Phương Ngữ Tiếng Stiêng - 123doc

So với các ngôn ngữ thuộc nhóm Bahnar Nam, phương ngữ tiếng Stiêng tương đối đơn giản. Việc có ít nhóm phương ngữ cho thấy tộc người Stiêng không có nhiều thay đổi về nơi cư trú hoặc nếu có thì việc du canh du cư không ảnh hưởng lớn đến tính thống nhất ngôn ngữ do di chuyển nguyên cả buôn làng, không di cư theo từng nhóm. Điều này giúp cho việc giao tiếp của các thành viên trong cộng đồng dễ dàng.

Trang 1

Trang 31

Phương ngữ tiếng Stiêng

 Lê Khắc Cường

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM

TÓM TẮT:

So với các ngôn ngữ thuộc nhóm Bahnar

Nam, phương ngữ tiếng Stiêng tương đối đơn

giản Việc có ít nhóm phương ngữ cho thấy tộc

người Stiêng không có nhiều thay đổi về nơi cư

trú hoặc nếu có thì việc du canh du cư không

ảnh hưởng lớn đến tính thống nhất ngôn ngữ

do di chuyển nguyên cả buôn làng, không di

cư theo từng nhóm Điều này giúp cho việc giao tiếp của các thành viên trong cộng đồng

dễ dàng Dù vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận về mức độ khác biệt giữa hai phương ngữ Stiêng

Bu Lơ và Stiêng Bu Deh, nhưng theo chúng tôi,

sự khác biệt giữa hai nhóm này không lớn; đặc biệt là kể từ sau năm 1975 trở đi

Từ khoá: Stiêng, Bahnar Nam, phương ngữ, Bu Lơ, Bu Deh, SIL, Bình Phước

1 Vấn đề phân vùng phương ngữ tiếng

Stiêng

1.1 Đầu thế kỷ XIX, tộc người Stiêng đã được

nhắc đến trong các thư tịch của nhà Nguyễn với tên

gọi Xương Tinh Sách Đại Nam nhất thống chí ghi

lại việc vua Minh Mạng ban các họ Điểu, Nhạn,

Ngưu, Mã,… cho các sắc dân ít người ở Phước

Long, Phước Bình thuộc tỉnh Biên Hoà1 Năm 1887,

giáo sĩ người Pháp P.H Azémar in cuốn

Dictionaire Stieng, từ điển đầu tiên của tiếng

Stiêng, đồng thời là văn bản đầu tiên được viết bằng

chữ Latin còn giữ được cho đến nay Sau năm 1954,

Hội Ngữ học mùa Hè (Summer Institute of

Linguistics - SIL) của Hoa Kỳ tổ chức nghiên cứu

nhiều ngôn ngữ dân tộc ít người khu vực Nam

Trường Sơn – Tây Nguyên Hai ông bà Ralph và

Lorraine Haupers thuộc tổ chức SIL đã có nhiều

công trình nghiên cứu ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp

1

Họ Điểu là họ chủ yếu của người Stiêng hiện nay Trước đây,

bà con Stiêng có họ gốc bằng bản ngữ nhưng sau đó đã thay đổi

theo hướng Việt hoá từ thời Minh Mạng Những thay đổi này

được thực hiện triệt để hơn dưới thời của chính quyền Ngô Đình

Diệm Cũng như hầu hết địa danh, nhân danh bằng tiếng dân tộc

khác, chính quyền của ông Ngô Đình Diệm đã Việt hoá dựa theo

cách phát âm (như Blao – Bảo Lộc, Lang Bian – Lâm Viên,…)

hoặc đặt tên mới bằng tiếng Việt cho địa danh, nhân danh tiếng

Stiêng

tiếng Stiêng Sau ngày đất nước thống nhất, việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc ít người thuận lợi hơn Mảng nghiên cứu dưới góc độ nhân học, dân tộc học đã có nhiều đóng góp trong việc giới thiệu cộng đồng Stiêng Những kiến giải về phương ngữ Stiêng sau năm 1975 phần lớn được giới thiệu trong các chuyên khảo về dân tộc học

1.2 Ralph Haupers và Điểu ‘Bi trong tập sách

mỏng dùng để dạy những câu cơ bản tiếng Stiêng

Nói tiếng Sơđiêng, Stiêng Phrase Book, Sơdiêng - Việt - Anh (1968) đã giới thiệu qua về phương ngữ Stiêng: “Tiếng Sơđiêng có hai thổ-ngữ chính, tức là thổ-ngữ Bu Dêh (Tỉnh Bình Long 2 ) và thổ-ngữ Bu

Lơ (Tỉnh Phước Long 3 )” Các tác giả đã đưa ra một

bảng so sánh 30 từ phương ngữ của hai tiếng Bu Dêh và Bu Lơ Đây là tài liệu đầu tiên nói về phân vùng phương ngữ tiếng Stiêng [8; 33-36] Trong

cuốn từ điển đối chiếu Stiêng – Anh (Stieng – English Dictionary) in năm 1991, Ralph và

Lorraine Haupers chỉ cho biết ngữ liệu dùng để biên

soạn từ điển dựa trên “phương ngữ được nói ở gần Sông Bé” [7; vi]

