Phụ Nữ Trong Kinh Thánh
Có thể bạn quan tâm
M.A. Nguyễn thị Sang, CND
Lớp Liên Dòng nữ TPHCM 1997
(có sửa chữa 2012)
Đôi lời giới thiệu của người soạnĐầu năm 1996, chị nữ tu phụ trách Lớp Liên Dòng Nữ đề nghị tôi nói chuyện với các học viên về những người phụ nữ được Kinh Thánh nhắc tới. Tôi thấy cũng hay hay, vì cho tới thời điểm ấy, học Kinh Thánh vẫn là học hỏi và nghiên cứu các sách trong Kinh Thánh, theo trình tự đã được sắp xếp (Cựu Ước, Tân Ước…), hay theo các thể văn (lịch sử, ngôn sứ, tin mừng…) hoặc các tác giả (Ê-dê-ki-ên, Lu-ca…), v.v…
Nhưng đây là lần đầu tiên, trong môn học Kinh Thánh tại Việt Nam, một đối tượng mới được quan tâm cách riêng : phụ nữ. Mà tôi cũng là phụ nữ, nên lẩn tránh thì cảm thấy hơi uổng. Nữ với nữ có dịp bàn luận với nhau về những điểm trong Kinh Thánh liên quan đến phái của mình, thì chắc sẽ khám phá vài điều mới mẻ. Ít nhất sẽ giúp bồi dưỡng tâm thức của riêng mình.
Tuy nhiên, việc bàn luận đây không phải như một “mạn đàm” tùy hứng, những chia sẻ dài dòng bất tận giữa chị em phụ nữ với nhau. Phải nghiêm túc dựa vào một khuôn khổ nghiên cứu nào đó, một hệ thống xã hội tâm lý học thích đáng, để tìm hiểu những con người hẳn phải có sứ mạng, ý nghĩa trong lịch sử cứu độ, mà Kinh Thánh đã ghi lại.
Trong việc soạn thảo giáo án này cho Liên Dòng Nữ những năm 1997-2000, tôi đã được hai nhà Kinh Thánh nữ soi sáng rất nhiều, là A.M. PELLETIER và chị nữ tu cùng Dòng với tôi là J. DINES. Xin chân thành cám ơn hai vị, cũng như các vị khác được nêu tên trong thư mục.
THƯ MỤC
| 1. How to read the Bible as women Đọc Kinh Thánh với tư cách là phụ nữ : như thế nào ? (Tài liệu chủ đạo cho phần đầu, I và II của bài viết này) | Jennifer Dines, CND Liên tu sĩ Anh Quốc 1996 (Tài liệu lưu hành nội bộ) |
| 2. Institutions de l’Ancien Testament (famille - femmes - veuves - enfants - succession - héritage) Cơ cấu (Ít-ra-en) thời Cựu Ước | R. de Vaux, OP Paris 1960 |
| 3. La promotion de la femme dans la Bible Bước thăng tiến của phụ nữ trong Kinh Thánh | Th. Maertens Edition Casterman 1967 |
| 4. Dictionnaire encyclopédique de la Bible / Femme Từ điển bách khoa môn Kinh Thánh / Phụ nữ | Brépols 1987 |
| 5. Les femmes dans l’Ecriture Phụ nữ trong Kinh Thánh | A. Jaubert Vie chrétienne, Ed. du Cerf 1992 |
| 6. La femme et la vie consacrée Người nữ và cuộc đời thánh hiến (Tài liệu chủ đạo cho phần IV.B) | J. Laplace, SJ Chemins de la foi Ed. du Châlet 1964 |
| 7. Le Cantique des cantiques Sách Diễm Ca (Tài liệu chủ đạo cho phần III) | A.M. Pelletier trong Cahiers Evangile, số 85 Ed. du Cerf 1993 |
Nhập đề
I. Chiến lược đọc Kinh Thánh với đề tài “phụ nữ”
II. Các mô hình gốc và phụ nữ trong Kinh Thánh
1. Người nữ làm mẹ
2. Người nữ giao tế
3. Người nữ tự lập
4. Người nữ trung gian
III. Một gương mặt độc đáo trong Cựu Ước :
“Nàng” của sách Diễm Ca
IV. Định hướng cho thời đại chúng ta
Kết luận
NHẬP ĐỀLời Kinh Thánh phản ảnh một cái nhìn nào đó trên sự vật, trên thế giới, xã hội, phụ nữ : cái nhìn đó là của nam giới. Đây là kết quả tất nhiên của một hệ thống trong đó đàn ông cầm quyền và qui định các cơ cấu, các giá trị. Dĩ nhiên có nhiều gương mặt phụ nữ trong Kinh Thánh có giá trị, có vai trò quan trọng, nhưng đó là những phụ nữ được miêu tả dưới ngòi bút của đàn ông, với những nét mà đàn ông đã nhận ra.
Một số đông phụ nữ lại không được nhắc tên bao giờ, cả khi được nói đến, mà chỉ được gọi là “vợ ông At, mẹ ông Giáp”. Có người phụ nữ nào mà chúng ta được biết tiểu sử, từ lúc chào đời đến lúc qua đời đâu.
Vậy Kinh Thánh, ngay cả trong Tân Ước, phản chiếu những quyền lợi và phán đoán của nam giới : Kinh Thánh có tính cách « quy nam », khuynh nam. Và vì cả xã hội Ít-ra-en cũng như nền phụng tự Do-thái đều là do nam giới điều khiển, nên xã hội đó nặng tính phụ hệ. Câu hỏi chúng ta có quyền đặt ra là : khi đọc những bài trình thuật về phụ nữ trong Kinh Thánh, chúng ta có gặp được cái nhìn của Thiên Chúa Hằng Sống hay không ?
Chúng ta sẽ đọc những dòng “sử “ cổ xưa, nhưng phải đọc với tâm trạng và hiểu biết của người phụ nữ hiện đại, và nếu đó thật là lời Chúa, thì chúng ta cũng phải tin được rằng lời đó sẽ chấp nhận chúng ta với những tìm kiếm, với cái nhìn của thời đại chúng ta đang sống và những nét phức tạp của nó.
Với cái nhìn thời đại, chúng ta sẽ theo một hướng đọc Kinh Thánh mang tính tâm lý học, để nhận ra những nét đặc trưng của phụ nữ trong Kinh Thánh.
I. CHIẾN LƯỢC ĐỌC KINH THÁNH VỚI ĐỀ TÀI “PHỤ NỮ”
A/ Câu hỏi căn bản : khi tôi đọc những trang sử về các phụ nữ trong Kinh Thánh, có phải tất cả đều là “tin mừng” cho tôi không ?
B/ Hiểu biết căn bản : làm sao phân biệt tin vui và tin buồn ? Tốt và xấu ? Dựa vào tiêu chuẩn nào ? Cuối cùng, đây là vấn đề giá trị và ý nghĩa của lời, của chữ viết trong Kinh Thánh. Ví dụ :
St 1,27}{ Gl 3,28
2,21 tt }có giá trị ngang nhau không ?Cũng như{1 Tm 2,11 tt
3,16 }{1 Cr 14,33-35
Nếu chúng ta cho rằng tất cả các câu ấy, vì là lời Kinh Thánh cả, đều có giá trị ngang nhau, chúng ta sẽ chóng ngã bệnh tâm thần mất (“tâm thần phân liệt”), vì những câu ấy loại trừ nhau. Vậy phải làm sao ? Hoặc là ta gắng sức “dâng cho Chúa” hết, chỉ hiểu theo nghĩa thiêng liêng siêu thoát, bẻ cong ý nghĩa hiển nhiên của câu văn ; hoặc là ta gạt qua một bên các câu hóc búa, để rồi khi có người đề cập đến, nó nổ tung lên như người ta đạp phải mìn. Đây là một vấn đề khó nuốt, nhưng xin đưa ra vài hướng nhìn có tính cách cá nhân như sau.
C/ Những hướng nhìn :
1) Là Ki-tô hữu, tôi sẽ dùng một chìa khoá đặc biệt để đọc, đó là Tin Mừng ; có nghĩa là tôi sẽ cố gắng đánh giá mọi sự “với những tâm tình của chính Đức Ki-tô” (Pl 2,5).
2) Cũng vì là Ki-tô hữu, tôi sẽ đọc để đạt tới một hiểu biết có chiều kích lịch sử : coi như Kinh Thánh thuật lại cho tôi quá khứ tập thể của chúng ta, trong đó vàng thau lẫn lộn, có cái tốt cũng như cái xấu. Đó không phải là một câu chuyện chết cứng, nhưng nó hàm chứa những tiềm năng cho phép hình thành một tương lai cho tập thể.
3) Tôi sẽ đọc với một số xác tín về nhân loại học và thần học. Đọc không chỉ dựa vào lời Kinh Thánh, mà còn dựa vào truyền thống Giáo Hội -đã tiến đến công đồng Vatican II, cung cấp cho tôi một hướng chú giải, suy tư-, và dựa trên Dân Chúa đang sống và hiểu Kinh Thánh. Cuối cùng tôi cũng dựa vào lương tâm của chính mình, nhờ đó tôi biết chắc có nhiều điểm không thể nhân nhượng được. Ví dụ :
a/ Với tư cách là phụ nữ, tôi cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa như người nam, và cũng là thành phần cấu tạo A-đam. Vậy về mặt thần học, tôi bình đẳng với người nam vì cũng là con cái Thiên Chúa ; về mặt nhân chủng học, đàn bà cũng có giá trị ngang hàng với đàn ông. Do đó, chìa khoá của tôi là câu St 1,27 : những câu văn nào đặt người đàn bà ở thứ cấp phải được đánh giá trong ánh sáng của St 1,27, chứ không thể ngược lại. Các câu St 2,3 hay 1 Tm 2,12 tt, và nhất là St 3,16, phải được nghiên cứu lại để hiểu cho đúng.
b/ Với tư cách là phụ nữ, tôi đã lãnh nhận cùng”một phép rửa duy nhất” với nam giới : như họ, tôi được bước vào đời sống mới trong Thiên Chúa, và như họ, tôi được ở “trong Đức Ki-tô”. Vậy tôi sẽ chọn làm nền tảng những câu như Gl 3,28 : “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh chị em chỉ là một trong Đức Ki-tô”, hay Lc 10,42 :“Ma-ri-a -với tư cách là môn đệ- đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy mất”. Những đoạn văn đi ngược lại những nguyên lý này sẽ được hiểu trong bối cảnh văn chương của nó.
c/ Với tư cách là một phụ nữ đã được thanh tẩy, tôi đã lãnh nhận tất cả các lời hứa của Nước Trời với tất cả các đòi hỏi của nó, y như nam giới. Tôi trông đợi được Thiên Chúa giải phóng để có thể ra tay giải phóng tha nhân ; tôi trông đợi Kinh Thánh trợ giúp tôi trong công việc mà ơn gọi của Hội Dòng đã giao cho tôi hoàn thành. Nếu có những bản văn hay những thái độ được ghi chép trong Kinh Thánh đi ngược lại với việc này, tôi sẽđặt nó lại trong bối cảnh văn chương đương thời của nĩ.
