những con ngựa thật khoẻ. Họ hùng dũng ra chợ, chàng đi sát bên cô gái, bất ngờ bế thốc cô gái lên ngựa rồi phi nước kiệu. Nếu chàng và nàng đã có tình ý từ trước thì chàng đặt tay trái về phía cô, cô đặt tay trái lên rồi đạp chân trái của mình lên mô bàn chân cứng cáp của chàng, theo đà lên ngựa. Họ sống với nhau từ 2 đến 7 ngày. Sau đó, chàng đưa nàng về nhà vợ hỏi cưới.

Trong khi đó, tục cướp vợ của người Kinh mang tính chất cộng đồng, làng xóm. Cụ thể, một số làng thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội thường tổ chức tục cướp vợ rất đặc biệt (ngày nay không còn). Vào dịp lễ xướng, dân làng chọn một cô gái xinh đẹp, dịu dàng, chăm chỉ và một chàng trai khỏe mạnh, chịu khó. Cô gái ra làng ở, nằm mộng 7 ngày 7 đêm. Chàng trai nấp dưới bụi khoai nước bờ ao. Khi lễ hội được diễn ra, cô gái cất tiếng hát:

Tao có chiếc yếm lưỡi cày Chẳng để cho mày thì để cho ai.

Tiếng hát vừa dứt chàng trai vọt lên bờ vác cô gái chạy đi, theo sau là tiếng hò reo, đuổi, ném đất dẻo, bắn cung bằng thân dâu của dân làng. Nếu chàng đưa cô gái sang bờ bên kia an toàn thì năm ấy dân làng làm ăn thịnh vượng, được mùa, trẻ em mau lớn. Bằng không thì ngược lại. Nhìn chung, tục lệ cướp vợ ở mỗi vùng khác nhau, song tựu chung lại vẫn là phản ánh tâm tư, tình cảm của con người, đồng thời tạo nên nét độc đáo riêng cho nền văn hóa nước nhà.

Bạn biết gì vế tục "kéo vợ " của người H'mông Sapa?

"Kéo vợ" một số nơi còn gọi là cướp vợ tiếng Hmông gọi là "hai pù". "Kéo vợ" đúng như nghĩa đen của nó là kéo một cô gái về nhà làm vợ. Các chàng trai, cô gái Hmông thường gặp gỡ, giao lưu với nhau trong những ngày hội, những ngày chơi tết và đặc biệt là các phiên "chợ tình".Tỏ tình Nêu một chàng trai ưng ý cô gái nào đó chàng trai về nhà xin phép cha mẹ được kéo cô gái ấy về làm vợ, bố mẹ đồng ý thì chàng trai sẽ chọn một thời điểm thích hợp kéo cô gái về nhà mình. Kéo vợ có thể xảy ra ở chợ, trên nương, ngoài đường hoặc xảy ra trong nhà cô gái. Trước khi đi kéo vợ, chàng trai sẽ nhờ thêm bốn, năm người bạn của mình cùng đi giúp. Chàng trai một mình ra nói chuyện với cô gái, trong lúc tâm sự thấy điều kiện thuận lợi thì chàng trai sẽ nắm tay cô và nói: "hôm nay ta kéo mày về làm vợ ta" rồi kéo cô gái đi. Thấy vậy đám bạn của chàng trai cùng những người đi phụ giúp cũng ra giúp đỡ kéo cô gái về nhà. Khi kéo, hai người biết kéo sẽ đến hai bên tỳ vào nách cô gái, để hai cánh tay cô lên vai và nhấc bổng để chân cô không chạm đất lúc này cô gái không thể rằng co đánh trả được (có những trường hợp cô gái chưa biết hoặc không đồng ý thì chống trả quyết liệt và kêu khóc thảm thiết). Cô gái khi bị kéo về nhà chàng trai sẽ được cho ở một buồng riêng - buồng của chàng trai. Nhà trai sắp xếp một cô em gái hoặc một người chị họ, em họ của chàng trai (người này phải chưa lấy chồng) ở cùng cô gái vừa là để trông chừng cô gái không trốn về nhà vừa là để thuyết phục cô đồng ý làm con dâu của gia đình họ. Trong thời gian ba ngày "sống thử" ở nhà chồng cô gái được đối xử như khách, được phục vụ cơm ăn, nước uống đầy đủ, chu đáo. Sáng ngày hôm sau, bố mẹ chàng trai sẽ nhờ ông mối mang thuốc lào và sừng trâu rượu sang bên nhà gái để báo tin và để làm lễ dạm hỏi. Qua ba ngày đó nếu cô dâu cảm thấy chấp thuận được thì cuộc sống làm dâu chính thức bắt đầu diễn ra (đám cưới được gia đình hai bên chuẩn bị đầy đủ qua các nghi lễ: lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt), nếu không coi như đã chấm dứt, các cô lại được tự do tìm hiểu người phù hợp với mình.