2 Nay là huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước

3 Nay là huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước

Trang 2

Trang 32

Diệp Đình Hoa (1984) xác định người Stiêng

(mà tác giả viết là Xtiêng) có nhiều tên gọi khác

nhau như Xa điêng, Bu Lơ, Bu Dip, Bu Lach, Ray,

Tà Mun, Dalmer, Rong Ah, Bule, song vẫn khẳng

định tộc người này chỉ có hai nhóm chính là nhóm

thượng du Bu Lơ và nhóm ở vùng thấp Bu Dêh

[9;142]

Theo Phan An (1985), “Người Stiêng ở vùng

tỉnh Sông Bé có thể phân thành hai nhóm địa

phương Sự phân chia này cũng đã được ngay chính

bản thân người Stiêng thừa nhận Đó là nhóm

Stiêng Bù lơ, còn gọi là người vùng cao, và nhóm

Stiêng Bu đek tức người vùng thấp (…) Sự khác

nhau giữa hai nhóm địa phương trên đây được thể

hiện trong các đặc điểm cư trú, ngôn ngữ (các

phương ngôn)” [1;89-90] Trong luận án Hệ thống

xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam, Phan

An nói rõ hơn về vấn đề này Theo ông, nhiều tài

liệu cho biết người Stiêng có các nhóm địa phương

ngư Bù Díp/Dik, Bù Lách, Bu Dek, Bù Lơ, Bù

Biêk/Bù Biek, nhưng “trong các đợt điền dã của

chúng tôi, hiện nay người Stiêng có hai nhóm chính

là Bù Lơ và Bù Dek, một số ít người Stiêng ở Dak Ơ

(Phước Long) tự nhận là Bù Biek và họ nói rằng

gốc gác họ vốn từ nhóm Stiêng Bù Biek ở

Cămpuchia” [2;29] “Phía Tây và Tây Bắc, vùng

cư trú của người Stiêng giáp với khu vực cư trú của

người người Stiêng ở Cămpuchia, đó là nhóm

Stiêng Bu Biêk Vào những năm chiến tranh ác liệt,

đã có một bộ phận người Stiêng ở bên kia sông Dak

Quýt thuộc lãnh thổ Cămpuchia Về mặt tộc người,

người Stiêng ở Việt Nam và người Stiêng

Cămpuchia là những nhóm địa phương của dân tộc

Stiêng” [2;25]

Ngô Văn Lý (1994) có quan điểm tương tự:

“Theo sự khảo sát của chúng tôi trong những năm

gần đây, người Stiêng ở Việt Nam có hai nhóm địa

phương, chủ yếu là Bù dek (người vùng thấp) và Bù

lơ (người vùng cao” Ông cho biết dọc biên giới

Việt Nam - Campuhia có một số ít người Stiêng tự

nhận là Bùdip có nguồn gốc từ người Stiêng ở

Campuchia [12;22] Về hai nhóm Stiêng chính có

mặt tại Việt Nam, Ngô Văn Lý viết: “Sự dị biệt giữa hai nhóm ngôn ngữ Stiêng Bù lơ và Stiêng Bù dek khá lớn khiến một số người phân vân về tính thống nhất tộc người Stiêng” [12;26]

Mạc Đường (1985) khi khảo sát những biến đổi

xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Sông Bé4 đã nhận định: “Trong quan niệm của các dân tộc khác, Stiêng là một cộng đồng thống nhất (…) Tuy vậy, theo tài liệu điều tra của chúng tôi vào đầu năm 1984, trong ngôn ngữ của người Stiêng Bù đek và Bù lơ còn có những đặc điểm khác biệt nhau khoảng trên 40% Trong 34 từ vị cơ bản được điều tra thì có đến 15 từ có sự khác nhau giữa hai nhóm Các từ vị khác nhau đó là…” (xem Bảng

1) [6;216]5 Các tác giả cuốn Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số

ở Việt Nam và chính sách ngôn ngữ (1994) viết

“Người Xtiêng bao gồm những “ngành” có tên gọi như Bulơ, Dudeh,… Ở Campuchia cũng có người Xtiêng” [19;34]

Tạp chí Ethnologue – Languages of the World, Edition 17 th, 2014, ghi nhận có hai nhóm Stiêng là Bulo (tên gọi khác: Stiêng vùng cao, Budíp, Stiêng Bắc, Rangah, Xa-Dieng, Xtieng), sinh sống tại Bình Phước, Lâm Đồng và Tây Ninh và một bộ phận ở Campuchia; nhóm Budeh (tên gọi khác: Stiêng vùng thấp, Stiêng Nam) ở Bình Phước và Tây Ninh

So với bản in lần XI, 1988, quan điểm của các tác giả của tạp chí này đã thay đổi Trước đây, họ cho rằng người Stiêng ở Campuchia có dân số 22.000

4 Năm 1997, tỉnh Sông Bé được tách thành hai tỉnh Bình Dương

và Bình Phước

5 Loại trừ những sai sót do ghi âm hoặc lỗi in ấn như tung tiênư (đúng ra là tung tiêng), tank (đúng ra là tănh),… thì 15 từ liệt kê

trong bảng trên chỉ có 2 từ địa phương đúng nghĩa; đó là

tuk/rơtuk, rơtuq (Bu Lơ) - mleng/miêk (Bu Dêh) và tung tưng/bong kang (Bu Lơ) – Tăm teng/bôt bom (Bu Deh) Các

trường hợp còn lại chỉ là những biến thể ngữ âm của cùng một

từ Riêng từ “bò” thì tiếng Bu Lơ ở Bù Đăng là nrôq, kơnrôq (chứ không phải là krô) nhưng vẫn dùng song song với gô Cũng