Tôi sẽ đến với lời Chúa với những xác tín đó, với tư cách là một con người. Lời Kinh Thánh như có một nhân cách tuyệt diệu để nói về Thiên Chúa, và giúp tôi mở rộng tâm hồn đến với Người. Nhưng cũng giống như một con người, Kinh Thánh có những điểm mà tôi phải mở mắt nhìn cho kỹ, nhìn với con mắt một người phụ nữ.
D/ Đọc Kinh Thánh với con mắt nào ?
1) Với con mắt tò mò, muốn xem coi có gì đang xảy ra, và tự đặt những câu hỏi như sau :
- bản văn này được viết nhằm có lợi cho ai ?
- ai nói ?
- nói với ai ?
- ai hành động ?
- ai nắm quyền ?
- ai quyết định ? vv...
Những câu hỏi này phải được chiếu cố khi đọc bất cứ bản văn nào, nhất là khi đọc các bài trình thuật. Đặc biệt khi nói về người nữ, phải có thêm những câu hỏi như :
- người đàn bà này được mô tả với tư cách là cá nhân, hay với một vai trò nào đó ?
Hay đó chỉ là một biếm hoạ ? Hay theo một khuôn mẫu đã có sẵn ?
- có biến mất khỏi lịch sử không ?
- có được nêu tên không ?
- có được lý tưởng hoá không ? Tại sao ? Do ai ?
- có bị lừa không ? Bị lợi dụng ?
- sự sống có được coi trọng không ?
- chúng ta học được gì với bản văn này ?
Rất nhanh, chúng ta bắt đầu nhận thấy những khiếm khuyết, nghe ngóng những khoảng không lời. Và con mắt tò mò của chúng ta trở thành đa nghi, dè chừng, không hoàn toàn thoả mãn với những gì đọc được ở mặt chữ. Điều này là cần thiết. Chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta. Chúng ta không phán đoán, nhưng lượng giá, và khi đã ý thức một lệch lạc nào đó thì mới có lý do và cơ hội để chỉnh lại những gì phải chỉnh. Đó là điều tốt cho mọi người, đàn ông cũng như đàn bà.
2) Có lúc chúng ta phải rơi lệ khi gặp thấy những nạn nhân vô tội, như con gái ông Gíp-tắc (Tl 11) -cô gái không tên-, hoặc cô Mi-khan, người vợ đầu tiên của Đa-vít (1 Sm 18,20), vì thời cuộc phải chia ly với chồng (1 Sm 25,44), và cuối cùng bị tác giả lên án gắt gao (2 Sm 6,23). Nhưng chúng ta không chỉ khóc cho đàn bà, mà còn cho bất cứ ai là nạn nhân, chẳng hạn như người chồng sau của bà Mi-khan bị vua Đa-vít đòi lại vợ (2 Sm 3,12-16).
3) Đôi khi chúng ta còn quắc mắt lên giận dữ. Ví dụ khi đọc Ds 12, thấy bà Mi-ri-am bị trừng phạt, hoặc đọc Tl 19, câu chuyện cô tỳ thiếp của người Lê-vi (một trong số các truyện có người gọi là “những bản văn kinh hoàng”).
Chúng ta sẽ làm gì với những bản văn như thế ? Chỉ đơn giản loại bỏ nó ra khỏi danh mục những sách chúng ta đọc (như trong phụng vụ, các Giờ Kinh loại bỏ những câu và những thánh vịnh quá “khó nghe”) ? Hay là, bởi vì toàn bộ Kinh Thánh toát ra một văn phong “yếm nữ” như thế, nên chúng ta loại bỏ cả bộ Kinh Thánh, là nơi chúng ta được gặp Thiên Chúa ? Có một số phụ nữ đã muốn làm như vậy. Ít ra có thể gạt bỏ CƯ và chỉ giữ lại TƯ thôi hay không ? Thật ra, không thể có TƯ nếu không có CƯ : TƯ trích dẫn CƯ, nhìn nhận đó đích thực là lời Chúa, sử dụng CƯ để triển khai các lý thuyết và tín điều, để lý giải cái nhìn và thái độ được chủ trương, ngay cả cái nhìn và thái độ đối với phụ nữ. Hoặc là loại bỏ hết, hoặc là giữ lại hết.
Dĩ nhiên là phải giữ lại hết : Kinh Thánh là một yếu tố quan trọng của quá khứ tập thể chúng ta. Kinh Thánh như là cuốn an-bum gia đình : chúng ta gìn giữ nó như một kho tàng, mặc dù trong số các cô dì cậu mợ chú bác, anh chị em họ hàng bà con, không phải ai cũng đều đẹp hay đạo đức hết ! Một phần nào đó, cuốn an-bum này cho ta cảm nhận được căn tính của mình và sự liên đới kế tục theo huyết thống, làm cho ta ý thức mình là người trong cuộc, người của gia đình. Cũng vậy, Kinh Thánh là an-bum gia đình của chúng ta : phải chấp nhận bộ sách này với tất cả cái đẹp cái xấu, các ưu điểm cũng như giới hạn của nó. Không nên chờ đợi những gì sẽ không bao giờ có, vì chúng ta không thể thay đổi tính khuynh nam của nó. Phải chấp nhận quá khứ của chúng ta, và tha thứ. Điều quan trọng là biết chịu đau và tha thứ quá khứ của Kinh Thánh ở những chỗ nó làm chúng ta đau.
Đồng thời, chúng ta không muốn chấp nhận như một định mệnh rằng hiện tại của chúng ta vẫn có thể giống như quá khứ được. “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu...”(Hr 4,12). Vậy các đoạn văn nào không chấp nhận được thì có ích gì ? Thưa có, có lẽ để chỉ cho ta thấy còn có thể biến đổi được, không nên làm một số điều gì đó, nên cải thiện một số khác, không nên dùng một số phương pháp nào đó : “Chúng ta biết rằng mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28).
Trong thực tế, phải tranh đấu để thay đổi một số thái độ, nhất là thái độ thích sử dụng bản văn để “chứng minh” rằng Thiên Chúa đã muốn cho đàn bà thấp kém hơn đàn ông, hoặc đàn bà mang trách nhiệm đưa tội lỗi vào trần gian. Chính Thiên Chúa đã linh hứng những dòng chữ trong Kinh Thánh ; thần khí, hơi thở Người có đó ; tuy nhiên, các tác giả lại là người phàm, không có khả năng hiểu được hết để diễn tả cho trọn ý muốn của Thiên Chúa. Không có bản văn nào là hoàn hảo -ngay cả văn phẩm Ki-tô giáo-, vì tất cả đều mang dấu ấn của thời đại và văn hoá của tác giả đã soạn ra. Bản văn dẫn lối chỉ đường cho chúng ta, nhưng có khi cũng chỉ là bạn đồng hành của chúng ta mà thôi.
4) Với con mắt mở to, sáng lên vì khâm phục. Trên đây đã nói toàn những điều tiêu cực, nhưng còn biết bao nhiêu điểm diệu kỳ. Chúng ta phải hát lên những lời cậy trông ghi trong Kinh Thánh, những lời cho thấy lòng nhân ái của Thiên Chúa khi Người tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Người, tiếp nhận chúng ta làm môn đệ Người, mặc khải cho chúng ta Tin Mừng Phục Sinh.
Kết luận.- Có tất cả nữ tính muôn màu muôn sắc tiềm ẩn trong Kinh Thánh. Nếu Kinh Thánh cho chúng ta thấy những cảnh rùng rợn của một địa ngục, Kinh Thánh cũng cho ta thấy có thể gặp được thiên đàng. Giữa hai thái cực, chúng ta phải tìm cho ra lối đi : các vấn nạn, vấn đề của chúng ta nằm trong cuộc đối thoại giữa chúng ta với lời Chúa. Nếu chúng ta thật sự đi vào cuộc đối thoại này, Kinh Thánh sẽ cho chúng ta thấy rằng, hơn bao giờ hết, lời Chúa là “tin mừng” cho chúng ta.
II. CÁC MÔ HÌNH GỐC VÀ PHỤ NỮ TRONG KINH THÁNH
Phụ nữ có nhiều loại, đa dạng và phức tạp, nhưng có thể nhận ra những nét cấu tạo chính yếu, cho hình thành bốn mô hình, bốn cấu trúc gốc, có thể gọi là : mẹ,
đồng bạn,
nữ tướng ("nữ kỵ mã” !),
nữ ngôn sứ,
tức là, nói theo chức năng : người nữ làm mẹ,
người nữ giao tế,
người nữ tự lập,
người nữ trung gian.
Thật ra, mỗi người chúng ta đều mang cả bốn nét chính đó, nhưng mỗi người có một cách thức riêng để làm mẹ, để giao tế, sống tự lập và làm ngôn sứ. Nơi mỗi người, một hoặc (có thể) hai tính chất có phần trội hơn, và các tính chất kia thì mờ hơn hoặc là bị dồn nén. Nhưng thông thường, nhất là ở giai đoạn thứ hai đời người, cả bốn tính chất đều hoạt động, từ từ được hội nhập và ứng dụng. Điều quan trọng là làm sao cả bốn được sinh hoạt đồng đều và độc lập. Phải nhấn mạnh điều này, vì trong quá khứ, mô hình người mẹ được đề cao ưu tiên, gây thiệt thòi cho các mô hình khác. Đó là vì xã hội và văn hoá thời bấy giờ ngả theo phụ hệ, và đến nay, tình trạng này vẫn chưa chấm dứt ! Điều đáng lo ngại là chính người phụ nữ cũng cam phận với cái định nghĩa rất ư là phiến diện mà người ta gán cho bản chất và vai trò của họ trong xã hội, ngay cả trong Giáo Hội.