Vài nét về văn hóa người H'mông ở Việt Nam

Cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân hơn 80 vạn người- đứng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc và cư trú ở vùng núi cao phía Bắc và phía Tây, người Hmông có nền văn hoá rất phong phú, giàu bản sắc và có truyền thống từ lâu đời.

Dân tộc Hmông sinh sống ở ViệtNamcó khoảng 80 vạn người thuộc nhóm ngôn ngữ: Hmông- Dao. Người Hmông (từ Quí Châu- Vân Nam- Quảng Tây- Trung Quốc) thiên di vào Việt Nam cách ngày nay khoảng 300 năm, bằng nhiều đợt, rải rác suốt thời gian dài cho tới cuối thế kỷ XIX. Người Hmông vào ViệtNamlà do nguyên nhân: trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và đẫm máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có dân tộc Hmông), để giành quyền cai trị đất nước, làm người Hmông phải thiên di đi khắp nơi.

Điểm đầu tiên, họ đặt chân đến là Mèo Vạc trên cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), nơi địa đầu Tổ quốc ViệtNam. Vì thế, người Hmông sinh sống ở ViệtNamđều coi cao nguyên Đồng Văn là quê hương đất tổ của mình. Người Hmông phân chia thành 4 nhóm: Hmông Hoa (Hmông Lềnh), Hmông Đen (Hmông Dú), Hmông Xanh (Hmông Chúa), Hmông Trắng (Hmông Đu). Tuy có 4 nhóm Hmông khác nhau, nhưng về ngôn ngữ và văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác nhau giữa các nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.

Dân tộc Hmông phân bố khắp trên các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An và số ít ở Phú Thọ. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), một bộ phận Người Hmông di cư vào sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên. Người Hmông ở Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ về nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hoá với cộng đồng người Mẹo ở Lào, người Mông ở Thái Lan, người Miêu ở Trung Quốc và Myanma.

Tuy cư trú ở độ cao từ 700m đến 1.500m, rải rác khắp nơi trên miền núi phía Bắc Việt Nam và trên Tây Nguyên, nhưng tộc người Hmông vẫn duy trì được bản sắc văn hoá độc đáo của mình trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam.

Người Hmông ăn một ngày hai lần, vào những ngày mùa ăn ba lần; ăn bột ngô đồ là chính, ăn cơm là phụ. Thức ăn có rau đậu xào mỡ và canh. Trong dịp lễ tết, hay nhà có khách thường được thiết đãi bằng thịt gà, rượu. Họ hút thuốc lào bằng điếu cày là phổ biến. Nếu chủ nhà tự tay nạp thuốc vào điếu mời khách hút, được coi là cử chỉ quí mến khách. Trong năm, người Hmông ăn hai tết lớn: tết năm mới vào đầu tháng 12 âm lịch (lịch mỗi tháng có 30 ngày, hết 12 tháng là tết), tết ngày 5 tháng 5- tết Đoan ngọ. Ở Việt Bắc, người Hmông còn ăn tết vào ngày 13 tháng 3 và ngày 13 tháng 6 hàng năm. Ở Lào Cai, Yên Bái người Hmông ăn tết ngày 7 tháng 7 (tết đốt vàng mã cho tổ tiên). Tết Đoan ngọ (ngày 5 tháng 5) mới là ngày quan trọng nhất, ngày sum họp đại gia đình và gặp gỡ người cùng giao trong bữa tiệc cỗ rượu linh đình.

altCác vùng người Hmông sinh sống thường có chợ phiên. Chợ phiên qui định họp 6 ngày một lần (có nơi 5 ngày một phiên). Quan hệ trao đổi hàng hoá trên cơ sở vật đổi lấy vật, dùng tiền tệ trao đổi rất ít. Chợ phiên vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi gặp gỡ các tầng lớp trong xã hội. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần (chợ tìnhSaPa) là một nét văn hoá đẹp đặc sắc của người Hmông.