cần lưu ý là số lượng từ đối chiếu chỉ có 34 từ nên kết quả thống

kê không có ý nghĩa Vì vậy, con số 40% mà tác giả nêu chỉ có giá trị tham khảo

Trang 3

Trang 33

Bảng 1 Các từ vị khác nhau giữa nhóm Stiêng Bù đek và nhóm Stiêng Bù lơ

người (so với 48.000 người ở Việt Nam); gồm các

phương ngữ Budip, Bulach và Bulo

Nguyễn Thị Thu Trang trong khoá luận tốt

nghiệp đại học Phương ngữ tiếng Stiêng (1995) xác

định tiếng Stiêng có hai phương ngữ là Stiêng Bu

Lơ và Stiêng Bu Dêh Stiêng Bu Lơ có hai nhóm

chính là nhóm Bu Lơ ở Phước Long và nhóm Bu

Lơ ở Bù Đăng Stiêng Bu Dêh có hai nhóm chính là

nhóm Bu Dêh ở Lộc Ninh và nhóm Bu Dêh ở Lộc

Ninh

Tác giả cho rằng giữa hai phương ngữ có một số

điểm khác biệt cơ bản sau đây:

- Tỷ lệ từ đơn tiết/từ song tiết giữa hai phương

ngữ: trong 281 từ cơ bản thì tiếng Bu Lơ ở Phước

Long có 51 từ, chiếm 18,15%; tiếng Bu Lơ ở Bù

Đăng: 49 từ - 17,43%; tiếng Bu Dêh ở Lộc Ninh: 47

từ - 16,72%; tiếng Bu Dêh ở Bình Long: 45 từ -

15,77% Như vậy tỷ lệ từ song tiết về cơ bản là

ngang nhau, khoảng 17%

- Âm đầu: phương ngữ Stiêng Bu Lơ có 24 phụ

âm đầu so với 27 phụ âm đầu trong tiếng Stiêng Bu

Dêh (phương ngữ này có thêm ba phụ âm ll, mm,

nn) Ngoài số lượng, việc hiện thực hoá các phụ

âm trong hai phương ngữ cũng có những sự khác biệt tinh tế

- Từ phương ngữ: so sánh 281 từ cơ bản theo bảng từ Swadesh giữa hai nhóm Du Lơ Phước Long

và Bu Dêh Bình Long thì có 83 từ khác nhau, tỷ lệ 29,53% Trong cùng phương ngữ thì hai các thổ ngữ cũng có một số khác biệt: giữa hai thổ ngữ Bu

Lơ (Phước Long và Bù Đăng) là 30/281 từ, tỷ lệ 10,6%; giữa hai thổ ngữ Bu Dêh (Lộc Ninh và Bình Long) là 31/281 từ, tỷ lệ 10,74% [18;24-39] Điều này cho thấy, sự khác biệt từ vựng giữa các nhóm trong cùng phương ngữ là không đáng kể; còn sự khác biệt giữa hai phương ngữ Bu Lơ và Bu Dêh khoảng trên 29%

2 Các phương ngữ Stiêng

Kết hợp các nguồn ngữ liệu và căn cứ kết quả điền dã tại các huyện thị thuộc tỉnh Bình Phước, chúng tôi có một số nhận định như sau về phương ngữ tiếng Stiêng

2.1 Stiêng là một cộng đồng dân tộc thống nhất

Khu vực cư trú ban đầu của họ có thể là khu vực nay thuộc địa bàn của hai tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng, nghĩa là mở rộng về phía Đông và Đông Nam hơn là so với địa bàn cư trú chủ yếu hiện nay

Trang 4

Trang 34

(tỉnh Bình Phước) Đầu thế kỷ XX, khi Pháp chiếm

đất rừng để mở các đồn điền cao su ở Đông Nam

Bộ, người Stiêng bị đẩy về phía Bắc và Tây Bắc

Ngôn ngữ của họ cũng dần dần hình thành các

phương ngữ do tình trạng du canh, du cư và do tiếp

xúc, giao thoa với các ngôn ngữ khác trong vùng;

đặc biệt là những ngôn ngữ trong nhóm Bahnar

Nam

Hiện nay, trên lãnh thổ Việt Nam, về cơ bản

tiếng Stiêng có hai phương ngữ chính: Bu Lơ và Bu

Deh Bu Lơ là tiếng nói của nhóm Stiêng trước đây

thường cư ngụ trên các vùng cao (Bu Lơ nghĩa là

“người vùng cao”), hiện sống tập trung tại các

huyện Phước Long, Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Gia

Mập Bu Dêh là tiếng nói của nhóm Stiêng trước

đây thường cư ngụ ở vùng đồng bằng hoặc trảng cỏ

(Bu Deh nghĩa là “người vùng thấp”), nay sống tập

trung tại các huyện Bình Long, Lộc Ninh, Đồng

Phú, Chơn Thành, Hớn Quản và thị xã Đồng Xoài

Trong quá trình cộng cư, xen cư, người Stiêng đã có

những tiếp xúc mật thiết với người Mnông ở phía

Bắc; người Kơho, Mạ và Chrau ở phía Đông; người

Việt và Khmer ở phía Đông và Đông Nam Hiện

tượng giao thoa ngôn ngữ diễn ra trong một khoảng

thời gian dài và khá phức tạp do tập quán du canh

du cư có thể để lại dấu ấn trong hai phương ngữ Bu

Lơ và Bu Deh, đặc biệt là trên bình diện từ vựng

Tuy nhiên theo chúng tôi sự khác biệt về ngữ âm là

rất ít Hơn nữa, tính thống nhất phương ngữ ngày

càng mạnh từ sau khi đất nước thống nhất Chính

sách định canh định cư, cùng với tác động của giáo

dục, truyền thông - đặc biệt là sự ra đời của chương

trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Stiêng đã

tác động mạnh mẽ đến ngôn ngữ Stiêng, đang làm

mờ dần sự khác biệt giữa hai phương ngữ

2.2 Về nhóm Bu Lac (hay Bù Lạch, Bù Lách

theo cách viết của tiếng Việt), thì tình hình là khá

phức tạp Có ba ý kiến về nhóm Bu Lac như sau:

- Người Lac là một tộc người riêng (Lã Văn Lô,

Nguyễn Hữu Thâu, Mạc Đường – 1959);

- Người Lac thuộc tộc người Kơho (G Hickey - 1967); Touhnen Hàn Thọ - 19701 và các tác giả

Mạc Đường, Nguyễn Thị Hoà, Nguyễn Văn Diệu, Phan Ngọc Chiến trong chuyên khảo Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng;

- Người Lac là một nhóm của tộc người Stiêng (các tác giả Mạc Đường, Đinh Văn Liên,… trong chuyên khảo Vấn đề dân tộc ở Sông Bé với tên gọi

Bu Lach hay Bu Lập)

Cuối tháng 1 năm 1993, chúng tôi đã có một đợt điền dã ngắn tại xã Lát (đây cũng là một cách viết khác của Lac do người Việt không thể phát âm phụ

âm cuối ngạc /-c/ nên phụ âm này thường được chuyển thành /-t/ khi viết cũng như nói), thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng Cộng đồng người Lac ở đây cho rằng họ là một tộc người riêng chứ không phải là người Kơho Họ khẳng định tổ tiên người Lac từ bao đời nay sống trên cao nguyên Lang Bian, và là dân tộc bản địa đầu tiên tiếp xúc với người Pháp2

Đối chiếu 281 từ cơ bản theo bảng từ của Swadesh giữa tiếng Lac mà chúng tôi thu thập được tại xã Lát với tiếng Stiêng (thu thập tại huyện Phước Long, tỉnh Sông Bé, nay là tỉnh Bình Phước), Mnông (thu thập tại huyện Lắc, tỉnh Đắc Lắc), Kơho (thu thập tại huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng)

và Chrau (thu thập tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), chúng tôi nhận thấy tỷ lệ từ giống nhau giữa các ngôn ngữ này như sau:

(59,07%)

221 (78,64%)3

167 (59,43%)

176 (62,63%)

Theo chúng tôi, quan điểm cho rằng Lac là một phương ngữ của tiếng Stiêng không phải là không

có cơ sở khi ta biết rằng địa bàn cư trú của người Stiêng thuở ban đầu là vùng đất kéo dài từ biên giới

1

Dẫn theo Mạc Đường [5;27-29]

2 Bác sĩ A Yersin đã dừng chân tại làng Đankia của người Lac vào ngày 21/6/1893, sau đó tìm ra vùng đất hiện nay là Đà Lạt (tức Da Lac – suối của người Lac)

3

Số liệu thống kê của Tạ Văn Thông là 228/281 – 82,9% [16;67]

Trang 5

Trang 35

Campuchia đến Đồng Nai, Lâm Đồng Nhiều tác

giả trong Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng dựa vào tư

liệu của các nhà nghiên cứu người Pháp để kết luận

như vậy Những tư liệu này có giá trị bởi người

Pháp đã đặt chân đến Tây Nguyên và Đông Nam

Bộ từ rất sớm, lúc đó sự phân bố địa bàn cư trú của

các dân tộc ít người ở đây gần như còn nguyên hiện

trạng Tuy nhiên như đã nói ở trên, do sống xen cư,

cộng cư nên đã diễn ra hiện tượng giao thoa và hội

tụ văn hoá, ngôn ngữ giữa nhóm người Lac với tộc

người Kơho Tỷ lệ từ giống nhau rất cao giữa tiếng

Lac và Kơho là minh chứng của sự giao thoa này

Trong tình hình hiện nay, xếp nhóm Lac vào tộc

người Kơho là phù hợp hơn4

2.3 Nhóm Bu Biăt (hay Bu Biêk, Bu Biek, Bu

Biêt, Bu Dip) đã từng sinh sống tại vùng biên giới

Việt Nam – Campuchia Sau năm 1975, đại bộ phận

người Bu Biăt đã chuyển sang định cư bên kia bờ

sông Đắc Quýt thuộc lãnh thổ Campuchia Năm

1985, tại huyện Phước Long, chùng tôi đã có dịp

tiếp xúc với một số người Biăt đang cư trú ở

Campuchia Họ tự nhận là người Stiêng Ngôn ngữ

của họ về cơ bản giống tiếng Stiêng Bu Deh Hiện

nay, người Bu Deh ở huyện Lộc Ninh của Bình

Phước và người Bu Biăt ở Campuchia thường

xuyên qua lại trao đổi, mua bán với nhau5

3 Sự tương đồng và dị biệt giữa hai phương

ngữ Bu Lơ và Bu Deh

3.1 Về mặt ngữ âm

3.1.1 Độ dài của từ ngữ âm

Có thể thấy rõ độ dài của từ ngữ âm giữa hai

phương ngữ là không tương đồng Trong nhiều

4 Tình hình cũng tương tự nhóm người Chil Theo các tài liệu cổ

thì người Chil vốn là một nhóm của tộc người Mnông, sinh sống

chủ yếu tại các vùng cao của tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông hiện