Quả nhiên, khi đọc Kinh Thánh, ta gặp thấy cả bốn mô hình - nói đúng hơn, đó là những nhân vật đã được nhào nặn bởi các chọn lựa của họ (lối sống, cách làm việc, vv...), những mối giao tế của họ, làm cho nơi họ, nét này hoặc nét kia nổi bật lên rõ ràng hơn.
1/ Người nữ làm mẹ
Thoạt nhìn qua, Kinh Thánh đầy dẫy những trình thuật về những bà mẹ đóng một vai trò quan trọng : các bà Xa-ra, Rê-bếch-ca, Ra-khen (các “tổ mẫu”), An-na, No-ê-mi, Rút, vv... Một số lớn các bà không được nêu tên : thân mẫu của ông Mô-sê (Xh 2), của ông Sam-son (Tl 13), của bảy anh em Ma-ca-bê (2 Mcb 7), người đàn bà thành Tia, thân mẫu các con ông Dê-bê-đê.
Nói ‘thoạt nhìn qua’ thôi, vì không phải tất cả các bà mẹ kể trên đều xứng hợp với mô hình “người mẹ” của chúng ta. Thường khi, chức phận làm mẹ được diễn đạt như một điều tất yếu về mặt sinh lý, xã hội và cả thần học nữa, thay vì là một nét đặc thù để lại dấu ấn sâu xa trên người phụ nữ. Danh xưng của người phụ nữ đầu tiên là “E-va”, có nghĩa là “mẹ của chúng sinh”, nhưng trong lịch sử của Ít-ra-en, phái nam thường hay xem phụ nữ là mẹ của tất cả con cái họ (x. Tv 126 và 127). Trong nhiều trình thuật, người mẹ là nhân tố tất yếu để có con nối dõi tông đường, tất yếu cho sự sống còn của dân tộc. Do đó, nhiều trình thuật cho thấy một người đàn bà vô sinh cuối cùng cũng được Thiên Chúa ban cho một đứa con, đứa con trai cầu tự. Đó là các bà Xa-ra, Rê-bếch-ca, Ra-khen, mẹ ông Sam-son, các bà An-na, Ê-li-sa-bét. Nhưng khi các bà này tỏ ra có bản lãnh một chút thì không còn gì là từ mẫu cho lắm. Chẳng hạn bà Xa-ra, khi đối xử với Ha-ga và Ít-ma-en, không có nét dịu hiền nào cả, lại rất tàn nhẫn (St 21,8-21). Rất nhiều bà chỉ lấy việc sinh con trai làm lẽ sống, rồi sau đó, Kinh Thánh cho các bà biến mất không để lại dấu vết ; và người con trai này mới là nhân vật chính, tác giả như chỉ chờ nó sinh ra để “vào đề” câu chuyện. Các bà cũng hết mình đi vào khái niệm này : họ bị đặt trong điều kiện phải có con rồi mới tự cho là mình có giá. Bà Lê-a (không được chồng yêu) kêu lên :”Thiên Chúa đã tặng tôi một món quà quí. Phen này, chồng tôi sẽ ở với tôi vì tôi đã sinh cho ông sáu con trai !” (St 30,20). Não trạng đó dẫn đến những bi kịch : bà An-na được chồng rất yêu quí, nhưng không khuây khoả được dù ông đã nói : “Đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao ?” (1 Sm 1,8). Có thể bà đã nguôi ngoai chăng nếu ông nói với bà : “Đối với anh, em lại không hơn mười đứa con trai sao ?” Lý do thật sự làm bà An-na buồn phiền là gì ? Cái đau khổ tự nhiên của người đàn bà không con ? Phải chăng bà chịu ảnh hưởng của nền văn hoá nơi đó, thời đó, thường lên án phụ nữ vô sinh ? Và bị ám ảnh bởi bà Pơ-nin-na, vợ hai của ông En-ca-na, đắc thắng vì đông con ? Và có lẽ nhất là vì, trước mặt mọi người, chính ông En-ca-na, mặc dù yêu bà An-na hơn, vẫn buộc lòng phải tỏ ra nể người vợ có con hơn người vợ vô sinh ?
Nhưng khác với bà Xa-ra, một khi đã được Chúa nhậm lời, bà An-na tỏ ra thật sự là một người mẹ. Bà âu yếm lo cho Sa-mu-en nhưng không khư khư giữ đứa con cho mình (1 Sm 2). Vậy tác giả của 1 Sm đã thật sự mô tả cho chúng ta chân dung của một người mẹ. Chỉ tiếc rằng tác giả cũng đã đặt lên môi bà bài ca -tuy là tiền thân của thánh ca Magnificat, nhưng- rập theo mẫu các thánh vịnh về quân vương (Tv 19-20), đầy dẫy những hình ảnh bạo tàn. Đây là một bà mẹ đầy tri ân lên tiếng, hay là người đàn bà đắc thắng đánh hạ được tình địch (theo tư tưởng của tác giả) ?
Vậy ai là người đàn bà có đầy đủ những nét đặc trưng của người mẹ hiền ? Trong Cựu Ước có bà Ha-ga (St 21), sau khi bị đuổi vào hoang địa do tay một người đàn bà khác, không nhẫn tâm ngồi nhìn con mình chết. Bà mẹ ông Mô-sê cũng vậy, bà tìm hết mọi cách để cứu “đứa bé kháu khỉnh“ của bà (Xh 2,2).
Một vài phụ nữ khác tuy ít nổi bật nhưng cũng có vai trò từ mẫu như vậy. Ví dụ cô gái điếm tốt bụng trong vụ Sa-lô-môn xử án (1 V 3,16-28) : thà nhường con mình cho cô kia, tức là để cho nó sống, hơn là thấy nó bị chẻ làm đôi. Bà đồng bóng tại En-đo (1 Sm 28,21-25) tận tình săn sóc vua Sa-un sau khi vua gặp hồn ma của ngôn sứ Sa-mu-en và nghe hồn ma nói về tương lai đen tối của mình.
Trong Tân Ước, có người đàn bà xứ Xy-ri - Phê-ni-xi kiên trì chịu đựng sự hất hủi của một đám đàn ông ngoại quốc không có chút thiện cảm với bà ; bà không muốn hiểu rằng tiếng “không” của Đức Giê-su là câu trả lời dứt khoát. Bà mẹ của hai anh em con ông Dê-bê-đê cũng vậy, qua phản ứng của các môn đệ, đã phải hiểu rằng vai trò người mẹ có hạn, có lúc phải nhường chỗ cho Thầy Giê-su, và chuẩn bị để cho hai con trai mình tự lo liệu. Nhưng bà vẫn là mẹ, và trong Mt, bà sẽ lại xuất hiện dưới chân thập giá, có mặt ở đó như một người mẹ và một người môn đệ của Đức Giê-su.
Đặc biệt, chúng ta có Đức Ma-ri-a, mẹ của Đức Giê-su, “Đức Mẹ”. Tin Mừng ghi lại rất ít về Mẹ so với Thánh Truyền. Theo các sách nhất lãm, Đức Mẹ cũng phải trải qua giờ phút đau khổ thấy con không còn là người con lệ thuộc vào mình nữa, mà đã thành nhân, lớn khôn và tự lập. Tương quan mẹ-con vẫn còn, nhưng đã chuyển qua tương quan môn đệ - thầy. Trong Ga, Đức Mẹ trở thành gương mặt biểu trưng của người đầu tiên có một đức tin trọn hảo. Tại Ca-na, trong dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su đã thực hiện, vai trò của Mẹ có một giá trị thần học. Nhưng về mặt tâm lý, câu truyện này còn cho thấy những nét từ mẫu của Mẹ : quan tâm đến gia đình chủ tiệc, tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của con mình để giải quyết tình hình.
Ngoài ra, trong phần thánh vịnh và các sách ngôn sứ, tương quan mẹ-con đã đưa ra những hình ảnh quen thuộc, vd. Tv 130,2 : “Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui”.
Tương quan này có tầm quan trọng lớn đến nỗi đã tạo ra một phép ẩn dụ : Thiên Chúa có một tình từ mẫu sâu xa hơn tất cả mọi người mẹ trong Kinh Thánh ! Hs 11,1-4 còn có thể dùng cho người cha. Nhưng Is thì ngang nhiên dùng ngôn ngữ của tình mẫu tử (46,3-4) và còn nâng nó lên cao hơn nữa (49,15). Bản dịch Việt ngữ của chúng ta đã phải dùng những từ ngữ thanh nhã, kín đáo, nhưng bản gốc Híp-ri dùng thẳng thừng những từ nói rõ ràng về việc cưu mang, nuôi dưỡng (cho bú, tử cung, vv...). Ngay cả ngôn ngữ sản khoa cũng được dùng để nói lên tình yêu của Thiên Chúa (Is 42,14) ; và chỉ để nói về Chúa, các tác giả mới dùng đến những từ ngữ đó (có lẽ trừ Ga 16,21) ; còn để nói về việc sinh đẻ thường tình, Kinh Thánh chỉ vỏn vẹn một câu : “Bà thụ thai và sinh một con trai”, không thêm một chi tiết nào. Đến khi các bà chết, tác giả cũng chỉ nói họ chết thôi (x. St 35,16-19 -cái chết của bà Ra-khen-, hoặc 1 Sm 4,19-22 - cái chết của con dâu tư tế Ê-li). Thật là đẹp và cảm động khi các kinh nghiệm sâu đậm nhất của phụ nữ trong chức năng làm mẹ lại được dùng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa !
Chính Đức Giê-su cũng có phần nào đức tính của một “người mẹ”. Chúng ta đã biết : mỗi người phải đảm nhận con người mình với cả hai chiều kích nam tính và nữ tính của mình. Đàn ông có ”animus” và cũng có “anima”. Nơi Đức Giê-su, animus và anima được cân đối -”cân đối” xét cho người nam, dĩ nhiên-, và nơi phần anima của Người, các mô hình gốc cũng cân đối, được hoàn toàn đảm nhận và kiểm soát trọn vẹn. Điều này toát ra trong cách lối tương giao của Người với phụ nữ, trong cách phản ứng của Người về phụ nữ cũng như trước cuộc đời.
Từ thời các Giáo Phụ, người ta đã nhận thấy nơi Đức Giê-su có khía cạnh “từ mẫu”. Có nhiều bằng chứng phong phú trong sách Tin Mừng : lòng cảm thương thúc đẩy Người làm phép lạ cho dân chúng khi cần, Người nuôi cả một đám đông trên năm ngàn người, yêu thương trẻ con (Mc 10,13), ước muốn che chở Giê-ru-sa-lem (Mt 23,37), hiểu thấu tâm trạng đàn bà khi sinh con (Ga 16,21). Lòng ưu ái đón mời của Thiên Chúa nổi bật trong các dụ ngôn. Phải chăng đây là lý do tại sao, trong các dụ ngôn, Đức Giê-su thường hay trao cho đàn ông vai trò cảm thương hơn là cho đàn bà. Ví dụ người cha nhân hậu (Lc 15,11 tt - không thấy nói đến mẹ đứa con hoang đàng) ; người bạn quấy rầy giữa đêm khuya, và trong đoạn tiếp theo, con cái không xin mẹ cho ăn mà xin cha, và người cha này sẽ cho chúng “tất cả của tốt của lành”. Có thể đó là vì tính nam khuynh của Kinh Thánh mà các vai bị đảo ngược, nhưng cũng có thể là để cường điệu tình phụ tử của Thiên Chúa. Nhưng về mặt tâm lý, có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã tự đồng hoá mình với các nét từ mẫu đến độ Người cho nó gương mặt của người nam : Đức Giê-su đã phóng vào gương mặt những người nam đó hình bóng của chính mình. Nhưng cách nói nào cũng cho thấy được rằng Đức Giê-su luôn gắn chặt với “gương mặt từ mẫu của tình từ phụ”, do đó, Người lôi cuốn cả những người mẹ lẫn những người cha : ông Da-ia (Lc 8,49 tt), người cha đứa trẻ bị kinh phong (Mc 9,17), viên sĩ quan Rô-ma ở Ca-phác-na-um (Ga 4,46). Tuy nhiên, Đức Giê-su cũng tránh tính cách “bao bọc” trong tình yêu : Người từ chối đánh giá quá cao tương quan “mẹ-con” theo huyết thống (Mc 3,31), Người không qui về mình hoặc dành riêng cho mình các mối tương quan với môn đệ và bạn hữu, trong khi Người có thể rất dễ dàng đòi hỏi họ lệ thuộc vào Người nhiều hơn ; ngược lại, Người khuyến khích các môn đệ gánh lấy phần trách nhiệm của mình mà đến với tha nhân (Mc 6,37).
2/ Người nữ giao tế
Mẫu người này thích hợp với các tương quan giữa những người trưởng thành với nhau, trong việc chia sẻ hỗ tương, việc cộng tác với tư cách là vợ chồng, là đồng nghiệp hoặc là thầy trò. Chúng ta có thể gặp thấy mẫu người này trong các bài Kinh Thánh trình thuật về những cặp vợ chồng. Điều đáng lưu ý là trong bài trình thuật St 2,18-25, Thiên Chúa dựng nên người đàn bà làm “một trợ tá tương xứng với con người”, một người bạn và cộng sự viên của A-đam. Đoạn này đưa ra nguyên lý hôn nhân, cho thấy cặp vợ chồng đầu tiên của loài người, nhưng lại không nói đến vấn đề sinh sản (đã đề cập ở 1,26-28), mà đặt trọng tâm ở vấn đề giao lưu, kết hợp - ít ra là cho phía A-đam.
Nhưng đoạn văn này lại quá khuynh nam, và tiếc rằng nó đã kéo theo nhiều điều thiệt thòi cho phụ nữ. Có lẽ vào thời bản văn được biên soạn, xã hội đã thấy cần lập ra một trật tự nào đó : người nữ ở cấp thứ, dưới quyền người nam ; có thể nhu cầu này chỉ ở tiềm thức (trình thuật có tính tầm nguyên). Trong Tân Ước, hậu quả của quan niệm này là các chương Ep 5 ; 1 Tm 2 ; 1 Cr 11.
Thật ra, không có nhiều bản văn Kinh Thánh nói về đàn bà với tư cách là vợ, tuy các bà thường được gọi là “vợ ông...”, và con gái trưởng thành mà chưa chồng thì không có chỗ đứng, không được kể đến trong xã hội.
Bà Xa-ra được Kinh Thánh tả rõ nét với tư cách là vợ hơn là mẹ : bà rất khôn lanh, biết ý chồng và biết làm cho chồng chiều ý mình ; gần như có thể coi bà là gương mặt tượng trưng cho người đàn bà điều khiển chồng. Với những người đàn bà này, ít khi có đối thoại hai chiều - mà đối thoại lại là chính yếu trong tương quan bạn đời của nhau (St 16 và 21). Điều đặc biệt là những người đàn bà điều khiển chồng hay bị dị nghị, như Hoàng Hậu I-dơ-ven (“Giê-da-ben”) trong 1 V 21. Trong câu chuyện bà An-na, đáng lý ra có thể có một tương quan hai chiều giữa ông En-ca-na và vợ vì ông yêu bà một cách vô vị lợi (đã có bà Pơ-nin-na để sinh con trai cho ông rồi). Nhưng bà An-na, như ta đã thấy trên, lại không thoả mãn nếu chỉ là người vợ được yêu. Có lẽ bà là mẫu người làm mẹ hơn, và cũng có lẽ vì ức chế xã hội không cho phép bà sống theo mẫu người phụ nữ giao tế.
Một người đàn bà hấp dẫn ở điểm này là bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van, và sau khi chồng chết, đã trở thành vợ của Đa-vít (1 Sm 25). Bà duyên dáng, trung trực, khéo léo, vẫn giữ được nữ tính của mình trong một đời sống gia đình không có trao đổi song phương. Theo các chi tiết của câu truyện, bà rất giỏi về giao tế, có lẽ như người phụ nữ Sa-ma-ri của Tân Ước, đã trò chuyện với Đức Giê-su như người ngang hàng.
Những phụ nữ đức hạnh có giao tiếp với đàn ông không phải là chồng mình thì rất hiếm. Có Nữ Hoàng Sa-ba đến yết kiến Vua Sa-lô-môn (1 V 10), nhưng đây là một phụ nữ nước ngoài.
Trong Cựu Ước nói chung, người đàn bà nào có việc ra khỏi nhà là bị nghi kỵ ngay, coi như có thể trở thành lẳng lơ, ngoại tình (Cn 5-7 ; x. thêm Hc 9 ; 25 ; 42 ; nhưng cũng có Hc 26 ; 36 ; Cn 31). Đàn bà xã giao luôn luôn là một vấn đề cho đàn ông, nên có rất nhiều hình ảnh tiêu cực. Những bức chân dung “người đàn bà xa lạ” hay gái điếm rất linh động, với nhiều chi tiết : như thể các tác giả lấy làm thích thú khi mô tả họ trước khi kết án ! Hậu quả rất xấu cho người nữ nào muốn cộng tác với người nam, vì đâu phải phụ nữ nào cũng lẳng lơ ! Trầm trọng hơn nữa là chính các ông ngôn sứ đã chọn hình ảnh người đàn bà bỏ nhà ra đi để làm biểu tượng cho Ít-ra-en mang tội chối bỏ Thiên Chúa. Đầu tiên là ngôn sứ Hô-sê (1-3), rồi đến I-sai-a, Giê-rê-mi-a và nhất là Ê-dê-ki-en (16).
Thiên Chúa là người chồng trung tín luôn luôn tha thứ người vợ là Ít-ra-en, và nếu Người có làm cho Ít-ra-en đau khổ thì cũng chỉ là để cho thấy Người yêu nó biết bao. Ẩn dụ lạ lùng và cảm động này (nhất là Hs 2) có một khía cạnh làm hại cho người nữ khá nhiều, vì tương quan Thiên Chúa - Ít-ra-en luôn theo sơ đồ Thiên Chúa = người chồng ; Ít-ra-en = người vợ. Có bao giờ chúng ta thấy trình bày Ít-ra-en như người chồng phản bội vợ, và Thiên Chúa như người vợ trung thành tha thứ cho người chồng thất tín đâu ! Luôn luôn kẻ có tội là người đàn bà - mà từ Ít-ra-en lại là giống đực trong nguyên ngữ Híp-ri ! (x. Hc 25,24). Và Tân Ước vẫn giữ lại cách suy nghĩ với những hình ảnh của thời ấy : Đức Giê-su là Tân Lang, Giáo Hội là Tân Nương. Thật ra, Rm 5,12 đã sửa lại : “Vì một người duy nhất (anthropos) mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian” ; vậy là tội chung của cả hai.
Trong Tân Ước, có hai gương mặt : người phụ nữ Sa-ma-ri và cô Ma-ri-a Mác-đa-la.
Người phụ nữ Sa-ma-ri cần có một người trưởng thành -và ở trường hợp này, là người đàn ông- để thành đạt với tư cách là con người. Cuộc gặp gỡ giữa cô với Đức Giê-su là một sự trao đổi người với người, trong đó các vấn đề thần học chỉ được đề cập một khi đã bắt đầu có tương quan. Có thể nói dường như Đức Giê-su lấy làm thích thú nói chuyện với người phụ nữ vui vẻ, nhanh nhẹn, thông minh này. Có nhà chú giải lưu ý rằng hình ảnh gặp gỡ nhau bên một cái giếng gợi nhớ nhiều cuộc tình duyên trong Cựu Ước. Thật ra, Đức Giê-su khéo léo chuyển câu chuyện giữa hai người theo một hướng mới : “Chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18). Tương giao nam-nữ cũng như mẹ-con phải đi vào một mẫu hoàn toàn mới là tình thầy - môn đệ. Cuối câu truyện, người đàn bà được được soi sáng bởi những điều cô đã khám phá nơi Đức Giê-su, Đấng đã cư xử với cô như với một người đàng hoàng và chấp nhận con người của cô : cô nhận ra “Người là ngôn sứ” (c.19). Nhờ đó, cô sẽ có thể đem tất cả năng lực của mình hướng ngoại, hướng tha nhân, tung Tin Mừng cho những người cùng ở trong thành với cô.