Trang phục cổ truyền của người phụ nữ Hmông gồm: váy, áo xẻ ngực, yếm lưng, có tấm vải che phía trước và vuông vải nhỏ che lưng phía sau, thắt lưng, khăn quấn đầu, chân vấn xà cạp. Váy hình nón cụt, xếp nhiều nếp xoè rộng. Phụ nữ Hmông trắng mang trang phục váy trắng, áo xẻ ngực có thêu hoa văn ở cánh tay và yếm lưng. Phụ nữ Hmông trắng cạo tóc xung quanh và để chỏm lớn ở đỉnh đầu, quấn khăn vành rộng. Phụ nữ Hmông Hoa mang trang phục váy màu chàm, có thêu hoa ở gấu váy. Mặc áo xẻ nách, trên vai và ngực có cạp thêm vải màu, thêu hình hoa văn con ốc. Phụ nữ Hmông Hoa để tóc dài quấn quanh đầu, sau đó còn quấn thêm tóc giả. Phụ nữ Hmông Đen mang trang phục váy màu chàm, có in hoa văn ở gấu, ngắn hơn váy Hmông Hoa, mặc áo xẻ giữa ngực, thêu hoa văn ở cánh tay và hò áo. Phụ nữ Hmông Xanh mang trang phục váy hình ống màu chàm, gấu váy thêu hoa văn hình chữ thập trong hình các ô vuông, áo mở chếch ngực xẻ thẳng về bên trái, cài một cúc, cánh tay áo đắp thêm những miếng vải màu đỏ và cổ tay áo có thêu hoa văn. Người Hmông Xanh, con gái để tóc xoã ngang vai, khi lấy chồng mới quấn tóc lên đỉnh đầu và dùng lược móng ngựa cặp ngược tóc về phía trước, trùm khăn trên đầu.

Ngày nay, trang phục phụ nữ Hmông có những thay đổi: phụ nữ Hmông Sa Pa mặc quần ống ngắn và hẹp, áo khoác ngoài kép xẻ ngực cổ cứng thiêu hoa văn. Phụ nữ Hmông Trắng Sơn La mặc quần ống dài, mặc áo cánh trắng bên trong, măc áo cổ truyền bên ngoài. Phụ nữ Hmông Hoa mặc áo hở nách.

Namgiới mặc áo xẻ nách và xẻ ngực, thường có 4 túi, cài 4 khuy. Quần ống bó cắt kiểu chân què.Namgiới Hmông Sa Pa mặc áo khoác ngoài kép, xẻ ngực không có tay, cổ đứng thiêu hoa văn.

Người Hmông có những đồ trang sức: khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, nhẫn đồng, nhẫn bạc, nhẫn vàng. Nếu trên tay có 2 nhẫn là người đó đã có vợ hoặc có chồng. Phụ nữ thích dùng chiếc ô màu sắc đẹp, vừa có tác dụng che mưa, che nắng và làm vật trang sức cho mình, tạo nên nét duyên dáng.

Người Hmông có một đời sống tinh thần đa dạng và phong phú về phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng và chữ viết, tiếng nói, văn hoá nghệ thuật.

Nhà ở của người Hmông được xây dựng tương đối thống nhất. Nhà được xây dựng trên nền đất, gồm 3 gian 2 chái. Gian giữa đặt bàn thờ, hai bên bố trí bếp và buồng ngủ. Buồng ngủ không được bố trí ngang hàng với bàn thờ. Nhà giàu có được xây dựng kiên cố, cột gỗ kê trên đá tảng đẽo hình đèn lồng hay như quả bí, mái lợp ngói, gác lát ván. Nhà của người nghèo xây dựng đơn giản, cột ngoảm, vách nứa hay ván bổ, mái tranh. Nhà được mở từ 2 đến 3 cửa, cửa chính đối diện với bàn thờ. Các chuồng trại chăn nuôi làm tách riêng ra một khu vực.