nay Nhóm Chil sau đó di chuyển dần về phía Nam và Đông

Nam, vượt sông Krông Knô để vào vùng Đạ Tẻ thuộc huyện

Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng Do cộng cư với các nhóm địa

phương thuộc tộc người Kơho trong một thời gian dài cho nên có

nhiều người Chil tự nhận là Chil – Kơho Hiện nhóm Chil ở Lâm

Đồng đông hơn cả nhóm Chil ở Đắc Lắc cho nên nhiều người đề

nghị xếp Chil vào tộc người Kơho

5 Trong tộc người Mnông cũng có nhóm Mnông Biăt/Biêt Theo

chúng tôi, hiện tượng này giống như trường hợp nhóm Lac và

nhóm Chil đã trình bày ở trên

trường hợp, đấy là những biến thể ngữ âm của cùng một từ nhưng độ dài khác nhau do quá trình đơn tiết hoá không đồng đều; chẳng hạn:

rơweh, rơhuôiq rơwaih ruồi

Về cơ bản, quá trình đơn tiết hoá phương ngữ

Bu Lơ có phần nhanh hơn so với phương ngữ Bu Deh Thống kê 1050 từ cơ bản giữa hai phương ngữ, chúng tôi nhận thấy phương ngữ Bu Lơ có 121

từ đa tiết (chiếm tỷ lệ 11,52%), trong khi phương ngữ Bu Deh có 196 từ (18,66%) Có thể nhận ra hàng loạt tương ứng giữa hai phương ngữ; chẳng hạn:

[mă] (Bu Lơ) ∞ [smă] (Bu Deh) “trăng” [th] (Bu Lơ) ∞[sth] (Bu Deh) “đất”

[ur] (Bu Lơ) ∞ [duh] (Bu Deh) “vợ, nữ” [j] (Bu Lơ) ∞ [sj] (Bu Deh) “nói”

Ngoài việc có mặt/không có mặt của tiền âm tiết trong từ ngữ âm, sự khác biệt của tiền âm tiết giữa hai phương ngữ tuy khá lớn nhưng không theo một nguyên tắc nhất định nào cả ở âm đầu, âm cuối lẫn nguyên âm của tiền âm tiết Nguyên âm của tiền âm tiết luôn luôn là một nguyên âm trung hoà, không mang trọng âm; âm đầu có thể là một âm tắc, một

âm xát, hay một âm vang như bảng bên dưới, trừ 4 phụ âm /w-/, /b-/, /d-/, /j-/; âm cuối là một trong các phụ âm vang /-r/, /-l/, /-m/, /-n/

3.1.2 Phụ âm đầu của âm tiết chính

Về đại thể, hệ thống phụ âm đầu của âm tiết chính trong hai phương ngữ Stiêng không khác nhau lắm, đều có 21 phụ âm đầu như bảng dưới đây:

Trang 6

Trang 36

Bảng 2 Hệ thống phụ âm đầu của âm tiết chính trong tiếng Stiêng

Sự khác biệt về phụ âm đầu giữa hai phương

ngữ không quá lớn Chúng tôi ghi nhận được một số

tương ứng sau đây:

3.1.2.1 Trong phương ngữ Bu Lơ ghi nhận tại

huyện Bù Đăng, đặc biệt là tại xã Đoàn Kết, hai phụ

âm xát /s-/ và tắc bật hơi /ch-/ đang được sử dụng

luân phiên; ví dụ:

[si] ∞ [chi] “cây”

[sal] ∞ [chal] “gió”

[sik] ∞ [ch

ik] “ho”

[sk] ∞ [chk] “tóc”

Trong phương ngữ Bu Deh, phụ âm /ch-/ xuất

hiện với tần suất nhiều hơn hẳn so với phương ngữ

Bu Lơ Tương ứng /ch-/ - /s-/ khá phổ biến trong các

ngôn ngữ Bahnar Nam Theo Henry F Blood, phụ

âm đầu */s-/ trong ngôn ngữ Tiền Bahnar Nam

(Proto South Bahnaric) đã chuyển biến thành /ch-/

trong tiếng Bunơr, một phương ngữ của tiếng

Mnông ở Quảng Đức Ông cho rằng có sự luân

phiên /s-/ ∞ /ch-/ hoặc /s-/ ∞ /nch-/ trong phương

ngữ này; trong đó biến thể /ch-/ hoặc /nch-/ phổ biến

hơn Ví dụ:

*sung > sung ∞ chung “rìu”

*se > nse ∞ nche “dây”

*syăm > nsyăm “nuôi” [3;21-22]

Kenneth D Smith cũng thấy hiện tượng này

trong các ngôn ngữ Bahnar Bắc:

*aseh (Tiền Bahnar Bắc) > cheh (Mon) “ngựa”

*sùt (Tiền Bahnar Bắc) > chut (Brũ) “(lau) chùi”

[13;79, 81]

3.1.2.2 Cũng tại xã Đoàn Kết, phụ âm tắc /b/ có khi được sử dụng luân phiên với phụ âm xát môi – răng /v/ hoặc môi – môi //; ví dụ:

[ba] ∞ [va] ∞ [] “lúa”