Gương mặt thứ hai có thể là cô Ma-ri-a Mác-đa-la. Nói ‘có thể’ vì thật ra, nếu chỉ dựa vào Tin Mừng thì chúng ta biết rất ít về cô. Tên cô luôn đứng đầu tên các nữ môn đệ, cho thấy cô có một vị trí quan trọng, nhưng không nêu lên một nét đặc thù nào của con người cô. Cô đã đuợc Đức Giê-su chữa lành khỏi một căn bệnh nặng hoặc khỏi những cơn rối loạn tâm thần, do một phép lạ ly kỳ (Mc 16,9 ; Lc 8,2). Nhưng chúng ta không biết cô lúc đó mấy tuổi, ngoại hình ra sao, có những năng khiếu nào. Mặc dù truyền thống đã cố gắng thu gom lại nhiều “Ma-ri-a”, chúng ta không thể đồng hoá cô với Ma-ri-a Bê-tha-ni-a, hoặc với người đàn bà tội lỗi trong Lc (nghĩa là không có bằng chứng nào nói rằng cô là một “cô gái hoàn lương”), cũng không đồng hoá được với người phụ nữ đã xức dầu cho Đức Giê-su trước ngày khổ nạn. Cô thuộc nhóm người đi theo Đức Giê-su ở Ga-li-lê, có mặt khi Người chịu đóng đinh, và là một trong những phụ nữ đầu tiên được thấy Chúa Phục Sinh. Bài trình thuật của thánh Gio-an về buổi gặp gỡ giữa cô và Chúa Phục Sinh gợi nhắc tình thân mật giữa hai người, qua hai lời rất đơn giản : “Ma-ri-a !” và “Ráp-bu-ni !” Những gì tiếp theo sau phụ hoạ đoạn Đức Giê-su gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri. Nơi cô, lòng khát khao được đến gần Chúa cách trực tiếp cũng được Đức Giê-su chuyển sang một hướng mới là tương quan chứng nhân, được lồng vào tình thầy - môn đệ. Như người phụ nữ Sa-ma-ri, cô sẽ đi chia sẻ tin vui với người khác.
Chính với Ma-ri-a Mác-đa-la mà thường hay xuất hiện vấn nạn liên quan đến tính dục trong các mối tương quan giữa Đức Giê-su và phụ nữ. Chúng ta có thể bàn luận ở đây. Nhiều người đã bình luận, đã đi xa hơn những gì được viết trong Tân Ước. Đề tài tính dục nơi Đức Giê-su không bao giờ được nhắc đến trong Tân Ước, và nếu chúng ta “đọc giữa các hàng chữ” thì đây là một chuyện khó nghĩ, bởi khi chúng ta đặt câu hỏi cho bản văn thì chúng ta cũng đưa vào đó những tiền giả định của riêng cá nhân mình, và như thế, vô hình trung, đưa vô đó những lo âu của chúng ta. Nói cách tích cực, chúng ta có thể an tâm dựa trên dữ kiện căn bản sau đây : tính dục là một yếu tố cấu tạo nên bản tính nhân loại của chúng ta, là một thành phần cấu tạo con người và sự nghiệp của chúng ta. Chúng ta phải “thương lượng” với nó, coi nó vừa là bạn vừa là thù ; chúng ta không thể gạt nó qua một bên, nếu vậy, nó sẽ là một nguy cơ làm hại chúng ta. Ở điểm này, Đức Giê-su cũng đã phải sống như bất cứ ai trong chúng ta. Nhưng có người đặt vấn đề xa hơn : một người đàn ông thật sự phải trải qua kinh nghiệm giao hợp, và họ nghĩ rằng nếu Đức Giê-su là người thật, thì Chúa cũng đã trải qua kinh nghiệm này (x. trong phim “Cơn cám dỗ cuối cùng của Đức Giê-su”).
Quả thật Tân Ước không nói rõ ràng là Đức Giê-su không có lập gia đình, nhưng có những bằng chứng gián tiếp, cũng như chiều hướng giáo huấn của Người, cho phép chúng ta khẳng định điều đó. Đức Giê-su có sứ mạng đi rao giảng, rày đây mai đó, nên từ các bài trình thuật về Người, toát ra hai điểm rõ rệt. Một là không có chỗ nào ám chỉ một lối sống bê tha, dù dưới hình thức nào, trong nhóm người đi theo Đức Giê-su : nếu có chút gì khả nghi về mặt này thì các đối thủ của Người đã khai thác ngay. Trong Tin Mừng, chiến dịch vu khống nặng nề nhất để chống đối Người là nói “Đây là tay ăn nhậu” (Mt 11,19). Kế đến là qua các bài trong Tin Mừng, không thấy có sự lang chạ cũng như không có sự dồn nén nơi Đức Giê-su. Các cuộc gặp gỡ của Người với phụ nữ luôn để lại một ấn tượng lành mạnh, có quân bình. Người có tình cảm gắn bó và nồng hậu như thấy được trong các chuyến đi thăm Bê-tha-ni-a. Phụ nữ có thu hút Người về mặt xác thịt hay không, và tới mức độ nào, chúng ta hoàn toàn không biết. Nhưng, qua chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri và cô Ma-ri-a Mác-đa-la, chúng ta biết rằng đối với Đức Giê-su và những ai muốn đi theo Người, điều cốt yếu là mối giao hảo, là tình bạn, bên trong một cộng đoàn anh chị em. Về mặt này, Đức Giê-su tỏ ra thoải mái, rất tự do, không hề lúng túng. Người để cho phụ nữ đụng vào mình, tỏ lòng thương mến đối với Người (người đàn bà tội lỗi trong Lc 7,38 tt). Người có sức vượt lên trên mọi cấm kỵ liên quan đến tình trạng ô uế của phụ nữ (để cho người đàn bà băng huyết chạm đến Người : Lc 8,43-48), có khả năng quý chuộng tính hiếu học nơi một người nữ (cô Ma-ri-a ngồi dưới chân Người được Người bênh vực - Lc 10,39), ưa thích thấy một người phụ nữ biết tự mình suy nghĩ (người đàn bà Sa-ma-ri - Ga 4). Người còn có khả năng vượt lên trên ý kiến riêng của mình để làm theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ (người đàn bà Xy-ri - Phê-ni-xi : Mc 7,24-30). Đặc biệt, với Đức Mẹ tại Ca-na, Người đã cư xử như một người đồng bạn : chính với sự gợi ý của Mẹ mà Người thực hiện dấu lạ đầu tiên, tuy lúc đó “giờ (Người) chưa đến” - Ga 2). Đức Giê-su cũng không ngần ngại chống lại hoặc chỉnh lại một bản lãnh mạnh mẽ (cô Mác-ta) ; và không có gì là lãng mạn nơi Người khi Người tỏ ra nhân hậu với một người đàn bà yếu đuối sa ngã (“Chị hãy đi, và đừng phạm tội nữa” - Ga 8,11). Người không bao giờ tìm cách khai thác hay chiếm hữu người khác, không bao giờ lợi dụng bất cứ ai trong các phụ nữ đi theo Người, để gợi ý họ chiều theo nhu cầu tình cảm của Người. Các đức tính này luôn làm cho người kia được giải toả.
Các nữ môn đệ của Đức Giê-su là một hiện tượng cách mạng lớn trong cuộc đời công khai của Người (Lc 8,1-3 ; Mc 15,40-41 ; Lc 10,38-42). Thánh Phao-lô đôi khi cũng nói về phụ nữ, cũng dùng những động từ, danh từ như “đồng bạn”, “cộng sự viên”, mà thánh nhân thường dùng để chỉ các người đàn ông cũng như nói về chính mình (x, Pl 4,3 ; Rm 16,1.3.7.12.15).
Có lẽ chính Đức Giê-su cũng đã kinh nghiệm sống mô hình “người đồng bạn”. Người đã vui nhận tình bạn của những thanh niên, nam như nữ, và có một vài bạn chí thiết trong một tập thể rộng hơn. Các sách nhất lãm ghi lại tên của ba người bạn đặc biệt của Người : Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an – và theo Ga 11,15 thì “ Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta cùng hai em cô là Ma-ri-a và La-da-rô”. Rõ ràng Đức Giê-su cần đến tình thân thương này, ví dụ khi đi vào vườn ô-liu đêm hấp hối. Với người phụ nữ Sa-ma-ri, chính Đức Giê-su đi bước trước để gợi chuyện. Người cần cô ấy giúp cho một việc, và Người đã mở miệng xin. Việc xin nước uống chắc chắn còn tượng trưng cho niềm khao khát được gặp gỡ con người ở bình diện tinh thần và tình người nữa.
3/ Người nữ tự lập
Người nữ tự lập không phải là người thành đạt với tư cách là vợ, là mẹ, mà chính yếu là do khả năng tự lập : khả năng xây dựng lấy cuộc sống của mình, các mối giao tế của mình, các năng khiếu của mình. Đây là một trạng huống nội tâm tự do, độc lập đối với thế giới bên ngoài, để tự mình sống và sáng tạo cuộc đời mình, không để ai sung công, chiếm hữu. Do đó, mô hình này cũng được gọi là mô hình người trinh nữ. Họ sống chan hoà với thế giới thiên nhiên nhiều hơn. Với tha nhân, họ sống những mối tương quan huynh đệ tự do và khách quan, có thể đồng hành với anh chị em mà không bao giờ “bao bọc” họ. Tự lập khác giao tế ở chỗ giao tế thì sống tương quan chiều sâu, tự lập thì sống tương quan chiều rộng. Do các cơ chế xã hội thời bấy giờ, mô hình nữ này tự biểu lộ một cách rất khó khăn trong Kinh Thánh.