Hôn nhân của người Hmông thông qua mua bán và có phần tin vào tín ngưỡng. Trong lễ ăn hỏi, người Hmông tin rằng đôi trai gái có hợp nhau hay không là do lễ cúng "xem chân gà". Người con gái được định giá thông qua giá trị vật chất thịt, rượu, bạc trắng, thuốc phiện. Mỗi đám cưới thường nhà gái yêu cầu từ 60 đến 120 đồng bạc trắng, từ 60kg đến 120kg thịt lợn, từ 60kg đến 120kg rượu và một số thuốc phiện. Giá trị vật chất nhà gái yêu cầu càng nhiều đối với nhà trai thì người con gái đó càng hoàn hảo về tài sắc. Trong quan hệ hôn nhân con dì, con già, con cô, con cậu được phép lấy nhau. Điều đặc biệt là con trai cậu được phép lấy con gái cô, đó là một điều tốt đẹp trong gia đình (nước tốt không để chảy vào ruộng người) và (vì tôi đã để vật quí ở đây thì phải lấy lại nó). Người Hmông có phong tục em chồng được phép lấy chị dâu (nếu anh trai bị chết), ngược lại chị dâu có quyền lấy em chồng là để giữ gìn tài sản và có trách nhiệm nuôi dưỡng các cháu của anh trai. Nếu em chồng đã có vợ thì chị dâu chỉ được làm vợ lẽ. Trong trường hợp gia đình không có em chồng thì chị dâu được phép lấy em họ. Tục cướp vợ rất phổ biến: một nhóm thanh niên từ 3 đến 5 người, tổ chức họp nhau đón đường bắt cóc người con gái mang về nhà mình (dù người con gái đó có bằng lòng hay không bằng lòng). Trong thời điểm người con gái bị cướp mọi người trong họ hàng, gia đình, anh em không được phép tham gia giải cứu. Sau hai hôm cướp vợ, nhà trai cử người sang nộp phạt tiền danh dự cướp vợ và báo cho gia đình nhà gái biết sự việc. Sau đó, hai bên gia đình bàn bạc, ấn định ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ thành hôn cho đôi trai gái. Trong quan hệ hôn nhân giữa những người trong cùng một dòng họ bị cấm triệt để, không được phép lấy nhau. Những người không phải là anh em nhưng cùng mang tên dòng họ, hôn nhân diễn ra cũng rất dè dặt. Người Hmông tin rằng quan hệ hôn nhân với dòng họ khác thì làm ăn mới phát đạt, nòi giống mới phát triển tốt.

Trước kia, ma chay của người Hmông thường được tổ chức kéo dài từ 5 đến 7 ngày, ngày nay giảm xuống còn từ 2 đến 3 ngày. Khi gia đình có người chết, họ đi mời người (thầy mo) đến làm thủ tục cúng hát mở đường, sau đó mới tiến hành khâm liệm (áo ngoài bằng lanh thì mới được đoàn tụ với tổ tiên). Cách hành xử mỗi nơi mỗi khác: có nơi để người chết trên "cáng" treo trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt ngang cửa ra vào. Có nơi người chết được đặt vào quan tài nhưng không đậy nắp để dễ dàng xem mặt người chết. Trong lúc hát mở đường đến đoạn sự tích gà dẫn đường cho người chết về với tổ tiên, người ta mang một con gà đã chết để nguyên lông đặt trong âu bột ngô để phía dưới người chết. Trong đám ma người Hmông dùng khèn và trống để thực hiện nghi lễ tiễn đưa người chết về với tổ tiên được êm đẹp. Sau khi chôn cất xong, nếu là nam giới, người ta cắm 9 cành lá, nữ giới cắm 7 cành để đánh lạc hồn người chết không quay về làm hại những người thân trong gia đình. Lễ cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên sau khi chôn cất hoặc kéo dài một hay vài năm.

Thờ cúng tổ tiên, đó là thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã chết. Người ta tin rằng tổ tiên đã chết, che chở cho con cháu đang sống làm những nghi lễ cầu xin cho các thành viên thị tộc hay gia đình và tiến hành những nghi thức nhằm thờ phụng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên thường đặt ở vị trí gian giữa, nhiều dòng họ Hmông không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy hình chữ nhật kích thước 20- 30cm. Nơi đặt bàn thờ là linh thiêng, chỉ có chủ gia đình mới được làm chủ lễ cúng mời tổ tiên, chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ. Người Hmông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cần cúng chữa bệnh… đối với hồn cụ, ông, cha ở thế giới bên kia.

Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người Hmông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng biệt: "Xử Cả" là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà người Hmông, gắn liền với sự giàu có, nhất là tiền bạc. Nơi thờ "Xử Cả" ở tấm ván hậu gian giữa nhà. Chỗ thờ được dán hai miếng giấy bản màu vàng và bạc cắm 3 hoặc 9 lông gà, bôi ít máu gà. Mỗi năm cúng xử cả một lần vào đêm 30 tết, đồ cúng là một con gà trống màu đỏ.

"Bùa Đáng" (ma lợn) được thờ ở cột chính trong nhà, cột tượng trưng cho sự hưng thịnh và vận mệnh của gia đình. Ma lợn chỉ có chủ gia đình mới được cúng, vật cúng là lợn nái đã đẻ một lứa. Trong đời một người con trai phải làm lễ cúng cột chính 1 hoặc 2 lần, nhằm tưởng nhớ và làm tròn đạo hiếu giữa người còn sống đối với người đã chết. Cúng ma cột chính, theo quan niệm của người Hmông còn nhằm tạ ơn những người xưa kia đã giúp người Hmông qua hoạn nạn, để tìm chữ viết đã mất.

"Xìa Mình"(ma cửa), có nhiệm vụ ngăn ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn, ngăn không cho hồn các thành viên gia đình bỏ đi. Theo quan niệm của đồng bào, ma cửa thường ngự ở miếng vải đỏ dán trước cửa chính. Ma cửa thường được cúng vào dịp tết, khi có người ốm đau hoặc mất tài sản. Lễ vật cúng là con gà trống, khi có điềm xấu chủ nhà phải cúng ma cửa bằng lợn- gọi là lễ cúng lớn.

"Hú Sinh" (ma bếp) có liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Do đó kiêng giẫm chân lên bếp lò, kiêng làm hư hại lòng lò bằng đất, không được gõ và đánh vào bếp cám lợn, lúc lợn chửa kiêng không lấy tro trong bếp lò. Muốn nhấc chảo cám ra phải để một hòn đá vào giữa bếp, nếu không làm như vậy, gia súc dễ bị dịch bệnh chết, phụ nữ khó đẻ hoặc đẻ ra quái thai, dị hình.

"Nhìu Đáng" (ma trâu), trong đời người con trai phải cúng báo hiếu bố mẹ, một lần. Vật cúng là trâu to, lớn, khoẻ mạnh. Lễ cúng tuỳ từng gia đình, dòng họ qui định, cúng ở trong nhà hay ở vị trí nào đó ngoài trời. Người cúng phải hiểu lai lịch dòng họ.

Như vậy, thờ cúng tổ tiên ở người Hmông đã được hình thành, quan niệm tổ tiên đã mở rộng đến ba đời- quan niệm này gần gũi với tâm thức thờ cúng tổ tiên của người Tày, người Dao, người Kinh.

Người Hmông thờ cúng thần cộng đồng "Giao" (thần thổ địa). Thần thổ địa được thờ ở một gốc cây to, hoặc hòn đá lớn trong một khu rừng cấm. Đồng bào quan niệm thần của "Giao" chi phối cuộc sống của cộng đồng "Giao". Người dân trong "Giao" khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, gia súc nhiều, dân số tăng là nhờ thần phù hộ. Hàng năm vào ngày Thìn của tháng hai (hoặc ngày mồng 2 tháng 2) đại diện các gia đình các gia đình trong "Giao" đến khu rừng cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng thần, lễ vật cúng là gà, hoặc lợn và rượu. Người đứng đầu "Giao" trịnh trọng cầu khấn thần linh phù hộ. Nội dung bài cúng thần tỏ rõ lòng tôn kính nhưng vẫn thân mật và bình đẳng với thần. Quan hệ người dân với thần như trong cộng đồng "Giao" bình đẳng, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau. Ở đây thần cũng bình đẳng như một thành viên của cộng đồng. Thần chưa có sức mạnh siêu phàm tuyệt đối, chưa đứng trên cộng đồng. Do đó, cộng đồng dâng lễ vật cho thần thì thần phải có nghĩa vụ phù hộ, bảo vệ cộng đồng "Giao".