[bok] ∞ [vok] ∞ [ok] “đầu”

[br] ∞ [vr] ∞ [r] “rang”

3.1.2.3 Trong phương ngữ Bu Dêh ghi nhận tại các xã Lộc An, Lộc Thành, Lộc Hoà thuộc huyện Lộc Ninh, phụ âm xát môi-mạc /w/ được thể hiện như phụ âm xát môi [v] Biến thể này thể hiện rất rõ

và đồng loạt trong nhóm người trẻ tuổi; ví dụ: [kwam] > [kvam] “cằm”

[wk] > [vk] “xoáy (tóc)”

[wim] > [vim] “(mồm) mép”

Hiện tượng này cũng xuất hiện trong phương ngữ Bu Lơ nhưng ở mức độ hẹp hơn

Ngoài ra chúng tôi thấy nhiều từ trong tiếng Bu

Lơ có âm đầu là /w/ thì trong tiếng Bu Deh, yếu tố môi trong /w/ được thể hiện ở âm lướt; ví dụ: [waj] (Bu Lơ) - [swaj] (Bu Deh) “xoài”

[rwh] (Bu Lơ) - [rwajh] “voi”

[prwak] (Bu Lơ) - [kwak] “nách”

3.1.2.4 Trong phát âm của những người trẻ tuổi

đã xuất hiện các âm quặt lưỡi luân phiên với âm bẹt lưỡi tương ứng như [s] ∞ [], [tr] ∞ [] Đây có thể

là kết quả của sự giao thoa với tiếng Việt; ví dụ: [sre] ∞ [re] “ruộng”

[trăw] ∞ [ăw] “rau, canh”

3.1.2.5 Có sự tương ứng giữa cặp phụ âm hữu thanh – vô thanh /g/ - /k/ giữa hai phương ngữ: [klh] (Bu Lơ) ∞ [glh] (Bu Deh) “ngắn”

Trang 7

Trang 37

[sngr] (Bu Lơ) ∞ [snkr] (Bu Deh) “đường

(ăn)”

[kiw] (Bu Lơ) ∞ [giw] (Bu Deh) “trái (phải)”

Đây là hiện tượng đã từng xảy ra trong tiếng

Việt: (trốc) cúi > (đầu) gối; cấu > gạo; cấy/cái >

gái, Tuy nhiên, sự khác biệt ở đây là trong tiếng

Việt // là âm xát, còn trong tiếng Stiêng /g/ là âm

tắc

3.1.3 Nguyên âm của âm tiết chính

3.1.3.1 Về mặt số lượng, cả hai phương ngữ Bu

Lơ và Bu Deh đều có 17 âm vị nguyên âm; gồm 9

nguyên âm dài, 6 nguyên âm ngắn và 2 nguyên âm

đôi như dưới đây:

i/ i  u/u

3.1.3.2 Phương ngữ Bu Deh, rõ nhất là tại Lộc

Ninh, đang dần hình thành một nguyên âm đôi mới,

đó là // Chúng tôi nhận thấy có sự tương ứng

khá rõ giữa [] (Bu Lơ) – [] (Bu Deh):

[gm] – [gm] “cười”

[cr] – [c] “vây cá”

[dp] – [ndp] “đuổi theo”

[kml] – [kml] “súng”

3.1.3.3 Có sự tương ứng giữa /u/, /u/ (Bu Lơ) –

/o/ (Bu Deh):

[lhu] – [lho] “đu đủ”

[tuh] – [toh] “đậu phọng’

[luh] – [loh] “ra”

[muh] – [moh] “mũi”

Cũng có tương ứng ngược lại, giữa /o/ (Bu Lơ) –

/u/, /u/ (Bu Deh), nhưng ít gặp hơn, như:

[sor] – [sur] “lợn”

[do] – [du] “nong (nia)”

[sot] – [sut] “nhọn

iv Có sự tương ứng khá rõ giữa /u/, /u/ (Bu Lơ)

– // (Bu Deh):

[rpu] – [kb] “trâu”

[pu] – [p] “bế, bồng”

[ul] – [bl] “say”

3.1.3.4 Có sự tương ứng qua lại giữa các nguyên âm có cùng độ mở /i/, // của hai phương ngữ Nguyên âm // không có sự khu biệt trường

độ về mặt âm vị học, nhưng trong các âm tiết có âm cuối, âm vị này hầu như được thể hiện với trường

độ ngắn Khi đó, sự phân biệt giữa [i] – [] chỉ có tính chất tương đối

[si] (Bu Lơ) – [st] (Bu Deh) “về”

[j] Bu Lơ) – [ji] (Bu Deh) “may vá”

3.1.4 Âm cuối của âm tiết chính

3.1.4.1 Hệ thống âm cuối của cả hai phương ngữ Bu Lơ và Bu Deh bao gồm 15 âm vị sau đây: /-p/, /-t/, /-c/, /-k/, /-/, m/, n/, /, /, j/, w/, /-s/, /-r/, /-l/, /-h/

Ngoài ra, âm cuối có thể là một tổ hợp phụ âm, gồm một bán nguyên âm và một âm thanh hầu /-j/, /-jh/, tuy nhiên tần số rất thấp

3.1.4.2 Về tổ hợp /-j/ thì trong 1050 từ cơ bản

trong phương ngữ Bu Deh mà chúng tôi thu thập được chỉ có duy nhất 1 từ có âm cuối là /-j/, đó là /hj/ “ít” Ngoài ra còn có một số ít từ có cách phát âm tổ hợp âm cuối /-j/ được thể hiện luân phiên với cách phát âm cổ /*-c/ như:

Cổ Hiện đại Nghĩa [rhoc] [rhuj]/[rhuj] Voi [kmoc] [kmuj] Xác

Cứ liệu ngữ âm học lịch sử của nhiều ngôn ngữ Nam Á và cả Nam Đảo cho thấy tổ hợp /-j/ là hình thái hậu kì của */-c/ Chẳng hạn Ernest W Lee đã cho rằng */-c/ trong ngôn ngữ Tiền Chăm chính là tiền thân của /-j/ trong tiếng Raglai và /-y/ trong tiếng Chăm [11] Hiện tượng vừa nêu cho thấy nhận định này của Ernest W Lee là có cơ sở Từ /hj/

“ít” (Bu Deh) ở trên được thể hiện là /hc/ trong tiếng Bu Lơ

3.1.4.3 Cũng như thế, /-jh/ và /-h/ là hình thái

sau của */-s/ Hiện nay, tiếng Bu Lơ vẫn còn giữ lại

âm cuối /-s/, nhất là thổ ngữ Bu Lơ ở Phước Long Tiếng Bu Deh đã được hiện thực hoá như /-jh/ Thổ ngữ Bu Lơ ở Bù Đăng có thể xem là hình thức quá độ trong quá trình chuyển biến từ *s/ >

Trang 8

/-Trang 38

jh/: Ở đây đang song hành cả hai biến thể / và

/-jh/; trong đó /-jh/ có phần ưu thế hơn Tính trung

gian của thổ ngữ Bu Lơ ở Bù Đăng còn thể hiện ở

chỗ: Nếu thổ ngữ Bu Lơ ở Phước Long có âm cuối

là /-s/ (cổ); thổ ngữ Bu Lơ ở Bù Đăng là /-jh/ thì phương ngữ Bu Deh là /-h/

Ví dụ:

Bù Lơ Phước Long

Bù Lơ

Bù Đăng

Bù Deh Lộc Ninh

Bu Deh Bình Long Nghĩa

Có thể hình dung quá trình biến đổi lịch sử của

phụ âm cuối /*-s/ trong các phương ngữ tiếng

Stiêng theo tiến trình như sau:

*/-s/ /-jh/ /-h/

Bu Lơ Bu Lơ Bu Deh

Phước Long Bù Đăng

3.1.4.4 Dễ dàng tìm thấy sự tương ứng /-k/ - /-/ giữa hai phương ngữ Bu Lơ và Bu Deh hoặc giữa các thổ ngữ trong 1 phương ngữ Đây là hiện tượng phổ biến trong nhiều ngôn ngữ Nam Á và cả Nam Đảo

Ví dụ:

Bù Lơ

Phước Long

Bù Lơ

Bù Đăng

Bù Deh Lộc Ninh

Bu Deh Bình Long Nghĩa

Henry F Blood cho rằng /-/ trong các ngôn

ngữ Mnông, Kơho, Chrau là sự phản chiếu của */-k/

trong ngôn ngữ Tiền Bahnar Nam [3;17-18] Ông

đã đưa ra danh sách gồm 24 từ có sự tương ứng

*/-k/ (Tiền Bahnar Nam) - /-/ (Chil, Kơho Chil, Srê,

Chrau) Điều này đúng với cả tiếng Stiêng, một ngôn ngữ trong nhóm Bahnar Nam Trong 24 từ nêu trên, chúng tôi ghi nhận có 4 trường hợp trong tiếng Stiêng, đó là /bok/, /dok/, sek/, /sk/, có tương ứng như vậy

3.1.4.5 Có sự tương ứng giữa /-t/ - /-k/ giữa 2 phương ngữ Ví dụ:

Trang 9

Trang 39

Henry F Blood có nhắc đến hiện tượng gần

giống như vậy; đó là */-t/ > /-/; chẳng hạn: Tiền

Bahnar Nam: */sit/ “trở về” > Chrau, Stiêng: /si/

[3;19]

3.1.4.6 Chúng tôi cũng tìm thấy sự tương ứng hàng loại giữa âm cuối zéro trong phương ngữ Bu

Lơ với /-j/, /-w/ trong phương ngữ Bu Deh khi nguyên âm của âm tiết chính là /e/, //, /o/, // Ví dụ:

Bù Lơ

Phước Long

Bù Lơ

Bù Đăng

Bù Deh Lộc Ninh

Bu Deh Bình Long Nghĩa

Trong nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á, nhất là tại

Đông Dương, các nguyên âm có tính chất âm học

và cấu âm gần nhau thường không kết hợp với

nhau Tuy nhiên, không phải là hoàn toàn vắng

bóng những kết hợp như thế; chẳng hạn:

Tiếng Katu: ajệi “cậu”, jệi “chăm chỉ”, kadhệi

“che”, luôu “vừa” [10];

Tiếng Khmer: diêj ây “cái gì” [4];

Tiếng Brũ – Vân Kiều: tiễih “bảo”, piễiq “trúng,

đúng”, kơah “bên”, mpơaq “cha” [17];

Tiếng Mnông: abaơ “bây giờ”, akuơư “sưng”

[15]