Trong thế giới các tác giả Cựu Ước, người ta không dành cho hạng phụ nữ này một chỗ đứng nào cả. Nhưng họ lại có mặt trong thế giới đó. Chúng ta đã thoáng thấy bóng dáng họ qua những người đã lập gia đình nhưng có cá tính mạnh : các bà Xa-ra, A-vi-ga-gin, vv...
Đôi khi, dường như vai trò được trao cho họ là ở bên ngoài gia đình. Bà Mi-ri-am sống như thể không chồng không con, nhưng lại có vai trò quan trọng trong cộng đoàn dân Ít-ra-en. Tuy nhiên, Xh 15,20 giới thiệu bà là nữ ngôn sứ và là em ông A-ha-ron. Sau này, theo Ds 12, bà cùng với ông sẽ phản đối ông Mô-sê, nhưng khi Thiên Chúa phạt cái tội “không sợ, mà dám phản đối Mô-sê”, thì chỉ có một mình bà bị phạt !
Bà Đơ-vô-ra : vừa là thủ lãnh vừa là ngôn sứ, là những vai trò thường chỉ dành cho nam giới thời bấy giờ (Tl 4-5). Là thủ lãnh, bà tiếp những người đến xin giải quyết những tranh chấp giữa họ ; bà tổ chức các trận giặc, dẫn quân đi đánh. Bà nhận được tước hiệu là “mẹ hiền trong Ít-ra-en” (Tl 5,7), nhưng dường như bà lại không con. Câu 4,4 ghi bà là “vợ ông Láp-pi-đốt”, có thể đây chỉ là một ước đoán, vì ngôn ngữ Híp-ri tối nghĩa, và có thể là một tước hiệu khác nữa của bà. Trước hết, tác giả giới thiệu bà mà không chút ngại ngùng, không cần phải thanh minh gì hết - và như vậy là rất tốt.
Truyện hai bà Mi-ri-am và Đơ-vô-ra như phản chiếu một thời đại trong đó phụ nữ giữ những vai trò đáng kể, trước khi có chế độ quân chủ. Bà Đơ-vô-ra đã có thể thi thố tài năng và trở thành thủ lãnh (hay thẩm phán). Đàng khác, ơn nói tiên tri là một chức năng tiêu biểu của quyền bính (Tl 5,7-12). Điều đáng chú ý là hễ khi làm người lãnh đạo, thì, theo tác giả, phải làm như mọi người, tức là như đàn ông : đánh giặc, cổ võ sự bạo tàn, và thích thú trong những việc đó.
Truyện bà Giu-đi-tha cũng vậy, trong đó có một mặt phải và một mặt trái : bà chủ xướng diệt trừ kẻ thù của dân tộc đang lâm nguy. Bị vướng vào một vấn đề do nam giới tạo ra là chiến tranh, bà tìm giải pháp theo kiểu nam giới là dùng bạo lực. Nhưng với tư cách là người nữ tự lập, tự quyết, bà thật là lẫm liệt oai phong (Gđt 9,8-13 ; 15,9) !
Những người nữ như vậy thì dù sống trong gia đình hay giữa cộng đoàn, họ vẫn là người cô độc từ căn bản. Nhưng trong Tân Ước, chúng ta thấy rằng, đối với mẫu phụ nữ này, con người và lối sống của Đức Giê-su có một sức thu hút đặc biệt lớn. Một số phụ nữ thuộc mô hình này đã đi theo làm môn đệ Người.
Bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của Vua Hê-rô-đê, đã “xuất gia” đi theo Chúa (Tin Mừng không nói rõ chồng bà đã chết hay còn sống). Trong số các bà, nhiều người có vẻ tự quản lý tài sản và á-phe của mình. Điểm chắc chắn là trường hợp hai chị em làng Bê-tha-ni-a, đặc biệt là cô Mác-ta. Bản Lc 10,38-42 không nói tới ông La-da-rô, và bản Ga 11,1 nói làng Bê-tha-ni-a là “làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a”. Vậy các truyền thuyết cổ xưa nhất nhấn mạnh vai trò hai người phụ nữ đảm đang này hơn là người em trai của họ. Lòng nhiệt thành của cô Ma-ri-a tha thiết làm môn đệ Đức Giê-su khiến cho tính khí độc lập của cô mang một màu sắc đặc biệt. Phần cô Mác-ta, tính khí độc lập và cá tính mạnh của cô cũng nổi bật rõ rệt, nhất là trong Ga. Trong Cv, còn có mẹ ông Gio-an Mác-cô (12,12), bà Ly-đi-a (16,11-15 ), Pơ-rít-ki-la (18,2-18 ; Rm 16,3 ; 1 Cr 16,19 ; 2 Tm 4,19).
Cách sống độc lập của những phụ nữ trên còn có một ý nghĩa ở bình diện tương quan xác thịt với đàn ông. Ở mặt này, họ không lệ thuộc vào đàn ông, do đó, mô hình người trinh nữ theo nghĩa tự lập còn mang thêm ý nghĩa đã phổ biến, quen thuộc trong truyền thống Ki-tô giáo.
Cũng như các người nữ vô sinh cuối cùng rồi cũng được sinh con, định mệnh của người trinh nữ là đi vào kế hoạch của Thiên Chúa trên dân Người, và cộng tác với Thiên Chúa để thực hiện kế hoạch ấy. Họ không phải là “đồng bạn” của một người đàn ông, mà là của chính Thiên Chúa. Họ là người của giao ước với Thiên Chúa, độc lập đối với nam nhân, nhưng sống trong mối quan tâm và lòng dâng hiến đối với kế hoạch Thiên Chúa và vận mạng dân Người.
Riêng Đức Ma-ri-a, sự độc lập của Mẹ trước hết có nghĩa là không có liên hệ giới tính với đàn ông, từ giây phút truyền tin. Nhưng ngoài ra, Mẹ còn có những nét độc lập khác mà Tân Ước đã ghi lại. Câu hỏi của Mẹ ở Lc 1,34 : “Làm sao có chuyện ấy được ?” nói lên một trí tuệ tự do phóng khoáng, không để những rụt rè nhi nữ ngăn chặn bước suy tư của mình. Sau đó, cũng theo Lc, Mẹ lên đường một mình, hăng hái, đến với bà chị họ. Trong hai biến cố đó, không thấy Mẹ đi hỏi ý hoặc xin phép người chồng tương lai. Có một ý chí đương đầu với “cuộc phiêu lưu” mà Thiên Chúa vừa mở ra trước mắt Mẹ, làm cho Mẹ lấy thái độ “tự lực tự cường” trên bước đường tương lai của chính mình. Do đó, Mẹ là người trinh nữ tuyệt vời, ở cả hai bình diện tâm lý nhân loại và đạo lý Ki-tô giáo.
Phần Đức Giê-su, tình bạn với các môn đệ không làm cho Người trốn tránh sự cô độc căn bản. Người hoàn toàn thoải mái trong mô hình thứ ba, ở tư thế của một người không lập gia đình, đồng trinh, tự lập. Người sống tự nhiên với mọi người, với môi trường sống của Người - ba năm sống cho sứ mạng và cuối cùng chết cho sứ mạng. Những cảm nghĩ và tâm tình của Đức Giê-su trước thiên nhiên được biểu lộ đúng nơi đúng lúc trong các dụ ngôn, cho thấy Người thường trầm mình trong đó. Cũng vậy, chúng ta thấy Người có nhu cầu sống cô tịch, lấy thì giờ đi vào hoang địa, qua những đêm thức để cầu nguyện một mình trên núi, xa đám đông dân chúng và cả môn đệ nữa. Đó là những lúc Người nghỉ ngơi, lấy sức lại để khẳng định và tiếp tục sứ mạng. Đó là thời gian hội được những điều kiện tốt nhất để Người quyết định lựa chọn hướng đi căn bản của mình. Điều này rất cần thiết, nhất là những khi các môn đệ không hiểu lời Người hoặc hiểu sai sứ mạng của Người, làm gia tăng nỗi cô độc căn bản !
Đàng khác, người cô độc là người không dựa vào đời sống lứa đôi, vào tình bạn sâu xa, nhưng vẫn cần đến tương quan huynh đệ ; vì thế, Đức Giê-su luôn cho biết tương quan đó là điểm nhấn cũng như tương quan thầy - môn đệ. Và cũng như người trinh nữ trong Kinh Thánh chỉ độc lập đối với loài người nhưng hoàn toàn hiến dâng để phục vụ Thiên Chúa, thì Đức Giê-su cũng vậy, chỉ “cô độc” để hoàn toàn khẳng định căn tính của mình là Con Thiên Chúa Cha : “Điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy” (Ga 5,19). Tự lập và cô độc đối với loài người, Đức Giê-su là cộng sự viên tuyệt hảo của Chúa Cha, “làm hài lòng Chúa Cha mọi đàng”.
4/ Người nữ trung gian
Tương phản với mô hình người nữ tự lập là mô hình người nữ trung gian. Nét nổi bật của mô hình này là trở nên một kênh truyền thông cho kho tàng hiểu biết và khôn ngoan còn ẩn kín. Sức mạnh của mẫu người này nằm ở trực giác, ở khả năng giải nghĩa những kinh nghiệm bên trong tâm hồn cũng như những biến cố bên ngoài xã hội. Bản lãnh của họ được biểu hiện trong vai trò ngôn sứ, thi sĩ, “gu-ru”, người chữa bệnh, vv... Họ có khả năng nối liền quá khứ hay tương lai với hiện tại. Họ linh cảm được và cho biết những thời điểm có thay đổi lớn, và làm cho các nguồn mạch ẩn giấu được trong lành, “bằng cách cho người ta thấy những gì người ta đã biết rồi mà còn giấu kín hoặc chưa chịu nhìn nhận”. Các nhà tâm lý học gọi họ là “nữ hộ sinh của tâm linh”, giúp cho phần vô thức được trồi lên vào những thời điểm quyết liệt của quá trình tăng trưởng.