Ngoài ra, người Hmông còn có những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng khác như: hồn xác con người (người có ba hồn ở đỉnh đầu, ngực và rốn), một số kiêng cữ không ăn vật tổ, ma thuật (ma ngũ hải), kiêng kị trong sinh đẻ, trong cưới xin, nghi thức tang ma, lễ Nào xồng, lễ hội Gầu Tào, lễ cầu tự và còn rất nhiều hình thức sinh hoạt tín ngưỡng mang tính chất huyền bí khác.

Ngoài những yếu tố tinh thần truyền thống, người Hmông còn tiếp thu yếu tố văn hoá mới Kitô giáo (đạo Thiên Chúa và đạo Tin Lành). Từ năm 1888, thực dân Pháp chiếm đóngSaPađã có ý định xây dựng các cơ sở truyền giáo. Nhưng mãi tới năm 1921, mới có 5 gia đình Hmông theo đạo và đến những năm 40 của thế kỷ XX, chỉ có 33 hộ gia đình người Hmông ở 11 làng theo đạo. Người Hmông ởSaPatheo đạo không chỉ do yêu cầu tín ngưỡng khao khát một niềm tin mà chủ yếu là do sự thúc đẩy của tâm lí thực dụng. Họ cần đi theo chúa không chỉ vì hạnh phúc trên thiên đàng mà vì những vấn đề thiết thân trong cuộc sống đang đặt ra (được cấp ruộng nương, có chỗ dựa mới, bỏ lễ cúng ma đầy tốn kém… Người Hmông coi tôn giáo chỉ là phương tiện nhằm giải quyết những nhu cầu bức xúc của đời sống chứ không quan tâm nhiều về triết lí, về hạnh phúc hư ảo ở thế giới bên kia.

Như vậy, đời sống sinh hoạt tinh thần của người Hmông đã được pha trộn giữa đạo lí Gia tô vào đạo lí người Hmông, như một yếu tố văn hoá mới gá lắp vào đời sống sinh hoạt tinh thần của họ.

Người Hmông có nhiều dòng họ: Giàng, Thào, Lù, Vù, Sùng, Mã, Lùng, Hầu, Ly, Vàng, Tẩu, Tráng, Hản, Thèn, Cù. Tên của các dòng họ được đặt theo tên con vật, màu sắc, cây cối, đồ vật và một số họ có tính chất chung chung không xác định được nội hàm tên gọi. Các họ lấy tên con vật; Sùng (gấu), Hầu (khỉ, Lồ (lừa), Má (ngựa), Giàng (dê), Lùng (rồng); họ lấy tên màu sắc; Hoàng (màu vàng), Lù (màu xanh), Hùng (màu đỏ); họ lấy tên cây: Thào (đào), Lý (mận); họ lấy tên đồ vật: Cư (trống), Thèn (thùng) và một số không xác định được tên họ: Mùa, Châu, Phàng, Tẩn, Tráng, Vàng, Lầu, Vừ… Mỗi họ có những điều kiêng kị và những lễ nghi cúng bái riêng biệt: họ Giàng kiêng ăn quả tim con vật, họ Hờ kiêng ăn thịt khỉ, họ Lý kiêng ăn lá lách con vật, con dâu dòng họ Lầu kiêng quét dọn bếp. Sự khác nhau giữa các dòng họ trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, ma chay, cúng ma… là ở số lượng bát cúng, cách bày bát, địa điểm cúng, bài cúng, cách thức ăn uống và chia thịt; họ Sùng bày 13 bát và chia thịt từ trái sang phải, họ Giàng bày 33 bát theo đường vòng tròn từ phải qua trái, họ Má bày 19 bát theo đường thẳng. Những người trong cùng một họ là cùng tổ tiên sinh ra phải có nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống như ma chay, cưới xin, làm nhà mới, ốm đau bệnh tật, sinh đẻ, theo đuổi các vụ kiện cáo. Cho dù ở xa cách nhau bao nhiêu những người cùng họ có thể sinh đẻ và chết trong nhà của nhau mà không sợ tổ tiên trách cứ. Đứng đầu mỗi dòng họ là trưởng tộc, người có đạo đức, uy tín và am hiểu sâu sắc phong tục tập quán của dòng họ, giàu kinh nghiệm tổ chức sản xuất, gánh vác hướng dẫn các gia đình khi có ma chay, cưới xin, giải quyết mâu thuẫn xích mích giữa các thành viên. Người trưởng tộc là người đại diện cho dòng họ giao thiệp với chính quyền và các dòng họ khác, đồng thời còn là người tổ chức các vụ kiện, đi đòi nợ máu xưa kia. Có người tộc trưởng do các thành viên dòng họ bầu ra nhưng cũng có nơi lại do người tộc trưởng cũ tìm chọn và bồi dưỡng. Như vậy, đặc trưng dòng họ người Hmông là sự thống nhất về tư tưởng, thông qua tín ngưỡng với những điều kiêng kị lễ nghi riêng của dòng họ, đã tạo nên sự cố kết lâu bền trong quan hệ giữa các thành viên, còn về mặt xã hội và nhất là kinh tế càng trở nên mờ nhạt.