Hai tác giả Ralph và Lorraine Haupers đã đưa

vào Từ điển Stiêng – Anh hàng loạt những từ như

bêy “giống như”, mêy “mạ”, blôw “một loài cá”,

rklôw “cục, hòn” Như vậy sự có mặt của các vần

/-ej/, /-j/, /-ow/, /-w/ trong phương ngữ Bu Deh là chuyện bình thường

3.1.5 Ngôn điệu

Nhìn chung, sự khác biệt về ngôn điệu giữa hai phương ngữ là không lớn Trong phương ngữ Bu

Lơ, chỉ những âm tiết có âm đầu (của tiền âm tiết và/hoặc âm tiết chính) thuộc nhóm phụ âm hữu thanh /b-/, /d-/, /j-/, /g-/ mới được phát âm với âm vực thấp Tuy nhiên ở phương ngữ Bu Deh, khá nhiều âm tiết không thuộc trường hợp vừa nêu cũng được phát âm với âm cvực thấp; chẳng hạn:

[tm] “thân (cây)”

[trèt] “dế”

[sòw] “chó”

[lmr] “mồng (gà)”

Trang 10

Trang 40

Có thể phương ngữ Bu Deh đang manh nha một

yếu tố khu biệt mới để bù đắp cho những biến động

do quá trình đơn tiết hoá gây ra Hiện tượng này

giống với một vài phương/thổ ngữ trong tiếng Kơho

như Chil, Srê và tiếng Mạ

3.2 Về mặt từ vựng

3.2.1 Theo ý kiến của người bản ngữ, tiếng Bu

Lơ ở huyện Phước Long và ở huyện Bù Đăng là

khác nhau Tương tự như thế là tiếng Bu Deh ở hai

huyện Bình Long và Lộc Ninh Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tại các huyện này và thu được kết quả như sau: Trong 1050 từ cơ bản (bảng từ do Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp, nay là Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn lập trên cơ sở bảng từ của Swadesh) thì số lượng từ giống nhau giữa các nhóm này được thể hiện qua Bảng 3

Bảng 3 Số lượng từ giống nhau giữa các nhóm Stiêng

Bu Deh Bình Long 1021 (97,23%)

Bu Deh Lộc Ninh Như vậy, hầu như không có sự khác biệt giữa

các nhóm Bù Đăng, Phước Long thuộc phương ngữ

Bu Lơ (chỉ khác nhau 4,19%) và các nhóm Bình

Long, Lộc Ninh thuộc phương ngữ Bu Deh

(2,77%) Riêng hai phương ngữ Bu Lơ và Bu Deh

thì tỷ lệ từ khác nhau trung bình là 27,43% Trong

đó sự khác biệt lớn nhất là giữa thổ ngữ Bu Lơ Bù

Đăng và Bu Deh Lộc Ninh (31,82%) Sự khác biệt

từ vựng giữa hai phương ngữ như vậy là không quá

lớn Điều này cho thấy từ vựng giữa hai phương

ngữ Stiêng có sự thống nhất cao, khác với kết luận

của một số nhà nghiên cứu cho rằng sự khác biệt là

đáng kể

3.2.2 Ở đây cũng cần nói rõ thêm về dư luận

liên quan đến khả năng tiếp nhận thông tin của

nhóm người Bu Deh đối với chương trình phát

thanh tiếng Stiêng trên Đài Phát thanh - Truyền

hình Bình Phước Khi được hỏi về khả năng hiểu tin

phát trên đài, một số bà con người Bu Deh cho biết

không hiểu lắm, và tỏ vẻ không bằng lòng khi thấy

Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Phước chọn phát

thanh viên là người Bu Lơ Khảo sát bản tin tiếng

Stiêng, chúng tôi thấy người viết đã sử dụng trộn

lẫn từ vựng của cả hai phương ngữ, thậm chí ngay

trong 1 bài viết, thay vì chỉ sử dụng từ phương ngữ

Bu Lơ Như vậy, vấn đề không phải là ở từ vựng

phương ngữ Về ngữ âm, hai phương ngữ này cơ bản giống nhau như đã trình bày Có lẽ, bà con nhóm Bu Deh cho rằng không nghe được bản tin chủ yếu là ở vấn đề tâm lý chứ không hẳn là do sự khác biệt về ngữ âm hay từ vựng giữa hai phương ngữ Về sự thể hiện, việc các phát thanh viên đọc bản tin quá nhanh cho kịp thời lượng quy định cũng ảnh hưởng đến khả năng nắm bắt thông tin của người nghe Mặc khác, một nguyên nhân nữa có thể ảnh hưởng đến chất lượng bản tin là việc phóng viên/biên tập viên khi viết/dịch tin, bài (từ tiếng Việt sang tiếng Stiêng) đã dùng chữ Quốc ngữ (tiếng Việt) để ghi âm tiếng Stiêng với nhiều biến thể khác nhau rất tuỳ tiện khiến phát thanh viên lúng túng dẫn đến đọc sai

4 Kết luận

So với các ngôn ngữ trong nhóm Bahnar Nam, tiếng Stiêng không phức tạp lắm về phương ngữ Stiêng là một ngôn ngữ thuần nhất, ít biến thể, nhất

là trong từng nhóm Điều này cho thấy có thể tộc người Stiêng không có nhiều thay đổi về nơi cư trú hoặc nếu có thì việc du canh du cư không ảnh hưởng lớn đến tính thống nhất ngôn ngữ, do họ di chuyển nguyên cả buôn làng, không di cư theo từng nhóm nhỏ hoặc do họ vẫn liên lạc, tiếp xúc thường xuyên với nhau

Từ khóa » Tiếng Stiêng