Trong Cựu Ước, chúng ta đã gặp bà đồng bóng En-đo “thần thông” với thế giới siêu phàm (tương quan này dĩ nhiên bị cấm nhặt), hai bà Mi-ri-am và Đơ-vô-ra được gọi là nữ ngôn sứ. Lại có những nữ ngôn sứ khác như bà Khun-đa (2 V 22,14-20) và Nô-át-gia (Nkm 6,14). Các ngôn sứ thời Cựu Ước trước hết là sứ giả của Thiên Chúa, được sai đi công bố lời Chúa cho Ít-ra-en - lời tố cáo những bất công, lời bênh vực kẻ bị áp bức, lời tiên báo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống những kẻ bách hại, lời phán xét và đổi mới mọi sự. Vậy ngôn sứ là người cộng tác vào chương trình giải phóng của Thiên Chúa. Còn các nữ ngôn sứ này, họ có nói tiên tri như thế không ?
Hai bà Mi-ri-am và Đơ-vô-ra xướng lên bài ca chiến thắng hơi khác với những lời sấm các ngôn sứ “cổ truyền”. Bối cảnh những lúc đó là của thời giải phóng.
Bà Mi-ri-am thuở nhỏ đã canh chừng cái nôi của Mô-sê em mình, dàn xếp những lúc mẹ có thể cho em bú, đi liên hệ với công chúa tìm người vú nuôi em, vv... (Xh 2,2-10). Với các phụ nữ, bà đã mừng reo trước cái chết của quân Ai-cập trong lòng biển, là kỳ công quyết liệt của Thiên Chúa. Và lẽ ra việc xướng hát bài ca chiến thắng là của vai nữ, thì Xh lại chỉ ghi có một câu của bà (Xh 15,20) đặt sau bài ca rất dài của ông Mô-sê (“Vang lên muôn lời ca !” - Xh 15,1-18). Chúng ta đã biết giai đoạn bà chỉ trích ông Mô-sê, như những ngôn sứ khác chỉ trích các nhà lãnh đạo Ít-ra-en, như ông Gio-an Tẩy Giả chỉ trích Vua Hê-rô-đê, và, cũng như các ông, bà đã phải gánh chịu hậu quả (Ds 12). Tuy nhiên, Ds cũng cho thấy bà có một vị trí quan trọng (13,15), và các truyền thống sau đó lại tuyên dương công trạng của bà : chính nhờ bà mà Thiên Chúa đã cho nước từ tảng đá chảy ra.
Bà Đơ-vô-ra thì bàn việc với ông Ba-rắc như một sứ giả mang lời Chúa đến cho ông, như một ngôn sứ thật sự. Nhưng điều đã chứng minh tư cách ngôn sứ của bà là khiến cho một tướng lãnh như ông Ba-rắc cảm thấy rằng, qua trung gian của bà, ông được tiếp xúc với cõi vô hình. Ông từ chối đi đánh giặc nếu bà không cùng đi với ông, và bà trả lời : “Chắc chắn tôi sẽ đi với ông.” Bà thật sự là trung gian truyền thông sức mạnh của Thiên Chúa cho ông. Thiên Chúa cho thấy sự hiện diện của Người qua trung gian của bà, và nhờ vậy, dân Ít-ra-en được giải thoát. Chắc chắn chức năng ngôn sứ này đã củng cố quyền bính và uy tín của bà.
Bà Khun-đa (2 V 22) nhắn với vua Giô-si-gia : “Đức Chúa phán thế này...” (c.15) và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cải cách tôn giáo mà vua Giô-si-gia đã thực hiện sau năm 630. Còn bà Nô-át-gia thì đã dám làm cho ông Nơ-khe-mi-a phải khiếp sợ (Nkm 6,14).
Vậy suốt dòng lịch sử Ít-ra-en, từ thời xa xưa của sách Xuất Hành cho tới thời bà An-na (người đồng thời với Chúa Giêsu), phụ nữ đã được nhìn nhận với tư cách là ngôn sứ, đã có thể hành động và ăn nói với tư cách đó. Nhưng chúng ta phải lưu ý đến con số rất ít các nữ ngôn sứ (“ngôn sứ ít người” !). Đại đa số các ngôn sứ là nam, các sách ngôn sứ chỉ toàn là của nam ngôn sứ, và không có trình thuật ơn gọi nữ ngôn sứ. Trầm trọng hơn : trực giác khiến các bà thần thông với cõi vô hình bị dị nghị đến đỗi Kinh Thánh coi đó là ma thuật hoặc hoàn toàn không nhắc tới.
Các gương mặt Cựu Ước nói trên cho thấy khía cạnh tiêu cực cũng như tích cực của vai trò nữ ngôn sứ. Chúng ta đã nói nhiều hơn đến khía cạnh tiêu cực vì thường các trình thuật trong Cựu Ước rất hấp dẫn, nên ngay cả phụ nữ chúng ta, chúng ta đọc một cách rất ngoan ngoãn, trơn tru, tiếp thu những gì đã có sẵn, và rất khó lượng giá với chính con mắt của mình, với những giá trị nhân bản chính đáng mà thời đại này đã khám phá ra, khó mà lội ngược chiều dòng nước nam khuynh. Hơn nữa, chúng ta đã học và quen xem Kinh Thánh là một cuốn sách đáng kính -và Kinh Thánh đáng kính thật, là “thánh”-, nhưng chúng ta đâu cần phải mang cập kính quá đạo đức, không cần phải cảm thấy mình tội lỗi nếu nhận ra trong đó vài điều phải lượng giá lại, thậm chí phải loại bỏ.
Trong phần Tân Ước, có nữ ngôn sứ An-na xuất hiện lúc Đức Giê-su được hiến dâng trong Đền Thờ. Tuy nhiên, không thấy Lc ghi lại bà có phát biểu gì không. Còn một gương mặt rất rõ nét mà Ga gọi là Ma-ri-a làng Bê-tha-ni-a, nhưng Mt và Mc thì không nêu tên. Cô xức dầu trên chân (Ga) hoặc trên đầu (Mt và Mc) Đức Giê-su, ngày chót trước cuộc khổ nạn của Người. Người đàn bà này linh cảm một điều mà các nam môn đệ (và có lẽ chính bà) chưa hiểu được, tức là bản chất thực thụ của vương quyền và phẩm giá con người của Đức Giê-su. Cô bày tỏ lòng sám hối và lòng quý mến của cô, được Đức Giê-su giải thích như một cử chỉ có ý nghĩa tiên báo việc tẩn liệm thân xác của Người, một cử chỉ có tính ngôn sứ. Đây là một cử chỉ có giá trị tượng trưng cao : trong Cựu Ước, đổ dầu trên đầu ai chỉ dấu tấn phong người ấy làm tư tế (Lv 8,12) hay làm vua. Nghi thức truyền chức cho vua thường do một ngôn sứ cử hành (x. 1 Sm 10,1 ; 16,13 ; 2 V 9,3), có khi do một tư tế (2V 11,12), nhưng không bao giờ do tay đàn bà. Cũng theo Cựu Ước, các cử chỉ và lời ngôn sứ là những dấu chỉ, những phương tiện mà Thiên Chúa dùng để tự mặc khải. Và người đàn bà này gợi nhớ những dấu chỉ ấy.
Nơi Đức Ma-ri-a, mô hình người trinh nữ được Giáo Hội tặng cho ưu thế so với mô hình người trung gian. Những lý do đưa đến việc tôn sùng Mẹ với tư cách là trung gian đã bị giảm giá ít nhiều về mặt thần học, nhất là từ Vatican 2, để nhấn mạnh vai trò trung gian của Đức Giê-su giữa Thiên Chúa và loài người. Nhưng ưu điểm của các lý do tôn sùng “Đức Ma-ri-a trung gian” là giúp chúng ta diễn tả cho sát hơn kinh nghiệm sống của nữ giới. Trong thực tế, rất khó phân biệt giữa người đồng bạn và người trung gian, nhưng có thể nói rằng cung cách người nữ trung gian có màu sắc huyền nhiệm nhiều hơn là cung cách người nữ giao tế.
* Ngày truyền tin, Đức Mẹ nhận làm trung gian cho Chúa Thánh Thần để dựng nên một thân xác, một linh hồn phàm nhân cho Ngôi Lời nhập thể. Nhờ Mẹ, các tước hiệu và sứ mạng của Ngôi Lời (được nêu lên trong Lc 1,32-33.35) sẽ được thể hiện nơi con người Giê-su. Về mặt tinh thần lẫn thể xác, Mẹ lại là trung gian để cho Ngôi Lời đầu thai làm nguồn sống mới, phát sinh một nhân loại mới. Vậy vai trò tái tạo của Đức Giê-su, với tư cách là A-đam mới, đã cần đến Mẹ để thành sự.
* Trong bài trình thuật đi viếng bà Ê-li-sa-bét, người ta cũng thấy bóng dáng người nữ trung gian : khi Mẹ mở lời chào, thì đứa con trong bụng bà Ê-li-sa-bét nhảy mừng lên, báo cho mẹ biết rằng vị khách này đã mang đến một nguồn sống mới. Sau đó, chính bà Ê-li-sa-bét cũng trở thành trung gian để nói lên tâm trạng và chức phận của Mẹ, nói lên điều đó như một ngôn sứ. Cuối cùng, bài ca Magnificat của Mẹ nhắc lại kế hoạch của Thiên Chúa trên Mẹ và dân Ít-ra-en. Vậy nói lời ngôn sứ là phản ứng dây chuyền trong đoạn Lc 1,41-55.
* Tại Ca-na, Đức Mẹ đóng vai trò trung gian chẳng những cho các người đầy tớ mà còn cho Đức Giê-su nữa : Chúa bắt đầu làm một dấu lạ, và lòng tin của các môn đệ được khơi dậy từ lúc đó.