Tổ chức gia đình của người Hmông là gia đình nhỏ phụ hệ (gồm hai thế hệ bố mẹ và con cái sống với nhau). Đứng đầu gia đình là người đàn ông, người đó có nghĩa vụ gánh vác công việc gia đình: đi làm nương rẫy, khấn tổ tiên, đón thầy cúng, thay mặt gia đình tham gia công việc Giao, mà bất cứ phụ nữ nào cũng không có quyền làm thay, làm hộ. Trong gia đình người Hmông người ta quí trọng con trai hơn con gái, vì thế gia đình nào có nhiều con trai là niềm kiêu hãnh trong thôn xóm, bản làng. Nếu trong gia đình có mối bất hoà giữa vợ và chồng, thì con dâu chỉ được lánh nạn sang hàng xóm, không được phép trở về nhà bố mẹ đẻ. Nếu con dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ phải xin phép nhà chồng và được chồng đưa về tận nhà mới hợp lệ. Khi vợ chồng li dị, người đàn bà không được trở về sống với bố mẹ đẻ mà đến ở nhờ nhà chức dịch cho tới khi tái giá. Người đàn bà goá không muốn lấy em chồng mà lại lấy người khác thì toàn bộ tài sản phải để lại nhà chồng. Trong gia đình, người con gái tự cho mình là người khách, tự do đi lại và ăn uống không phải kiêng khem như con dâu trong nhà. Phân chia tài sản, con trai được chia đều nhau, bố mẹ giữ một phần tài sản bằng các con trai, con gái đi lấy chồng được bố mẹ đẻ chia cho của hồi môn. Nhìn chung, cuộc sống gia đình người Hmông tương đối hoà thuận, vợ chồng gắn bó với nhau như hình với bóng, khi đi chợ cũng như đi làm nương rẫy và thăm thân họ hàng bên nội, ngoại, chồng đi trước vợ đi sau. Trong mối quan hệ gia đình, ông cậu và bà cô có vai trò vô cùng quan trọng.

Ngoài ra, người Hmông còn có một nền văn hoá nghệ thuật phong phú, truyện cổ dân ca chiếm một vị trí quan trọng, gồm nhiều loại (cúng ma, tình yêu, cưới xin, làm dâu, mồ côi…). Các loại nhạc cụ như khèn, kèn lá, đàn môi và các loại hình hoa văn trang trí trên trang phục phụ nữ là những tác phẩm nghệ thuật dân gian đẹp, cái đẹp tươi sáng tự nhiên của vùng cao.

Dân tộc Hmông sinh sống rải rác khắp mọi nơi trên miền núi rừng phía Bắc ViệtNamvà Tây Nguyên, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá độc đáo của họ. Văn hoá Hmông là một thành tố văn hoá ViệtNam, bản sắc văn hoá độc đáo của họ đã đóng góp và làm phong phú cho niền văn hoá ViệtNam"thống nhất trong đa dạng, đa dang trong thống nhất". Tìm hiểu văn hoá Hmông là góp phần nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng để góp phần làm tốt công tác vận động quần chúng người Hmông tham gia vào sự nghiệp bảo vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.

Phong tục cưới hỏi của người ChămPhong tục cưới hỏi của người Hoa Phong tục cưới hỏi của người TháiPhong tục cưới hỏi của người Thái trắng Điện BiênPhong tục cưới cổ truyền của người ViệtPhong tục tập quán ba miền Bắc Trung Nam trong cưới xin (st)

Từ khóa » đám Cưới Người Dân Tộc H'mông