Phần Đức Giê-su, khía cạnh trung gian (con người huyền nhiệm, nhiều trực giác, đầy khôn ngoan) nổi lên đậm nét trong cả cuộc đời Người. Người là nguồn mạch chữa lành thể xác, tinh thần, tâm linh. Người ý thức “có một năng lực tự nơi (Người) phát ra” khi bệnh nhân chạm tới Người (Lc 8,46). Ma vương quỷ lực nhận ra Người và khuất phục, các thiên thần phục vụ Người. Người sống hoàn toàn thư thái trong thế giới phi lý trí đó. Người đọc bên trong tâm hồn con người và nói lên những gì họ còn giấu kín. Người thụ nhận hơi thở của Thần Khí và có những niềm vui siêu thánh (Lc 10,21 tt). Dĩ nhiên, mô hình người trung gian cũng có thể nhận thấy được nơi người nam ngôn sứ, người hiền triết, người thầy chữa bệnh, nhưng các khía cạnh đặc biệt “nữ” nơi Đức Giê-su được rõ nét hơn bởi lý do các tác giả sách Tin Mừng (nhất là Mt), và trước các ông là thánh Phao-lô, đã nhận ra nơi Đức Giê-su Đức Khôn Ngoan nhập thể, là sức mạnh sáng tạo của Thiên Chúa hiển hiện ra bên ngoài, mà Cựu Ước mô tả như một người nữ “được ĐỨC CHÚA dựng nên như tác phẩm đầu tay của Người..., không ngớt vui chơi trước mặt Người, và đùa vui với con cái loài người” (Cn 8,22.30-31 ; x.. 1 Cr 1,24 ; Cl 1,15 tt ; Mt 11,28 tt ; Hc 24, đặc biệt 19-22).
III. MỘT GƯƠNG MẶT ĐỘC ĐÁO TRONG CỰU ƯỚC :
“NÀNG” CỦA SÁCH DIỄM CA
Cho tới đây, chúng ta đã lần lượt nhìn qua các gương mặt phụ nữ trong Kinh Thánh theo bốn mô hình đã được chọn để dễ nhận diện và ghi nhớ. Nay chúng ta cần có một chương riêng dành cho “Nàng” của sách Diễm ca, bởi vì trước hết Nàng đây không phải là một con người lịch sử hoặc là nhân vật của một câu truyện có đầu có đuôi, nhưng là một biểu tượng, và kế đến bởi vì biểu tượng này lại không nằm trong mô hình nào của bốn mô hình đã xem qua.
Nàngkhông thuộc hạng người nữ làm mẹ vì không hề đề cập đến chức năng này cho mình ;
không thuộc mô hình người nữ giao tế, tuy thoạt tiên tưởng có thể liệt vào hạng người này ;
không phải là người trung gian, vì Dc cho thấy Nàng chỉ biết có “Chàng” ;
và càng không thể là người tự lập vì tỏ ra như không thể sống mà không có Chàng.
Kinh Thánh đưa ra đây một mô hình “lý tưởng” : Nàng xuất hiện như “người tình” tiêu biểu”, lại là kết tinh của “tình si”, là hiện thân của tình yêu. Chẳng những Nàng chạy đi kiếm Chàng, “lang thang thất thểu” (1,7d), mà chính Chàng cũng gọi Nàng là “tình yêu” (2,7 ; 3,5 ; 7,7 ; 8,4). Vì thế, Nàng thật là người phụ nữ lý tưởng, và trong một phần sau, Dc sẽcó câu : “các thiếu nữ thấy nàng (đều) ngợi khen nàng diễm phúc”(6,9). Đối với các nhân vật trong bản tình ca này, không phải con người, mà tình yêu, mới là trọng tâm của cuộc sống.
Vậy chúng ta hãy tìm xem biểu tượng này nói lên những gì. Từ khi Dc được đưa vào qui điển Kinh Thánh, các nhà chú giải đã đọc và hiểu ra những nội dung khác nhau tuỳ truyền thống. Có ba cách đọc và hiểu đã được Giáo Hội xác nhận để hướng dẫn chúng ta trong việc tìm hiểu ý nghĩa và giá trị của gương mặt nữ rất độc đáo và có vẻ không mấy thánh thiện này : truyền thống Do-thái giáo, truyền thống Ki-tô giáo và hướng chú giải hiện đại.
1/ Truyền thống Do-thái giáo đã đọc tập thơ Dc theo hướng phúng du.
a/ Phép phúng dụ cho hiểu Nàng là hình ảnh của Dân Chúa, và Chàng là chính Thiên Chúa của Ít-ra-en. Những gì chúng ta đã nói trên về cái cặp phương trình thiệt thòi cho phụ nữ (Thiên Chúa = người chồng muôn đời trung tín, và Ít-ra-en = người vợ lắm lúc ngoại tình) bắt nguồn từ các sách ngôn sứ, mà âm hưởng các lời ngôn sứ lại rất đậm nét trong tập thơ này. Nhưng chính vì Do-thái giáo đã từ đầu đọc thấy trong Dc thiên tình sử của dân Ít-ra-en với Thiên Chúa mà Dc đã được nhận vào qui điển sách thánh. Do đó, không có lời yêu thương nào của Nàng (hay của Chàng) trong Dc bị đánh giá là lố lăng hay là thái quá cả. Ví dụ ai có thể trách Ít-ra-en (Nàng) đã thốt lên những lời yêu đương tha thiết như : “Hãy kéo em theo anh, / đôi ta cùng mau bước !” (1,4) hay là : “Chàng đi rồi, hồn tôi như đã mất (5,6) ... Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần, / cơn đam mê dữ dội như âm phủ”( 8,6). Và ai lại không cảm động khi nghe Thiên Chúa nói qua miệng “Chàng” : “Này em gái của anh, / người yêu anh sắp cưới, / trái tim anh, em đã chiếm mất rồi ! (4,9) và “Bồ câu của tôi là duy nhất, / người đẹp của tôi chỉ có một”(6,9) ? Trong tuần lễ Vượt Qua Do thái giáo, Nàng được nhắc đến trong các hội đường như đối tượng rất được Thiên Chúa ân cần chăm sóc, dắt đi an toàn băng qua Biển Đỏ :”Bồ câu của anh ơi, em ẩn trong hốc đá, trong vách núi cheo leo...”(2,14) ! Trong suốt lịch sử đau thương của Ít-ra-en, những lời nồng cháy của Nàng đã đóng một vai trò rất lớn để giúp Dân Chúa giữ vững và đào sâu niềm tin của mình : “Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp / mà đổi lấy tình yêu, / ắt sẽ bị người đời khinh dể “ (8,7) - vâng, Ít-ra-en đã dám làm như vậy !
b/ Nàng còn tượng trưng cho miền đất Pa-lét-tin. Những nét đẹp của Nàng gợi nhớ trong lòng người Do-thái biết bao hình ảnh thân thương của quê hương yêu dấu : “Nàng đẹp tựa Tia-xa, duyên dáng tựa Giê-ru-sa-lem (6,4) ... Tóc nàng gợn sóng như đàn sơn dương / tự trên ngàn Ga-la-át tủa xuống ... Cổ nàng đẹp như tháp ngà Đa-vít ... Áo em toả hương thơm ngào ngạt / tựa hương núi Li-băng (4,1.4.11) ... Đôi mắt em như mặt hồ Khét-bôn ... Đầu em như Các-men đỉnh núi” (7,5-6). Và ở những đoạn Chàng say sưa mô tả vẻ đẹp của Nàng từ đầu xuống chân (hay theo chiều ngược), độc giả Do-thái nhận ra chính Thiên Chúa như đang trầm trồ từ Bắc chí Nam (hay ngược lại) lãnh thổ Pa-lét-tin, mà Người đã yêu thương tặng ban cho họ.
Biểu tượng tình yêu này có giá trị lớn lao đến đỗi Ráp-bi A-ki-ba, một bậc thầy Do-thái của thế kỷ 1 CN, đã tuyên bố : “Cả thế giới này không sao sánh được với cái ngày mà khúc Diễm ca được ban cho Ít-ra-en” (Khảo luận Gia-đai-gim 3,5).
2/ Truyền thống Ki-tô giáo tiếp nối truyền thống Do-thái giáo nói trên, nghĩa là cũng đọc Dc theo hướng phúng du. Các sách thiêng liêng trong kho tàng tu đức và chiêm niệm của Giáo Hội từ buổi sơ khai đều đã hiểu lời văn theo nghĩa bóng, và cho các nhân vật mang một ý nghĩa thuần tuý thiêng liêng. Vậy Nàng là Ít-ra-en mới (tức là Giáo Hội), là linh hồn mỗi một cá nhân người Ki-tô hữu -không phân biệt nam hay nữ-, đặc biệt người tận hiến cho Chúa Ki-tô, và tinh tuý hơn cả : Nàng là tiền ảnh của Đức Ma-ri-a.
Dưới đây, chúng ta thử ghi song đối một vài lời trong Dc đã từng được dùng với ý nghĩa phúng dụ, để đối ứng với một số đoạn khác trong Kinh Thánh mang ý nghĩa hiển nhiên :
Từ khóa » Ep Trong Kinh Thánh
-
KÝ HIỆU CÁC SÁCH KINH THÁNH - Viết Tắt - Suy Niệm Hàng Ngày
-
Bảng Chỉ Dẫn Ký Hiệu Viết Tắt Trong Kinh Thánh Công Giáo - Augustino
-
Bảng Chỉ Dẫn Ký Hiệu Viết Tắt Trong Kinh Thánh Công Giáo
-
Ký Hiệu Viết Tắt Trong Kinh Thánh Công Giáo
-
Ký Hiệu Viết Tắt Trong Kinh Thánh Công Giáo
-
[PDF] KÝ HIỆU CÁC SÁCH KINH THÁNH THEO THỨ TỰ CHỮ CÁI
-
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT - Các Sách Công Giáo
-
Ép-ra-im
-
Ép-ra-im Trong Kinh Thánh Là Ai? - Thanh Niên Tin Lành
-
Kinh Thánh: Bản Văn Và Chú Thích
-
Ê-phê-sô 1: Kinh Thánh - Tân Ước - Wordproject
-
Thánh Kinh | Vietnam Redemptorist Media Institute
-
THỰC VẬT TRONG KINH THÁNH (Phần 1) - Spiderum
-
Những Câu Hay Trong Thánh Kinh | Ngọn Lửa Nhỏ